Năm con tuấn mã nối tiếp nhau phóng đi, dưới sự hướng dẫn của thần ưng, chỉ lát sau đã vượt qua ba mươi dặm đường, tiến vào địa phận Tùng Hóa.
Lúc này mặt trời đã ngả sang tây, ráng chiều nhuộm đỏ núi rừng, cảnh sắc hoàng hôn thật ngoạn mục, tuy là rừng hoang núi thẳm, nhưng đường lộ khá bằng phẳng, ngựa sau khi được nghỉ ngơi, lúc này chạy khá nhanh, đến khi mặt trời lặn, năm con tuấn mã đã đến bờ đông Bắc Giang, dọc theo bờ sông tiếp tục phóng đi.
Cuối canh hai, năm người đã đến bến sông Ti Giang, qua khỏi đây đi về hướng bắc có rất nhiều ghềnh đá và nước chảy xiết, thuyền bè không qua lại được, đến Liên Châu cần phải vượt qua sông, lúc này thần ưng không bay đi tiếp nữa, chỉ lượn vòng trên không như bảo năm người tìm cách qua sông.
Cát Tập Bách giục ngựa phóng nhanh, đến bên Giang Uyển Dao nói:
- Dao muội hãy xuống ngựa nghỉ chốc lát, để ngu huynh tìm thuyền qua sông!
Giang Uyển Dao sớm đã dừng ngựa bên bờ sông, đưa mắt tìm kiếm, nhưng chẳng có con thuyền nào, nghe Cát Tập Bách nói vậy, nàng lấy làm lạ nói:
- Ở đây lạ quá, có bến mà lại không có thuyền. Đêm khuya thế này, đi đâu tìm thuyền bây giờ? Chi bằng cứ đi tiếp, tìm chỗ nước cạn dắt ngựa qua, vậy chẳng tiện hơn và cũng khỏi mất thời gian.
Cát Tập Bách đưa mắt nhìn về phía bên kia bờ, quả nhiên không thấy con thuyền nào, nghĩ đến mình cả nhóm năm người, đêm khuya qua sông cũng sợ kinh nhiễu thuyền gia, nhưng mình không quen đường thuộc lối, lại không sao khẳng định được thượng du có thể qua sông được hay không, vạn nhất xảy ra chuyện, bản thân mình thì không sao, chỉ sợ bốn nàng không chịu nổi giá lạnh.
Chàng suy tính một hồi, đành ngoắc tay gọi thần ưng xuống, cho thần ưng biết là nơi đây không có thuyền qua sông, nó thể đi tiếp tìm chỗ nước cạn cưỡi ngựa đi qua hay không?
Thần ưng như hiểu ý người, chẳng chờ Cát Tập Bách nói rõ, thần ưng đã kêu lên một tiếng khẽ, vỗ cánh bay đến chỗ bờ sông cách năm người chừng năm sáu trượng, rồi từ từ bay ngang mặt nước về phía bên kia bờ.
Năm người thấy vậy, biết là thần ưng đang dẫn đường, bảo họ theo sau vượt qua sông.
Năm người nhìn nhau cười, Ngọa Vân lại càng kinh ngạc và bội phục, loài phi cầm thông linh thế này thật hiếm có. Thế là năm người lên ngựa rời khỏi bến sông, do Cát Tập Bách dẫn trước, theo sau thần ưng qua sông.
Đến chỗ thần ưng bay qua sông, quả nhiên thấy nước chỉ cao đến cườm chân và còn có những tảng đá phẳng mặt được sắp ngay ngắn thành hàng ngang qua sông.
Mặt sông nơi đây dường như hẹp hơn, hai bờ cách nhau chỉ hơn hai trượng, mặt nước chỉ rộng chừng mười tám mười chín thước, dù dưới đáy không có lót đá, cưỡi ngựa đi qua nước cũng chỉ cao đến khuỷu chân mà thôi.
Năm người mừng rỡ, lại là Giang Uyển Dao nóng lòng tranh trước giục ngựa phóng đi, nước văng tung tóe, bốn người cũng liền theo sau.
