Phượng hoàng đậu chốn cheo leo, Gặp khi bão táp phải theo đàn gà.
Người mà Đào Kỳ gọi là quái nhân đó, thực sự là đệ nhất cao nhân võ học đương thời, họ Lê tên Đạo Sinh. Lê Đạo Sinh là người của phái Tản-viên. Ông hiện là Thái sư thúc của chưởng môn Đặng Thi Sách, và Trưng Trắc, Trưng Nhị. Võ công ông cao thâm không biết đâu mà lường. Thái-thú Tích Quang thấy ông nhiều uy tín, mời ông ra lĩnh chức đô úy, chỉ huy toàn bộ binh mã Giao-chỉ. Ông thu nhận tất cả mười đệ tử, nhưng người đời chỉ biết tên có tám người. Còn hai người, thì không ai biết hành tung của họ ra sao, tên họ là gì. Học trò ông đều được Tích Quang trọng dụng. Sáu người hiện lĩnh chức huyện uý của sáu huyện Giao-chỉ. Tính tình ông khiêm khiêm, nhã nhặn. Người chính phái hay tà phái, ông cũng giao du, coi như nhau. Tuy lĩnh chức Đô-úy, nhưng ông hay cứu giúp người bị nạn. Các học trò của ông làm huyện úy cũng theo gương ông. Vì vậy dân chúng Giao-chỉ ít nổi dậy chống Tích Quang. Đất Giao-chỉ trải qua một thời gian dài thanh bình. Giới võ lâm Lĩnh Nam đặt cho ông tên hiệu là Lục-trúc tiên sinh, vì trong Kinh thi có bài thơ ca tụng người quân tử như sau: Chiêm bỉ kỳ úc, Lục trúc a a, Hữu phỉ quân tử, Như thiết như tha. Bài thơ Lục-trúc trong kinh Thi, có nghĩa là: Hãy coi kìa cây trúc xanh, lá tươi tốt. Có người quân tử đầy lòng quảng đại. Vì ảnh hưởng của kinh Thi cho nên sau này người ta dùng cây trúc tượng trưng cho người quân tử.
Thời bấy giờ, thì nước Việt bị chia ra làm sáu quận: Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam, Nam-hải, Quế-lâm, và Tượng-quận. Mỗi quận có một Thái-thú đứng đầu, coi về cả hành chánh lẫn quân sự. Một Đô-sát sẽ coi về tế tác, tương đương như ngày nay là cảnh-sát, công-an. Mỗi quận lại chia làm nhiều huyện. Mỗi huyện có một Huyện-lệnh, đều là người Hán, do triều đình Hán cử sang. Dưới Huyện-lệnh có một Huyện-úy chỉ huy về quân sự. Trước kia thì chỉ người Hán mới giữ đó. Từ ngày Lĩnh-nam công, Bình-nam đại tướng quân được phong cai trị Lĩnh-Nam, ông là người nghĩa hiệp, muốn hoà giải thù hận Hán, Việt, cũng trọng dụng người hiền tài, ông ra lệnh cho các Thái-thú, mời những người trong võ lâm, tài đức ra làm Huyện-úy. Cạnh Huyện- lệnh còn có sở Tế-tác, đặt dưới quyền một giám sở. Hầu hết là người Hán. Dưới Huyện-lệnh là các trang, các ấp. Mỗi trang, ấp được cai quản bởi một Lạc-hầu, Lạc-tướng nếu là đồng bằng. Còn lại miền rừng núi thì lại chia ra làm châu, động, được cai quản bởi Châu-trưởng, Động-trưởng. Các chức Lạc-hầu, Lạc-tướng, Châu, Động- trưởng có tính cách cha truyền con nối. Mỗi vị cai trị dân của mình như một nước riêng biệt. Lê Đạo Sinh làm chủ trang Thái-hà ở vùng Long- biên. Trang này lưu truyền từ cha đến con đã mấy đời. Cho nên người ta còn gọi ông là Thái-hà hầu. Hôm nay Lê Đạo Sinh dạo chơi chợ Long-biên, thấy bọn quân Hán tàn sát dân chúng, rồi Đào Kỳ, Giao Chi, Nguyễn Tam Tín và Thiều Hoa can thiệp. Quan sát qua, ông cũng biết đó là những đệ tử danh gia. Ông cho đệ tử là Hoàng Đức, Huyện-uý Long-biên bắt Đào Kỳ về tra hỏi. Đào Kỳ dùng mưu trốn thoát, ông theo dõi bắt nó về, để hỏi cho ra nguồn gốc, hầu che chở cho nó. Đào Kỳ vào Thái-hà trang, nó liếc mắt nhìn qua, thấy rộng lớn hơn Mai-động đã đành, có mòi còn lớn hơn Đào trang nhà nó nữa. Nhà cửa trong trang đều xây bằng gạch nung, mái lợp bằng cỏ gianh, tường quét vôi trắng. Cứ mỗi nhà lại có cái cổng vào riêng. Trong cổng là một cái sân trồng cây ăn trái, hay hoa. Trước nhà là một đống rơm, sau mỗi căn nhà có một cái nhà nhỏ để làm bếp, làm chuồng trâu, nuôi gia súc. Cứ nhìn qua, nó cũng biết Thái-hà trang rất giàu. Lê Đạo Sinh thấy nó nhìn ngơ ngác thì hỏi: - Mi thấy Thái-hà trang của ta so với Đào trang của ngươi thế nào?
