Nghiêm Sơn thấy nàng như không muốn đi cùng mình, thoáng vẻ buồn ra nét mặt: - Làm cho Đào, Đinh nhị trang bị tan nhà nát cửa là Nhâm Diên. Nhưng đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, tôi nhận mình có phần lỗi ở trong đó. Vậy tôi xin cùng cô nương và tiểu sư đệ của cô đi tìm sư phụ, sư mẫu cô. Người Đào, Đinh đông như vậy, mà thủ hạ của tôi cũng nhiều, tìm đâu khó? Hai người lên đường, quẹo qua hốc núi, thì thấy Hợp-phố lục hiệp đang ngồi chờ ở đó. Nhất hiệp cung kính: - Quốc công, chúng tôi tìm người suốt từ sáng đến giờ mà không gặp. Nay Quốc-công trở về thực may quá. Thôi chúng ta lên đường đi Long-biên. Thiều Hoa hỏi Nghiêm Sơn: - Đại ca! Đại ca là người kinh nghiệm nhiều, thử đoán xem ai là thù phạm giết Tường Loan, và họ ẩn nấp ở Đào trang để làm gì? Nghiêm Sơn biết Thiều Hoa hỏi câu đó thì đã hết nghi ngờ chàng là thủ phạm gài người vào Đào trang, nên vui vẻ đáp: - Tôi nghĩ chưa ra. Trong đám huynh đệ của cô, thì chỉ có cô với Trịnh Quang là có khả năng đánh một chiêu kết liễu tính mạng Tường Loan. Võ công nhà cô thiên về dương cương thì nhiều, mà âm nhu thì ít. Nhưng chiêu thức mà Tường Loan bị giết hoàn toàn âm nhu. Nội công âm nhu ấy tôi nghĩ không phải của Đào trang, mà là của phái Tản-viên. Hơn nữa muốn có âm kình đến trình độ đó, thì phải trải qua ít nhất là bảy, tám năm luyện nội công. Cô nương, cô nương đến Đào trang được mấy năm rồi?
Thiều Hoa đáp: - Tôi là đứa trẻ mồ côi, tứ cố vô thân, bị người đời làm nhục, được sư phụ cứu về nuôi dạy từ năm 11 tuổi, đến nay là bảy năm. Còn nhị sư huynh là con người tỳ nữ của sư phụ tôi, đến Đào trang từ năm 13 tuổi, đến nay là 12 năm. Lúc đầu tôi nghĩ Trịnh Quang giết Tường Loan. Nhưng sau tôi thấy không phải vì hôm ấy Trịnh Quang bị thương rất nặng, không ra tay được. Còn trong đám sư muội, sư đệ của tôi võ công đều ngang Tường Loan, không ai đủ công lực giết nàng. Cuối cùng tôi nghĩ, có lẽ người của phái Tản-viên ẩn náu đâu đó giết Tường Loan. Bây giờ thì các sư huynh, sư đệ của tôi kết tội tôi giết sư muội... Ha! Thực là “Nước đục bụi trong là thế đó.” Thiều Hoa thở dài nhắc lại: - Dù tôi là nước bị tiếng là đục. Mà kẻ sát nhân lại được tiếng là trong. Đời chán quá nhỉ? Người ta đổ cho tôi giết sư muội, làm gian tế cho người Hán, và là... và là... Mỵ Châu. Nghiêm Sơn an ủi: - Cô cần tỉnh trí, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hung thủ, giết y trả thù cho sư muội cô, rửa tiếng oan cho cô. Còn cô không làm gian tế cho người Hán thì là đương nhiên rồi. Còn bảo cô là Mỵ Châu ư, cái đó... cái đó... Thình lình có tiếng cười khúc khích: - Mỵ Châu là Mỵ Châu! Thiều Hoa là Thiều Hoa! Mỵ Châu là một cô gái ngu xuẩn, khác với Thiều Hoa là một cô gái khôn ngoan. Trọng Thuỷ là anh chàng chung tình, sang làm phò mã Âu-lạc để mưu cướp nước. Còn Nghiêm đại ca sang đây với hoài bão diệt bọn Hán, Việt tham ô nhũng lạm. Muôn ngàn lần khác nhau. Trong con mắt tiểu đệ thì Nghiêm đại ca là một đại hiệp. Thiều Hoa nhận ra tiếng tiểu sư đệ Đào Kỳ, mừng quá nàng reo lên: - Tiểu sư đệ! Đào Kỳ từ trên cây nhảy xuống. Nó múa cây côn đồng lấy ở đền thờ Cao Nỗ nói: - Sư tỷ, chúng ta trở lại trang Cao hầu để tiểu đệ rửa tiếng oan cho sư tỷ. Tiểu đệ chắc không ai làm khó dễ sư tỷ đâu. Liệu nhị sư huynh dám giết tiểu đệ sao? Nghiêm Sơn bảo Kỳ: - Không được! Hoàn toàn không được! Chúng ta hiện chưa biết gian tế là ai. Sư đệ trở lại, có khi bị hại là khác. Thôi chúng ta đi Long-biên rồi đến Cổ-loa tìm người của Đào, Đinh trang đã.