Đến giữa sông, bỗng thấy thần ưng lao nhanh xuống, vươn vuốt ra chộp, “bõm”.
một tiếng, một tảng đá to đã bị thần ưng lật lên.
Tuấn mã của Giang Uyển Dao bị kinh động, hai chân trước cất cao, Cát Tập Bách sợ Giang Uyển Dao cầm cương không chặt, bị hất rơi xuống nưới, vội hai chân kẹp mạnh, giục ngựa phóng tới, đưa tay ra đón.
Nào ngờ Giang Uyển Dao đã mọp người trên yên, vòng tay ôm chặt lấy cổ ngựa, bình an vô sự, đồng thời ngựa cũng đã phóng tới năm sáu thước, hai lượt tung vó, đã qua đến bên kia bờ sông.
Cát Tập Bách thở phào, ghìm ngựa lại đưa mắt nhìn, chỉ thấy chỗ dưới tảng đá bị thần ưng lật lên có một con rắn to cỡ miệng chén, tảng đá đè lên chỗ bảy tấc yếu hại, rắn đang ngóc đầu lên, lưỡi dài thấp thó, hai mắt xanh rờn, bất giác kêu lên:
- Mau quá!
Giang Uyển Dao dừng ngựa bên bờ sông, ngoảnh lại hỏi:
- Chuyện gì mà hốt hoảng vậy hở?
Cát Tập Bách cùng ba nàng lần lượt qua đến bên kia sông, rồi mới nói:
- Một con rắn to, bị thần ưng giở đá đè dưới đáy nước, có lẽ nó định đón đường cắn người.
Giang Uyển Dao kinh hãi, vội vuốt bờm ngựa dịu giọng nói:
- Ngựa giỏi lắm, mong là mi không bị sợ hãi!
Bốn người nghe vậy cười to, ngẩng lên nhìn thần ưng, đang lượn quanh trên đầu vỗ cánh kêu vang.
Tiểu Thúy giơ tay nói:
- Thần ưng, đa tạ mi nhiều lắm!
Thần ưng như rất hài lòng, lại vỗ cánh bay đi. Cát Tập Bách dẫn trước, giục ngựa theo sau, đi lên một ngọn đồi bằng phẳng, tiến vào quan đạo, phóng đi thẳng về hướng tây bắc.
Qua khỏi một cánh đồng ruộng, đi được mấy dặm, đến một thị trấn nhỏ chỉ có mấy dãy nhà ngói, lúc này tuy đã nửa đêm, loáng thoáng còn có thể trông thấy một đốm ánh đèn.
Cát Tập Bách sợ bốn nàng sau một ngày nửa đêm bôn ba hẳn đã rất mỏi mệt, lại không biết phải đi thêm bao xa nữa mới có thị trấn nhà ở khác, bèn dừng ngựa chờ bốn nàng đi đến, mỉm cười nói:
- Tiểu trấn phía trước còn có ánh đèn, hẳn là mọi người đều đã mỏi mệt, cũng may là chúng ta chuyến đi này tuy gấp, nhưng không có hạn kỳ, cũng chẳng quan trọng vào giờ thời gian, chi bằng dừng lại nghỉ ngơi, sáng mai thức sớm đi tiếp, hơn trăm dặm đường bộ, trưa mai là có thể đến, khỏe hơn là đi đêm nhiều. Dao muội thấy sao?
Giang Uyển Dao lần đầu tiên cưỡi ngựa, lại trải qua một chặng đường dài vất vả, sớm đã mệt nhoài, thật muốn tìm chỗ ngơi nghỉ, nhưng tính tình hiếu thắng, dù mỏi mệt cũng không muốn tự mình lên tiếng đòi dừng lại nghỉ ngơi.
Nghe Cát Tập Bách nói vậy rất là hợp ý và thầm cảm kích vị hôn phu đã tha thiết quan tân cho mình, nhưng vẫn giả vờ nói:
- Bách ca là đàn ông con trai và lại cưỡi ngựa, chỉ đi có bấy nhiêu đường mà đã phải sớm nghỉ ngơi rồi ư?