Đào Kỳ đáp sự thực: - Tôi mới coi qua thì thấy dường như rộng lớn, giàu có hơn. Sự thực thế nào thì tôi chưa biết được. Tới một dinh thự lớn, nằm giữa khu vườn rộng, Lê Đạo Sinh giới thiệu với Đào Kỳ: - Đây là nhà của lão phu. Đào Kỳ nhìn phía ngoài là một cái cổng lớn, có ba cửa. Cột cửa cổng bằng gỗ lim, chạm xà cừ óng ánh. Nóc cổng lợp ngói xanh. Cổng giữa có hai cánh cửa cũng bằng gỗ, trên cạnh cửa có chạm hình hai con hổ vờn nhau. Hai cánh cổng hai bên, nhỏ hơn một chút. Nối tiếp cổng là hàng rào bằng trúc, cắt tỉa cầu kỳ thành hình hai con hạc chầu vào cổng. Ngoài cổng có gia đinh đứng gác. Chúng thấy Đạo Sinh thì mở rộng cửa giữa cho ông đi vào. Trong cổng là một cái sân lớn, giữa sân có cái ao rộng, nước trong veo, trồng đầy sen. Trên bờ ao, là những phiến đá xanh mỏng lớn, đặt sát nhau thành một đường đi. Từ cổng vào, hai con đường đi vòng qua hai bờ ao, dẫn đến một ngôi nhà lớn. Ngôi nhà xây bằng gạch, cao hai tầng, mái lợp ngói xanh. Ngôi nhà hai tầng được nối với hai dãy nhà dài đến mười gian. Trước nhà có hàng hiên chạy dài. Đi qua hai dãy nhà này, ra phía sau, có hàng chục dãy nhà khác. Đào Kỳ nhìn không biết chán, nó nghĩ: - Lê tiên sinh giàu gấp mấy bố mình. Coi kiến trúc này, thì tiên sinh có thua gì phủ Thái thú Cửu- chân đâu? Đạo Sinh dẫn Đào Kỳ vào đại sảnh đường, gặp một lão già tuổi trên 50, Đạo Sinh giới thiệu với nó: - Lão phu lớn tuổi rồi, lại hay tiêu dao sơn thuỷ, ít chú ý đến việc đời, vì vậy trang Thái-hà này do đại đệ tử của lão là Lê Đức Hiệp trông coi. Người đã thua lão phu, muốn tỏ ra anh hùng hảo hán thì phải chịu sự chưởng quản của Đức Hiệp.