Nghiêm Sơn bảo Hợp-phố lục hiệp: - Lục vị sư huynh, sư đệ! Khi chúng ta khởi hành đi Lĩnh-nam, đã có lời hứa với nhau là làm sao ta cho dân chúng sáu quận được hạnh phúc. Hiện chúng ta mới nắm được hai quận. Còn bốn quận, quyền bính vẫn nằm trong tay bọn tham ô. Bây giờ nếu chúng ta bắt chúng cải cách, thì chúng sẽ trở mặt làm phản. Vậy tôi đề nghị thế này: Chúng ta áp dụng lối tằm ăn dâu, cải cách từ quận một. Hợp-phố nhị hiệp Lư Dương hỏi: - Theo ý sư đệ, thì bây giờ chúng ta kinh lược quận nào trước? Nghiêm Sơn đáp: - Giao-chỉ thì thế lực của Tích Quang quá lớn, chưa thể ra tay được. Cửu-chân thì qua trận đánh Đào, Đinh trang, bộ mặt giả nhân giả nghĩa của Nhâm Diên đã bị lộ. Trong chín thế lực Cửu-chân, có đến bảy, tám khinh ghét y. Trận đánh vừa qua, Đào hầu, Đinh hầu tuy người ít, thế cô, mà đốt phá phủ thái thú, giết vợ, con, mẹ già của y. Y hiện kinh hồn táng đởm. Trong trận đánh, hai sư trưởng thân tín của y bị đại đệ tử của Đinh hầu là Quách Lãng giết chết. Một bị trưởng nam của Đào hầu là Đào Nghi Sơn giết chết. Đệ nhân đó, cắt cử hai người thân tín thay thế. Sẵn giữa lúc y kinh sợ, tiểu đệ lên tiếng trách cứ y giữa các quan văn, vũ về tội “cáo gian.” Hiện binh quyền đệ đã nắm được. Y bị cô thế. Hợp-phố tam hiệp Hà Thiên hỏi: - Quan trọng nhất là phủ Đô-sát. Vậy hiền đệ phải cách chức Chu Khải. Rồi một trong anh em chúng ta nắm lấy. Nghiêm Sơn cười: - Không được. Đô-sát là chức vụ cần nhiều chân tay. Nếu bây giờ chúng ta giết Chu Khải, rồi nhảy vào thay thế thì hệ thống Tế-tác sẽ bị tê liệt. Tốt hơn hết tiểu đệ sẽ cử Vũ Hỷ vào chức vụ đó.