Tiểu Thúy lòng ngay miệng thẳng, vừa nghe nói dừng lại nghỉ ngơi, khôn xiết vui mừng, chẳng màng đến Giang Uyển Dao có thật sự phản đối hay không, đã tru tréo nói:
- Dao tỷ, tiểu muội không chịu nổi nữa rồi! Dao tỷ không biết, ngồi trên cái thứ quái quỷ này còn cực khổ hơn là đi bộ, nếu không dừng lại nghỉ, tiểu muội ...
Giang Uyển Dao dễ thường không phải vậy, hai chân dang ra ngồi trên lưng ngựa phóng đi, chao qua nghiêng lại suốt, mông và lưng đều ê ẩm, nhất là chỗ kín lại càng khó chịu hơn, nhưng bản tính hiếu thắng bướng bỉnh, quyết không chịu kém, trừng mắt với Tiểu Thúy nói:
- Ngươi thật là vô dụng, đường phía trước hãy còn dài, để xem ngươi làm sao chịu nổi? Thôi cũng được, chiều ngươi lần này vậy!
Đoạn quay sang Cát Tập Bách nói:
- Bách ca hãy đi trước gọi cửa khách điếm đi!
Cát Tập Bách lẽ nào không nhận thấy Giang Uyển Dao đã mồ hôi nhễ nhại, thấy nàng vẫn bướng bỉnh hiếu thắng, bất giác cười thầm trong lòng.
Nhưng cũng chẳng tiện nói ra, đành vâng lời giơ tay ra hiệu cho thần ưng đi trước tìm chỗ nghỉ, chàng giục ngựa phóng đi về phía có ánh đèn sáng.
Chốt lát sau đã vào đến thị trấn, xuống ngựa đi đến chỗ có ánh đèn, thấy đó là một ngôi nhà gạch to rộng, cửa hé mở hơn thước, thò đầu nhìn vào, bên trong là một gian sảnh đường, dưới ánh đèn chỉ thấy một bà lão và hai đứa bé đang ở bên một chiếc giường gỗ, nằm trên giường là một người đàn ông trung niên.
Hai đứa bé chỉ chừng trên dưới mười tuổi, mọp trên đầu gối chân bà lão ngủ gật, bà lão mặt đầy vẻ lo âu buồn thảm.
Cát Tập Bách ngước nhìn lên trên cửa, không thấy có chiêu bài bảng hiệu, lại không giống khách điếm hay quán ăn, mấy lần định xô cửa vào, nhưng lại sợ kinh nhiễu những người trong nhà.
Trong lòng lấy làm lạ, bà lão này sao lại xuất thần như vậy, hay đã lo rầu đến mụ người, ngay cả có người đến gần cửa và tiếng vó ngựa cũng không nghe thấy.
Cát Tập Bách đang lưỡng lự, bỗng nghe phía sau có tiếng động khẽ, lẹ làng quay người lại, nhìn về phía phát ra tiếng động, chỉ thấy một bóng người từ trong một gian phòng cách chàng chừng bảy tám bước mở cửa đi ra, cũng chẳng thấy người ấy cất bước, loáng cái đã đến trước mặt chàng.
Cát Tập Bách định thần nhìn, thấy đó là một người đàn ông tuổi chừng bốn mươi, gương mặt gầy gò, hai mắt tinh quang khiếp người, hai bên huyệt Thái Dương gô cao, thoáng nhìn cũng biết nội công khá thâm hậu và khinh công thân pháp lại càng hiếm thấy, bất giác lòng thầm kinh hãi, vội vận thần công hộ thân, chú mắt nhìn động tĩnh của đối phương.
Người ấy đứng lại trước mặt Cát Tập Bách, ngắm nhìn chàng một hồi mới cười sắc lạnh nói:
- Tiểu tử kia, đêm hôm khuya khoắt đứng trước cửa nhà người rình rập, không phải cướp cũng là trộm, khôn hồn thì đừng kinh nhiễu dân lành, mau theo Trấn Bắc Giang Chu Phù Lãng này ra ngoài trấn nói chuyện!