Lão giới thiệu Đào Kỳ với Đức Hiệp: - Này Đức Hiệp, ta giới thiệu với con, đây là tên nô bộc mới của ta. Nó thuộc con nhà danh gia, võ công cũng khá. Ta dùng nó vào việc tưới cây cảnh trong dinh này. Con kiếm cho nó một phòng ở sạch sẽ. Ăn uống, thì cho nó ăn uống như những nô bộc hạng nhất. Tuy vậy không được coi nó là nô bộc như những người khác. Nó được tự do đi lại, tiền lương bổng thì trả cho nó gấp ba. Nếu nó cần chi tiêu thêm thì có thể cho gấp mười. Đúng ra thì nó bị xử tử hình. Ta đứng ra bảo lĩnh nên nó không bị giết. Ta giữ nó trong trang mục đích để an toàn cho tính mệnh nó, khỏi bị người Hán truy lùng. Đợi sau này tìm được cha mẹ nó thì giao trả. Đạo Sinh bảo Đào Kỳ: - Ngươi không dùng tên Đào Kỳ được nữa rồi. Nếu ngươi giữ nguyên họ Đào thì e khó che mắt bọn quân Hán. Hồi sáng, ngươi xưng là Văn-Lang vậy ta cứ gọi ngươi là Văn-Lang. Đào Kỳ đi theo Đức Hiệp. Nó được dẫn đi qua bảy dãy nhà khác nhau, tới dãy thứ tám thì lão lấy chùm khìa khoá mở một căn phòng ra chỉ cho nó: - Chú em, đây là phòng chú. Luật lệ trong trang là giờ Mão thì điểm danh. Sau đó ăn cơm sáng, và bắt đầu làm việc. Giờ Ngọ thì ăn cơm trưa. Đến giờ Thân nghỉ, ăn cơm chiều. Cơm chiều xong thì tự do, ai muốn làm gì thì tuỳ ý. Đào Kỳ nhìn vào trong phòng thấy có một cái phản, trên phản trải chiếu, phòng có cửa sổ mở ra sân. Trên bàn có một cái đèn dầu. Nó bước vào phòng cất đồ. Treo thanh kiếm lên tường. Cây côn đồng, nó để lên giường. Đức Hiệp vẫy tay cho nó đi theo, chỉ cho nó chỗ ăn cơm, phát cho nó hai bộ quần áo màu xanh, bảo nó: - Nô bộc ở đây đều mặc quần áo màu xanh cả. Chú phải thay quần áo đi.
Lão chỉ về phía sau, có bốn căn nhà nối nhau theo hình vuông, ngoài có hàng rào tre kiên cố, cửa vào tráng đinh canh phòng nghiêm ngặt dặn nó: - Kia là cấm địa. Nếu chú tới đó, thì đệ tử của lão gia sẽ đánh chú què chân. Chú phải nhớ đừng quên mà nguy tai. Đào Kỳ nhủ thầm: - Cái gì mà là cấm địa. Đã vậy ta phải dọ thám xem cho biết mới được. Kể từ hôm đó, Đào Kỳ chuyên tưới hoa, cắt xén cây cảnh trong vườn. Ngày ngày theo bọn nô tỳ ăn uống. Lúc rỗi nó dạo khắp trang. Nó khám phá ra trang lớn gấp mấy Đào trang nhà nó, tráng đinh ít ra cũng vài ngàn. Nhân khẩu có tới hơn vạn. Dân chúng nhà nào cũng giàu có, nuôi trâu, nuôi lợn, gà rất nhiều. Nó đến góc phía Đông thì thấy một dãy nhà, trong dãy có bọn thợ rèn đang rèn cuốc, dao, cày, búa. Ban ngày làm việc, tối đến, nó đóng cửa lại luyện võ. Thỉnh thoảng nó ra ngoài trang chơi, hỏi thăm đường đi Cổ-loa. Người ta chỉ cho nó biết rằng Cổ-loa cách đây khoảng một ngày đường mà thôi. Nó định hôm nào xin phép lão Đức Hiệp đi Cổ-loa để tìm tin tức cha mẹ. Một hôm Đức Hiệp bảo nó: - Dưới ao sen đàng trước có mấy cây bèo, vậy chú lội xuống vớt lên, vì để lâu bèo sinh ra nhiều, thì khó vớt. Nó nhảy xuống ao vớt bèo. Nhân tiện bơi lội trong ao chơi đùa. Nước ao khá trong, nó lặn xuống dưới, đuổi bắt cá. Hồi ở Cửu-chân, nó nổi tiếng là con rái cá. Nó thường lặn dưới nước bắt cá dễ dàng như không. So với cá biển, cá ở ao Thái-hà trang dễ bắt hơn nhiều. Nó bắt được con cá chép, rồi lại thả ra. Nó thoáng thấy một con cá trắm lớn bơi qua trước mặt nó, nó vội đuổi theo. Con cá trắm chui ngay vào cái hang lớn. Nó cũng chui theo. Nó mải đuổi theo con cá trắm, một lúc thì thấy hang hẹp chỉ còn một người qua lọt. Nó dơ tay xem hang có cao không, thì thấy khoảng trống không. Nó đứng dậy mới hay cửa hang nhỏ, chìm dưới nước. Còn vào trong là một đường hầm, nửa dưới nước, nửa trên cạn. Nó tiếp tục đi nữa thấy ánh sáng lọt vào, thì ra hang cá là một con sông ngầm thông với bên ngoài. Tới chỗ có ánh sáng, bị vướng bảy tám cái cột gỗ đóng như chấn song, người chui qua không lọt. Nó ghé mắt nhìn qua bên kia, là một cái ao nhỏ. Trên bờ ao có căn nhà. Nó nhận ra được đó là căn nhà Đức Hiệp bảo với nó là cấm địa.