Hà Thiên ngạc nhiên: - Chúng ta dùng tên ma đầu đó ư? Như vậy chúng ta sẽ tàn hại nhân dân không ít. Nghiêm Sơn tủm tỉm cười: - Tam ca ơi! Tam ca chưa quen dùng người. Đệ đã từng cắt cử trăm vạn người ở Trung-nguyên, nên rất thạo. Song-quái tàn ác, ta cử chúng vào chức vụ Đô-sát, chúng sẽ thẳng tay trừ khử bọn tay chân của Nhâm Diên, đưa người của chúng vào. Thế là hai phe Nhâm Diên, Song-quái chống nhau. Ta ở giữa thấy người của phe nào có tài, có khí tiết, thì thu phục lấy mà dùng. Sau khi Song-quái cầm quyền ít lâu, tính ác đã quen, y tàn hại dân chúng, ta dùng quân pháp chặt đầu y rồi anh em ta nắm lấy toà Đô-sát, thế thì mọi chuyện mới yên. Vậy... bây giờ các vị sư huynh âm thầm dùng binh phù của tiểu đệ, kinh lược Cửu-chân. Gặp Huyện-úy, Huyện-lệnh nào ác đức thì bí mật giết chết. Tiểu đệ sẽ cử người khác thay thế. Như vậy chỉ cần mấy tháng, ta sẽ nắm được đất Cửu-chân. Lục-hiệp đi rồi, Nghiêm Sơn, Thiều Hoa, Đào Kỳ lên đường. Phải mất hai ngày mới tới Long-biên. Long-biên là vùng đất phì nhiêu, bờ xôi, giếng mật, cây cỏ tốt tươi. Trời đang tiết thu, lá vàng rơi vụng khắp nơi. Cây cỏ tiêu sơ, gió heo may hiu hiu đem cái lạnh len lỏi vào không gian. Trưa hôm đó thì tới một con sông. Đào Kỳ hỏi: - Sông này là sông gì vậy? Nghiêm Sơn nói: - Đó là sông Hồng-hà. Sông Hồng-hà chẻ một nhánh đổ vào một cái hồ rất lớn, đó là Dâm-đàm, phong cảnh rất đẹp, chúng ta nên qua đó chơi cho biết. Có điều chúng ta phải cải trang thành người Việt để không bị chú ý. Nghiêm Sơn lấy trong bọc ra bộ quần áo Việt mặc vào.
Chàng bàn với Đào Kỳ: - Chúng ta đi tìm thân phụ của đệ thì cần tránh con mắt tò mò của mọi người. Ta giả xưng là Lạc tướng, còn Thiều Hoa với đệ giả làm em ta. Thiều Hoa thấy Nghiêm Sơn bảo mình với sư đệ là em, có điều không ổn, vì hình dáng ba người quá khác nhau. Nhưng tính tình nàng vốn nhu thuận, nên không phản đối. Đoàn người tới bến đò. Đào Kỳ nói: - Nghiêm đại ca, nước ở đây chảy xiết quá, thuyền đi muốn không được. Hồi ở Cửu-chân, tiểu đệ thích lội lắm, có lần tiểu đệ bơi từ bờ đến đảo Nghi-sơn. Đại ca có biết lội không? Chúng ta nhảy xuống lội sang bờ bên kia đi. Nghiêm Sơn sống ở vùng rừng núi, có khi quanh năm không nhìn thấy sông, chàng lội rất dở. Chàng thấy sông Hồng mênh mông chảy siết thì trong lòng đã sợ rồi, thì còn nói gì đến bơi sang bờ bên kia nữa. Chàng lắc đầu: - Ta bơi rất dở. Và dù có bơi giỏi đến mấy chăng nữa, nước sông chảy siết như thế này, làm sao bơi qua được. Thiều Hoa cười khanh khách: - Đại ca không biết đâu. Nó là con rái cá đất Cửu-chân đấy. Trong tất cả sư huynh muội trong nhà, nó là người lội giỏi nhất. Bọn chúng “em” chỉ luyện võ trên đất mà thôi, chứ tiểu sư đệ chuyên nhảy xuống nước luyện võ. Đánh nhau trên cạn thì “em” hơn nó, chứ đánh nhau dưới nước thì không lại nó đâu. Vô tình nàng xưng “em” với Nghiêm Sơn, chợt nghĩ lại mặt nàng đỏ như gấc. Thời bấy giờ, tại mỗi bến đò, đều có người chở thuê. Bến đò sông Hồng vùng Long-biên là nơi khách qua lại suốt ngày, trên bờ có mấy quán nước, bán hoa quả, bánh trái. Nhà đò có năm, sáu nhóm khác nhau. Đò ở đây lớn như thuyền đinh. Bến đò có năm cái thuyền lớn đậu sẵn. Phu đò thấy một người đàn ông, một thiếu nữ và một đứa trẻ, cưỡi ngựa, trang phục theo người Việt. Họ đoán đây là một Lạc-hầu, Lạc-tướng, nên lễ phép hỏi: - Chẳng hay Lạc-hầu cần dùng mấy đò?