Rồi chẳng chờ Cát Tập Bách trả lời, cất bước theo lối đến của Cát Tập Bách bỏ đi ngay, thoáng chốc đã mất dạng.
Cát Tập Bách đang phân vân do dự, không biết có nên đi theo người ấy hay không, bỗng cánh cửa phía sau mở ra, bà lão rón rén đi ra, có lẽ đã nghe những lời nói của người đàn ông kia, quay nhìn quanh quất, thấy không có người mới hạ thấp giọng nói:
- Tiểu ca tuyệt đối đừng đi theo hắn. Tiểu ca ... từ đâu đến? Không nên trêu vào tên ác bá chết tiệt đó thì hơn!
Cát Tập Bách lòng đã hiểu ra phần nào, thầm nhủ:
- Người ấy đã tự xưng là Trấn Bắc Giang, bà lão này lại chửi rủa y là ác bá, chắc chắn không phải người tốt, mình đã gặp phải rồi, không chừng cũng phải ra tay trừ hại cho dân địa phương này.
Chàng lòng đã quyết, bèn cũng hạ thấp giọng nói:
- Lão thái thái, không hề gì đâu, tại hạ là người qua đường, đến Liên Châu tìm thân nhân, vốn định thuê phòng khách điếm ở trọ, thấy nơi đây có ánh đèn nên mới tìm đến, thấy lão thái thái ở trong nhà và như là có người bệnh, không dám quấy rầy, người đó đi ra ...
Bà lão ngắt lời:
- Vậy thì tiểu ca hãy vào trong nhà ngơi nghỉ, đó là con trai của lão thân, chính là đã bị ác bá đó đả thương, con gái lão thân bị bắt đi, con dâu lão thân đã về nhà cầu viện, nên ác bá đó đã ở bên kia canh chừng cả ngày rồi, tiểu ca không nên trêu vào hắn thì hơn!
Dứt lời, liền nắm tay Cát Tập Bách dẫn đi vào nhà.
Cát Tập Bách nghe vậy càng thêm tức giận, nghĩa khí bừng dậy nói:
- Vậy là tại hạ càng phải gặp gỡ ác bá ấy mới được! Lão thái thái hãy an tâm, tại hạ chắc chắn không bị thua thiệt đâu!
Tiện tay từ trong túi áo móc ra hai viên Bảo Mệnh Đơn trao cho bà lão, nói tiếp:
- Đây là linh dược điều thương, mau cầm lấy cho đại thúc uống vào. Con ngựa này tạm thời gởi ở ngoài cửa, lát nữa hẵng đến quấy rầy!
Rồi chẳng chờ bà lão trả lời, tung mình đuổi theo Trấn Bắc Giang, loáng cái đã mất dạng.
Bà lão giờ mới biết đã có trợ thủ đến, luôn miệng niệm “A Di Đà Phật”, vội buộc ngựa của Cát Tập Bách vào một cột gỗ ở trước cửa, đưa hai viên dược hoàn lên mũi ngửi, cảm thấy thơm ngát, tinh thần liền tức thì phấn chấn, vội vã đi vào nhà, rót một chén trà nóng, cho người thọ thương uống vào.
Cát Tập Bách phóng nhanh đi, vừa ra khỏi thị trấn đã nghe tiếng quát mắng đánh nhau từ bên kia chân đồi vọng đến, biết là Trấn Bắc Giang đã bị bốn nàng chận đánh, tức thì phóng lên đồi, lăng không lao xuống.
Quả thấy Giang Uyển Dao một mình song chưởng đang giao thủ với Trấn Bắc Giang, còn ba nàng tay dắt bốn con tuấn mã đứng bên cạnh lược trận.
Lúc này Giang Uyển Dao tay trái hộ ngực, tay phải bổ thẳng vào mạn sườn Trấn Bắc Giang và quát:
- Ác tặc, ngươi mà cũng xứng đáng hỏi danh tánh của bổn cô nương hả?