Nó nghĩ thầm: - Cấm địa gì đây? Tại sao lại có đường thông với ao? Ta phải vào dọ thám xem mới được. Quyết định rồi, nó lội trở ra, lên bờ mặc quần áo ăn cơm. Chờ trời tối cho mọi người đi ngủ, nó lấy kiếm dắt vào lưng rồi ra bờ ao, cởi quần áo dấu vào bụi hoa, lặn xuống ao, lần theo đường cũ mà đi. Tới chỗ chấn song, nó dùng kiếm vận sức vào tay cắt một thanh nhỏ. Nó khôn ngoan cắt khúc chìm dưới nước, để không bị khám phá ra. Nó nhỏ người, nên sau khi cắt một cột, nó chui tọt vào trong được. Ra khỏi hầm là một cái ao nhỏ, nó đứng lên đi vào bờ. Đảo mắt nhìn nó thấy bốn gian nhà làm dính với nhau thành hình vuông. Mỗi gian dài khoảng mười trượng. Những gian nhà này chia thành nhiều phòng nhỏ. Mỗi phòng đều có một cửa sổ rất nhỏ, đút lọt một nắm tay, và một cái cửa lớn. Cửa được khoá bằng những ổ khóa to. Nó đi một vòng hết bốn dãy nhà, mỗi dãy có một lối thông cắt ngang ra phía trước, thông với cái cổng. Nó ngồi im suy nghĩ: - Bốn dãy nhà, đều có phòng nhỏ khoá kín. Mỗi dãy có lối thông với cổng. Ngoài cổng ban ngày có người gác, ban đêm thì lại khoá chặt. Thế những gian nhà này chứa gì đây? Có tiếng ho từ trong nhà vọng ra, nó giật nảy người lên: - Tại sao trong phòng có người ho? Vậy những người này là ai? Chắc chắn họ bị giam ở đây rồi. Thì ra đây là một nhà tù. Lục-trúc tiên sinh giam ai ở đây? Nó đến trước phòng có tiếng ho, sờ soạng định tìm cách mở cửa, nhưng cửa gỗ rất chắc chắn, khoá bằng cái khoá lớn, không có cách nào vào cả. Nó suy nghĩ: - Ta hãy tạm trở về, lần sau tìm cách mang đá lửa, gỗ bồi vào đây để đốt lên thì may ra tìm được manh mối vào nhà tù. Nó theo lối cũ trở về, mặc quần áo vào phòng ngủ. Nó tự nhủ rằng phải tìm cách đột nhập vào phòng Đức Hiệp, để ăn cắp chìa khoá nhà tù mới được. Từ đó ngày ngày nó rình Đức Hiệp, thấy mỗi ngày y cùng gia đinh khiêng mấy thùng cơm lại khu nhà tù. Nó đoán rằng lão cho tù ăn. Nó chờ cho đến khi lão trở về, tay lão cầm hai chùm chìa khoá. Nó đoán rằng đó là chìa khoá mở nhà tù. Nó vờ đi sau lão, tới phòng cất chìa khoá nó hỏi: - Đức Hiệp lão gia, cháu muốn lão gia giúp cháu một việc được không?