Thiều Hoa đã dặn Nghiêm Sơn không nên nói nhiều, sợ bị lộ hình tích, mọi sự do nàng và Đào Kỳ xếp đặt: - Chúng tôi có ba người và ba ngựa, thì cần mấy đò? Giá chở bao nhiêu tiền? Người chủ đò nói: - Thưa cô nương, cần một đò cho ngựa, và một đò cho người. Xin cô nương cho một trăm đồng. Sự thực giá thuê một đò qua sông như vậy giá có 20 đồng. Nhà đò đòi gấp năm lần, mà Thiều Hoa vẫn vui vẻ: - Được, tôi trả cho ông 150 đồng. Thôi, dắt ngựa xuống đò đi. Đò bắt đầu rời bến, nước sông đỏ như màu máu, dập dềnh chảy siết. Lần đầu tiên Đào Kỳ được đi đò trên con sông chảy siết như thế này, nó thích lắm. Thiều Hoa là người tinh tế, nàng chú ý đến đám nhà đò. Con thuyền lớn như vậy mà chỉ có một người lái, hai người chèo. Mỗi lần người chèo kéo mái, con thuyền vọt lên trước như cưỡi trên sóng. Nàng nghĩ thầm: - Có lẽ họ chèo đò lâu rồi thành quen như mình luyện nội công vậy chăng? Hay là họ có võ công cao cường? Khó mà biết được. Đò đã đến giữa sông. Đào Kỳ hỏi người chèo đò: - Này anh, anh cho tôi chèo một tí được không? Người chèo đò hỏi: - Tiểu công tử, công tử đã chèo đò bao giờ chưa? Nếu chưa thì đừng chèo, lỡ ra thuyền bị lật úp thì chết hết. Đào Kỳ nói: - Tôi đã chèo thuyền trên biển nhiều lần, nhưng chưa chèo trên sông bao giờ. Bởi vậy mới xin anh cho chèo thử. Con đò tự nhiên đổi hướng, trôi theo giòng, chứ không sang ngang nữa.
Thiều Hoa bảo người lái đò: - Này ông lái, chúng tôi muốn sang ngang sông, chứ không muốn đi xa, xin ông quay lại cho. Người lái đò không trả lời, cất tiếng hát, giọng rất cao: Ba mươi tết, tết lại ba mươi, Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú Khách. Đây là bài hát của dân gian. Thời bấy giờ Việt bị Trung Hoa cai trị đã 184 năm, mối uất hận không nơi phát tiết, họ thường đặt ra những câu ca dao để châm biếm những người Việt xu phụ người Hán. Mục tiêu đầu tiên của họ là những người con gái Việt lấy chồng Hán. Họ gọi người Hán là “Thằng Ngô,” là “Chú Khách.” Ngô nguyên là một nước nhỏ ở cạnh nước Việt hồi Chiến- quốc, sau bị Tần đồng hoá, một số người Ngô chạy sang tỵ nạn ở nước Việt. Người Việt gọi họ là “Thằng Ngô.” Thiều Hoa nghe câu hát chột dạ: - Không lẽ người lái đò đã biết Nghiêm đại ca là người Hán, nên hát câu này để chửi xéo ta? Người lái đò vẫn cho đò xuôi giòng nói: - Cô nương không biết đấy thôi, nước chảy thì mạnh, mà sức người có hạn, nên phải cho chạy xuôi giòng, mũi hơi hướng sang bên kia bờ. Ông dùng chân kẹp tay lái, mắt mơ màng nhìn về hạ lưu mịt mờ xa xa tận chân trời, rồi rút ra ở sau lưng một ống tiêu bằng trúc, đưa lên miệng thổi. Tiếng tiêu bay ra xa, dội vào sóng nước, vang trở lại hợp với tiếng tiêu thành một âm điệu kéo dài, sầu thảm dằng dặc. Khi thì bay bổng lên cao tản ra bầu trời xanh biếc mùa thu. Đào Kỳ nói với ông lái: - Này bác ơi! Tôi thấy ở mỗi con đò ngang, có người kéo nhị, có người đánh đàn, mà chưa bao giờ thấy người thổi tiêu. Bác lái ơi, bác vừa lái vừa thổi tiêu mà tiếng tiêu khi thì như khóc, như than của mối hờn vong quốc. Khi thì sầu thảm của người anh hùng không gặp thời. Có lúc lại đổi giọng hùng tráng như Hạng Võ từ Sở vượt sông đánh Tần. Khúc này tôi chưa từng nghe qua bao giờ. Người lái đò: - Tiểu công tử. Tôi nghe công tử nói tiếng hơi nặng, dường như ở miền Cửu-chân mới ra. Công tử còn nhỏ, mà đã nhận được tiếng tiêu mang giọng sầu thảm vô tận của người anh hùng, quả thực công tử là người tài tử vậy. Công tử có biết bài tiêu vừa rồi tên gì không?