Tay phải đột nhiên biến chiêu, chộp vào cổ tay trái đối phương, tay trái nhanh như chớp vung ra, “bốp” một tiếng, tát trúng má phải Trấn Bắc Giang, khiến y đau đớn kêu la oai oái.
Ba nàng đứng bên xem, thích thú cười ầm lên.
Trấn Bắc Giang Chu Phù Lãng là con trai cưng của Chu Quỳ, thủ lĩnh giới hắc đạo miền bắc tỉnh Quảng Đông. Chu Quỳ có ngoại hiệu là Tảo Trửu Tinh, bởi y là người rất hiểm trá ác độc, sử dụng binh khí ngoại môn là một chiếc chổi sắt, giết người không chớp mắt, vùng bắc Quảng Đông hễ nhắc đến Tảo Trửu Tinh, già trẻ lớn bé đều biết, nghe danh biến sắc. Y lập căn cứ ở biên giới ba tỉnh Quảng Đông, Hồ Nam và Vân Nam, hiện có đến hơn ngàn lâu la, thanh uy ngày một hưng thịnh, ngay cả quan phủ địa phương cũng chẳng dám động đến.
Hồi nửa tháng trước, y lại cấu kết với Thất Độc Giáo, chuẩn bị thiết lập phân đường, Chu Phù Lãng cậy vào thế lực của phụ thân, hoành hành khắp nơi, gieo rắc tội ác không sao mà kể xiết.
Phen này phân đường của Thất Độc Giáo ở Ngũ Dương bị phá hủy, hai anh em Tiểu Độc Ngũ và Tiểu Độc Thất thọ thương đào tẩu đến Hồ Nam, ngang qua Quảng Đông, Chu Quỳ lẽ dĩ nhiên cực lực đón tiếp, giữ hai tiểu độc lại, chủ trì thiết đàn lập trai. Phái người đi khắp nơi tìm bắt thiếu nữ mỹ phụ để cho hai tiểu độc hưởng lạc.
Chu Phù Lãng lại càng độc ác hơn, đích thân xuống vùng quê tìm bắt phụ nữ, giải về đại trại báo công lãnh thưởng.
Một hôm y đến Giang Đầu Khư, vừa đến nơi đã dò biết con dâu và cháu gái trong nhà bà lão này đều có nhan sắc như thiên tiên, bèn lập tức dẫn theo ba cao thủ đến bắt.
Nào ngờ bà lão này lại là Lục Dương Nữ Liễu Như Chi, vang danh võ lâm khi xưa, với một ngọn Đồ Long Quải và mười hai mũi Lục Diệp Tiêu đi khắp Giang Nam chưa từng gặp địch thủ.
Coi trai Kim Bối Đao Đào Đức, con dâu Bạch Yến Tử Lê Tuyết Oánh, đều là người lừng danh võ lâm. Con gái Đào Cẩm Thường cũng một thân võ nghệ, nếu chẳng phải bà lão không có ở nhà, con dâu Lê Tuyết Oánh đi khỏi, cho dù bọn Chu Phù Lãng võ công cao đến mấy cũng khó có thể đắc thủ được.
Kết quả là hai anh em Đào Đức và Đào Cẩm Thường nghinh chiến với bọn Chu Phù Lãng bốn người, tuy đả thương hai người, nhưng Đào Đức cũng bị trúng phải Độc Sa Chưởng của Chu Phù Lãng, chấn thương nội tạng và Đào Cẩm Thường thọ thương bị bắt.
Khi bà lão về đến, tìm gặp con dâu bàn tính, vì biết tặc đồ người nhiều thế mạnh và phải khẩn cấp cứu chữa cho Đào Đức, Lê Tuyết Oánh buộc phải về nhà mình ở cách mười lăm dặm đường cầu viện và lấy thuốc, bà lão ở nhà canh phòng cho con trai.
Chu Phù Lãng biết viện thủ của đối phương sắp đến, chắc hẳn sẽ báo thù, y cũng chẳng chịu kém, một mặt triệu tập thủ hạ, một mặt theo dõi động tĩnh của Đào gia.