Đức Hiệp gật đầu: - Được, việc gì chú nói tôi nghe xem có giúp được chú không đã. Lão vào phòng, nó đi theo. Lão treo chìa khoá lên tường. Nó liếc thấy trên tường có rất nhiều chìa khoá, nó ghi nhớ hai cái chìa khoá lão mới treo lên, rồi nói: - Chuyện của cháu nhờ thì dễ quá. Cháu có người thân ở Cổ-loa. Vậy đến ngày rằm này lão gia cho cháu nghỉ ba ngày đi thăm họ hàng. Đức Hiệp gật đầu: - Chú đến đây đã mấy tháng, làm việc chăm chỉ, vườn hoa tươi tốt, hoa nở rất đẹp. Ta thưởng cho chú nghỉ ba ngày đi thăm người nhà. Ta quên mấy tháng qua chưa phát lương cho chú. Nô bộc hạng nhất mỗi tháng được ba chục đồng tiền. Đây ta phát cho chú 270 đồng, tức ba tháng lương. Lão đưa tiền cho Đào Kỳ. Đào Kỳ cám ơn lão rồi về phòng. Nó ra bờ ruộng lấy mấy cục đất bùn nắn thành hai miếng vuông vức, rồi đem phơi nắng. Đến ngày thứ năm, hai viên đó đã khô gần cứng. Nó rình chờ lão Đức Hiệp ra khỏi phòng, lập tức chui vào phòng lão, lấy hai cái chìa khoá để lên viên đất, lấy viên thứ nhì úp lên, ấn mạnh một cái, hai cái chìa khoá in dấu vào viên đất. Nó treo chìa khoá lên chỗ cũ rồi ôm hai cục đất về phòng. Trưa hôm đó nó tới chào lão Đức Hiệp rồi thuê xe ngựa đi Cổ-loa. Xe ngựa phải đi mất hơn ba giờ mới tới nơi. Bước xuống chợ Cổ-loa lòng nó chứa chan tủi hận. Đây là Cổ-loa, xưa An-Dương vương đã xây thành này. Nay tuy đã bị phá, nhưng nhiều chỗ tường vẫn còn. Dân chúng cố đô khá đông đúc. Nó tìm vào quán nước uống, hỏi thăm chủ quán: - Thưa bác, cháu hỏi thăm bác vùng này có nhà nào họ Đào không?
Bà lão chủ quán lắc đầu ngơ ngác trả lời: - Tôi ở đây từ thuở bé, chưa tùng biết một vị nào họ Đào cả. Câu trả lời của bà chủ quán nước làm cho nó thắt tim lại. Rõ ràng trước khi xảy ra trận đánh cảng Bắc, bố nó dặn dò mọi người rằng nếu thất lạc chạy ra Cổ-loa tìm chú nó là Đào Thế Hùng. Năm trước đây, Thái-thú Nhâm Diên đưa ra chương trình Hán hoá đất Cửu-chân, gia đình họ Đào đã biết rõ âm mưu độc địa đó, cương quyết chống lại. Bố nó bàn với chú nó dẫn tráng đinh ra kinh đô cũ nhà Thục là Cổ-loa lập nghiệp làm thế ỷ dốc. Nếu Cửu-chân có gì, thì còn đất mà sống. Bây giờ, nó tới đây hỏi tin tức, thì tin chú không có đã đành, còn bố mẹ, cậu nó hiện ra sao? Phiêu bạt nơi đâu? Bị Hán quân đánh chìm xuống bể hay bị giết hết rồi? Điều này nó có thể nhờ Nghiêm Sơn tìm dùm. Nó tự nghĩ: - Từ Long-biên lên Luy-lâu cũng không xa, ta phải lên đó để gặp Nghiêm đại ca mới được. Không biết từ hôm thất tán đến giờ sư tỷ ta đi đâu? Chắc lại chạy về Mai-động. Ta chỉ việc về Mai-động là gặp sư tỷ ngay. Dù sao, ta cũng phải dọ thám cho ra nhà tù của Lê Đạo Sinh cái đã. Y giam ai? Tại sao những người đó lại bị cầm tù? Y cầm tù người ta để làm gì? Nghĩ đến bố mẹ, anh, sư huynh hiện không biết lưu lạc phương nào, nó thất vọng. Tai nghe tiếng bình bịch phía sau. Nó nhìn về đó thì thấy một lò rèn đang làm việc. Nó đến nơi hỏi người thợ rèn: - Này chú, chú có biết làm chìa khoá không? Người thợ rèn gật đầu: - Cậu muốn làm chìa khoá gì? Nó đưa hai viên đất khô ra nói: - Tôi có hai cái chìa khoá đã in dấu vào đây, chú làm cho tôi mỗi thứ một cái. Người thợ rèn cầm lên xem, thấy ngộ nghĩnh nói: - Được, tôi làm cho cậu, nhưng phải hai đồng một cái. Nó bằng lòng. Người thợ rèn lấy sắt rèn, một lúc thành hai cái chìa khoá. Anh ta bỏ vào lỗ khuôn ướm thử, rồi rèn một chút nữa thì xong.