Đào Kỳ nói: - Tôi không biết âm nhạc, vả lại khúc tiêu vừa rồi tôi nghe lần đầu, nên không biết tên. Cứ nhìn nét mặt say sưa của bác, tôi biết bác là người soạn ra khúc nhạc này vậy. Người lái đò chắp tay vái Đào Kỳ: __ Thực là tri âm hạnh ngộ. Khúc đó tên là Cổ-loa di hận vậy. Đây là tiếng của những anh hùng khi qua Cổ-loa, nhìn bia tàn cây cỗi, nghe tiếng quốc kêu, như dục đã, như bồi hồi nhớ lại thời An-dương vương thủa xưa anh hùng là vậy, mà nay thì đâu? Để tôi thổi một khúc nữa, nhờ tiểu công tử phẩm bình. Ghi chú của thuật giả: Khúc Cổ-loa di hận được lưu truyền cho đến nay. Hồi thơ ấu, thuật giả thường được nhũ mẫu tấu đàn tranh và hát cho nghe khúc này nhiều lần dù bà là người... Trung-quốc. Tương truyền, tác giả là anh hùng dân tộc Nguyễn Tam Trinh sáng tác ra. Nguyễn Tam Trinh cũng là tổ của môn vật tộc Việt. Người lái đò lại thổi một khúc khác, lần này tiếng tiêu nồng nàn, nhưng buồn man nác, đầy vẻ yêu đương. Tiếng tiêu dứt, mà Nghiêm Sơn, Thiều Hoa vẫn còn ngồi ngơ ngẩn xuất hồn. Người lái đò hỏi Đào Kỳ: - Xin công tử dạy cho ít lời. Đào Kỳ nói: - Khúc này khác khúc trước. Khi thì đầm ấm như tình yêu đôi lứa trên sông. Khi thì nỉ non như thiếu nữ phòng khuê một mình nhớ tình quân. Khi thì nức nở như đôi trai gái yêu nhau mà tình chẳng tròn. Này ông lái, đó là khúc gì vậy? Người lái đò chắp tay vái một lần nữa: - Tiểu công tử thực thông tuệ khác thường, đúng là tri kỷ của ta. Từ ngày ta soạn khúc này đến giờ, chưa một ai hiểu ta. Người hiểu ta đầu tiên là công tử đó. Khúc nhạc này có tên Trường hận Trương Chi. Công tử, công tử có thể cho ta biết quý danh được không?