Đào Kỳ trả anh ta gấp đôi tức tám đồng, rồi thuê xe trở về Thái-hà trang. Từ bến xe ngựa trở về Thái-hà trang khá xa, nó vào một quán nước bên đường để mua bánh ăn, vì nó đi từ sáng đến giờ chưa có gì bỏ bụng. Nó ăn hai tấm bánh dày với chả, ăn thêm mấy quả chuối, nó định đứng dậy, thì thấy ba người đeo kiếm vào quán. Người thứ nhất là một ông già gầy, râu tóc bạc, tuổi có lẽ cũng ngang với Lê Đạo Sinh phục sức rất sang trọng. Người thứ nhì là một ông già mập mạp, tướng coi như một phú gia. Người thứ ba là một phụ nữ tuổi trên 50, dáng người mảnh khảnh. Thị tuy lớn tuổi, nhưng coi còn mặn mà. Ba người vào quán ăn mấy cặp bánh dày giò. Hai người đàn ông còn gọi thêm mấy cút rượu để uống. Người đàn bà hỏi cô chủ quán: - Cô chủ quán ơi, cô có thể thuê dùm tôi một cái xe ngựa đến Thái-hà trang không? Cô chủ quán nói: - Từ đây đến Thái-hà trang không xa, nên không có xe ngựa nào đi về phía đó cả. Vả lại Lục-trúc tiên sinh, Lạc hầu nói rằng cần dành xe ngựa cho khách đi xa, còn người Thái-hà trang phải đi bộ một quãng cũng không sao. Vì vậy ngựa không đón khách gần, đến Thái-hà. Người đàn ông béo mập nói nhỏ với đồng bọn: - Sư huynh, sư muội thấy không, Lục-trúc tiên sinh là người quân tử, nên dạy dỗ dân trang như thế đó. Đào Kỳ bây giờ mới biết ba người là sư huynh, muội. Người gầy có vai vế cao nhất, người thứ nhì là ông mập. Người cuối cùng là lão bà. Không biết họ tới Thái-hà trang làm gì. Cứ nhìn qua cũng biết họ là bạn hữu của trang chủ, võ công rất cao. Đào Kỳ ăn xong, lên đường trước. Nó không về trang ngay, vì lão quản gia Đức Hiệp đã cho nó nghỉ ba ngày. Nó quyết lên Long-biên để tìm Nghiêm Sơn. Nó ra bến xe thuê một chiếc xe ngựa lên Long-biên.