Ghi chú của thuật giả: Khúc Trường-hận Trương Chi tương truyền do Trương Chi sáng tác. Sau được anh hùng Nguyễn Tam Trinh sửa đổi, gọi là Trường-hận Trương Chi. Nay thất truyền. Đào Kỳ vỗ tay khen: - Thì ra là khúc Trường-hận Trương Chi. Tôi nghe nói thời Hùng vương có một người đánh cá tên Trương Chi. Người chàng thực xấu, nhưng tiếng tiêu, tiếng hát của chàng thì thực hay. Một ngày kia chàng đánh cá trong đêm trăng, thả đò giữa sông, thổi khúc tiêu vào với mây nước. Khúc tiêu bay đến phòng Mỵ Nương, con quan thừa tướng. Nàng Mỵ Nương yêu thương người nghệ sĩ, mà không thấy mặt. Rồi có thời, Trương Chi bị bệnh không đánh cá đêm, tiếng tiêu không còn đưa tới lầu Mỵ Nương. Nàng tưởng nhớ tiếng tiêu, tiếng hát mà thành bệnh. Các thầy thuốc đều không tìm ra bệnh Mỵ Nương, tưởng rằng nàng phải chết. Không ngờ đêm trăng sáng, Trương Chi lại chèo đò đánh cá, thổi tiêu. Mỵ Nương nghe tiếng tiêu của chàng trăm bệnh đều khỏi. Quan thừa tướng tìm ra cội rễ bệnh của con, người cho gọi Trương Chi đến để coi mặt. Khi Trương Chi bước vào, Mỵ Nương thấy mặt chàng xấu xí thì đuổi ra. Trương Chi bị đuổi, cảm thấy nhục nhã, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó đêm đêm, hồn chàng hiện về, thổi tiêu, hát vang vang bên sông. Mỵ Nương thấy chàng chết, hối hận, đêm núp bên bụi trúc bên sông, để nghe tiếng tiêu của chàng. Nước mắt nàng nhỏ vào bụi trúc, nên ngày nay trúc đều có vằn như giọt lệ. Người lái đò gật đầu: - Công tử nhỏ tuổi, mà đã biết được những kỳ tích của thời Hùng vương. Công tử vẫn chưa cho tôi được biết cao danh, quý tánh? Đào Kỳ nói: - Cao danh thì không có đâu. Tôi họ Đào, tên Kỳ. Ông lái đò giật mình: - Chẳng hay công tử với Lạc-hầu Đào Thế Kiệt, nổi danh là Cửu-chân song kiệt có liên hệ gì? Thiều Hoa liếc mắt chờ Đào Kỳ, nó hiểu ý sư tỷ, đáp: - Cửu-chân có tới năm trang họ Đào, gia phụ tuy họ Đào, nhưng không phải là Cửu-chân song kiệt.
Người lái đò nói: - Tôi hằng ngưỡng mộ danh tiếng Đào hầu từ lâu. Nghe ngài là người võ công bậc nhất vùng Cửu-chân. Dường như mới đây Đào trang bị quân Hán đánh phá, không hiểu ngài có còn tại thế không? Đào Kỳ hỏi: - Thì ra ông cũng là người có tâm huyết với đất nước. Chúng tôi cả gan dám thỉnh quý tính đại danh? Đáp: - Tôi họ Nguyễn, tên Tam Trinh. Thiều Hoa, Nghiêm Sơn cùng úi cha lên một lúc. Còn Đào Kỳ nói: - Thì ra là Đệ-tứ thái-bảo Sài-sơn, Nguyễn tiên sinh, sấng tổ về môn vật. Chúng tôi có mắt không ngươi, thực là khiếm lễ. Đào Kỳ, Thiều Hoa đồng chắp tay hành lễ. Ông lái đò chắp tay đáp lễ: - Không dám! Không dám! Chẳng hay nhị vị đến Long-biên có chuyện gì? Đường Cửu-chân đến Long-biên xa diệu vợi, đất Long-biên là nơi rồng nằm hổ phục, phải cẩn thận. Thiều Hoa nói: - Cảm tạ lão bá có lời dạy dỗ, chị em chúng tôi xin ghi lòng tạc dạ. Tam Trinh nói: - Các anh hùng Lĩnh-nam đều tụ ở đất Long-biên. Bọn chó săn tai mắt người Hán cũng không ít. Chư vị phải cẩn thận. Chư vị cải trang như thế này, che mắt dân chúng thì được, chứ che mắt những hào kiệt thì không được đâu, họ nhìn sơ là biết liền. Đào Kỳ lễ phép hơn, nó tự xưng là cháu, không dám xưng tôi nữa: - Lão bá, chẳng hay chúng cháu hoá trang có chỗ nào sơ hở?
Tam Trinh cười: - Công tử cùng sư tỷ thì không có chỗ nào sơ hở cả. Nhưng vị đại nhân đây thì sơ hở nhiều. Thứ nhất là ba con ngựa đều là giống ở phương Bắc, không phải ngựa của Âu-lạc, Văn-lang. Kiếm của hai vị đúng là kiếm Âu- lạc, dài mà nhỏ. Còn kiếm của vị đại nhân đây là kiếm của vùng Hợp-phố. Ha... ha... các phái võ ở Cửu-chân đều chống giặc Hán. Hai vị là đệ tử danh gia, cớ sao lại nhẹ thể đi cùng với tên quan Hán này? Thình lình, Tam Trinh đứng dậy phát chưởng hướng Nghiêm Sơn đánh liền. Nghiêm Sơn tuyệt không đề phòng, vì Tam Trinh đang nói, không có dấu hiệu, triệu chứng gì cả. Chiêu phát như vũ bão. Nghiêm Sơn xuất chưởng đỡ. Bình một tiếng cả hai lảo đảo lùi lại. Nghiêm Sơn bị thuyền lắc lư đứng không vững. Tam Trinh kêu lên: - Giỏi! Thì ra một cao thủ người Hán. Tiếp một chưởng nữa của ta. Ông lão phóng chưởng ra. Nghiêm Sơn vận đủ mười thành công lực đánh lại. Bùng một tiếng, con đò nghiêng đi. Nghiêm Sơn nhảy lên để khỏi bị ngã. Tam Trinh quét một cước ngang chân y. Trong khi đó, hai người chèo thuyền cũng cầm chèo làm vũ khí giao chiến với Thiều Hoa và Đào Kỳ. Con đò không người lái, quay tròn giữa sông, rồi lật úp. Cả bọn chìm xuống sông. Đào Kỳ lặn ra xa, rồi trồi lên. Nó thấy Nghiêm Sơn đã bị bắt. Thiều Hoa còn đang chống trả. Đào Kỳ kêu lớn: - Mai-động lão bá, đừng hiểu lầm, người nhà cả mà. Còn con thuyền chở ngựa đã chèo đến, vớt bọn Tam Trinh cùng hai người chèo đò. Họ lôi Nghiêm Sơn, Thiều Hoa lên. Tam Trinh gọi Đào Kỳ: - Đào công tử, nhảy lên thôi! Đào Kỳ nhảy vọt lên thuyền đáp xuống bên sư tỷ, thì thuyền đã cập vào một thôn bên sông.
Tam Trinh hỏi Thiều Hoa: - Xin cô nương cho biết quý tính phương danh? Đào Kỳ đáp: - Sư tỷ của cháu họ Hoàng, tên Thiều Hoa. Tam Trinh nói: - Đào tiểu công tử là tri kỷ của ta. Ta không làm khó dễ công tử cùng sư tỷ đâu. Bèo mây gặp nhau, xin ghé thôn trang để cùng uống trà nên chăng? Đào Kỳ thấy Tam Trinh võ công cao cường. Bắt người mà vẫn nói năng nho nhã, từ tốn, khiến nó tự nhủ thầm: - Cha ta thường nói, phái Sài-sơn là đời sau của Phù-đổng Thiên-vương. Hiện phái này có tám vị Thái-bảo, võ công đạo hạnh khó ai sánh kịp. Họ là người tập võ, nhưng tiêu dao, phơi phới như tiên. Vị này là vị thứ tư, hèn chi nói năng nhẹ nhàng, hành động lịch sự. Nó nói: - Được cao nhân cho nghe nhạc, lại chở qua sông, ở đời dễ mấy khi có duyên kỳ ngộ. Nhưng còn vị đại ca của chúng tôi, tiên sinh định đối phó như thế nào đây? Nguyễn Tam Trinh cười: - Tôi cần biết y là ai đã? Dù là ai chăng nữa, thì cũng phải nộp trâu, bò để chuộc mạng theo thể lệ Lĩnh-nam. Nhưng y là quan Hán, thả ra thì dễ, lỡ ra y mang quân đến trả thù thì sao?