Trên đường đi lòng nó se lại, mọi hôm trước đây, nó cùng sư tỷ, Tam Tín, Giao Chi cùng đi Long-biên, bây giờ thất lạc nhau, không biết họ ra sao. Nó sống bên cạnh Thiều Hoa từ nhỏ, chị em rất tương thuận, đi đâu cũng có nhau, bây giờ phải xa Thiều Hoa, nó cảm thấy nhớ nhung vô cùng. Nó quyết lên Long-biên để tìm cách thông tin cho Nghiêm Sơn, rồi nhờ Nghiêm Sơn tìm cha mẹ và sư tỷ nó. Tới Long-biên, nó vào một tửu lầu, leo lên tìm một bàn gọi mấy món ăn, ngồi nhấm nháp. Đảo mắt nhìn qua, thấy tửu lầu toàn quan lại người Hán rồi tới khách thương, không có dân chúng. Nó là đứa trẻ duy nhất ở trên tửu lầu. Nó liếc sang bên cạnh thấy một viên quan võ người Hán tuổi khoảng 30, tướng mạo rất hùng vĩ, nó nghĩ: - Nghiêm đại ca là Lĩnh-nam công, tất viên quan võ này phải biết. Ta cứ nhờ y thông tin là được. Nghĩ vậy, nó đến quày hàng mượn bút mực viết mấy chữ rất giản dị: Sư tỷ bị mất tích, Đào Kỳ ở Thái Hà trang. Rồi cho vào bao thơ đóng kín lại, nó viết ngoài bao thư: Bình Nam đại tướng quân khai khán. Nó tiến đến bàn vị võ quan chấp tay hỏi: - Kính chào đại nhân. Tiểu nhân không dám hỏi quan tước đại nhân.
Viên võ quan thấy đứa bé nói năng lễ phép, mặt mũi khôi ngô, y vui vui nói: - Ta là lữ trưởng kÿ binh ở Luy-lâu. Ta mới xuống đây có việc, mai trở về. Chú bé, chú hỏi có việc gì vậy? Đào Kỳ mừng ra nét mặt. Nó nghĩ: - Nghiêm đại ca có tai mắt khắp nơi. Chúng thường báo cáo tin tức cho người. Vậy ta cũng phải làm theo lối này mới được. Nó khẽ nói: - Tiểu nhân có tin cơ mật, muốn nhờ đại quan thông tri khẩn cấp cho Nghiêm tướng quân ở Luy-lâu. Nói rồi nó đưa phong thư ra. Viên Hán quan cầm phong thư bỏ vào túi hỏi: - Mi thuộc cơ đội nào? Nguyên quân Hán mướn rất nhiều người Việt làm tai mắt cho chúng. Viên Hán quan tưởng Đào Kỳ cũng là một trong những người tai mắt nên hỏi nó làm việc cho cơ đội nào. Đào Kỳ tinh ý hiểu ra, nó bịa đại: - Tiểu nhân làm việc với Hợp-phố lục hiệp. Viên Hán quan gật đầu, nhận lời. Nó chắp tay vái chào rồi trả tiền xuống lầu. Nó tìm đến tiệm bán tạp hoá, mua đá lửa, củi bồi để mồi lửa, mấy cây nến loại lớn. Nó mua thêm con dao trủy thủ loại tốt. Nó là đứa trẻ nhiều mưu trí, nó định dọ thám nhà tù ban đêm, nên cần có đá lửa, nến và củi bồi để có ánh sáng dọi trong nhà tù. Với một con dao nhọn, nó dễ xoay sở hơn là dùng kiếm. Trong trang Thái-hà có đủ cửa tiệm bán những thứ đó, nhưng nó muốn giữ bí mật hành tung, nên ra Long-biên mua cho kín đáo.
Trở về Thái-hà trang, nó biết với một trang trại lớn như Thái-hà trang thì tổ chức phòng vệ phải cực kỳ nghiêm mật, nhất là trong trang còn giam giữ người nữa. Kinh nghiệm những ngày còn ở Đào trang cho biết, khi thu nhận người lạ vào trong trang, thì phải theo dõi một thời gian. Bây giờ nó đi ra ngoài ba ngày, trở về, thế nào cũng bị theo dõi, nên nó tuyệt không có hành động gì khác lạ. Ba ngày sau, nó vừa thức giấc thì tiểu đồng hầu cận Đức Hiệp đến gõ cửa gọi nó: - Quản trang cần gặp ngươi! Nó vội vã mặc quần áo đến gặp Đức Hiệp. Đức Hiệp bảo nó: - Này chú bé Văn-Lang, hôm nay tên thư đồng hầu tiểu thư bị ốm, ngươi được thay thế nó để hầu hạ tiểu thư. Vậy ngươi theo ta đến phòng tiểu thư. Lão dẫn nó đi sang dãy nhà thứ nhì. Đây là dãy nhà có nhiều hoa thơm, cỏ lạ nhất. Hàng ngày nó vẫn đến đây tưới cây, nhưng nó chưa thấy tiểu thư bao giờ.