watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:43:1026/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Khái Hưng > Tiêu Sơn Tráng Sĩ - Trang 9
Chỉ mục bài viết
Tiêu Sơn Tráng Sĩ
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 21

Hồi 15

Ai lên xứ Lạng cùng anh

Một buổi sáng mùa xuân, trên con đường Kinh Bắc, Lạng sơn.
Bấy giờ còn sớm lắm, nên đường rất vắng và hai bên ruộng dân quê ra làm việc đồng áng cũng chưa đông.
Đạp cỏ sương, bốn người lữ khách rảo bước:
Hai nhà sư, một công tử và một chú tiểu quẩy hành lý theo sau. Trong hai nhà sư thì một người lực lưỡng, vạm vỡ, một người bé nhỏ xinh xắn, mắt sáng, môi son, lông mày lá liễu. Thực là một trang nam nhi tuấn tú. Tuy về dung nhan có kém nhà sư ấy đôi chút, chàng công tử cũng là người rất đẹp trai, với cặp mắt phượng long lanh, đôi lông mày bán nguyệt với hai má trắng hồng và cái miệng cười có duyên.
sự đó chẳng có chi lạ vì nhà sư và công tử chỉ là hai thiếu phụ cải nam trang:
Lê hoàng phi và Nhị Nương cùng với Phạm Thái lên trấn Lạng sơn.
Tối hôm trước, lúc Phạm Thái và Nhị Nương về tới Phú Mẫn thì đêm đã khuya, các cửa đều đã đóng kín. Nhị Nương đằng hắng hai tiếng ra hiệu. Tức thì một người núp trên gác tam bảo trèo xuống, thuật lại cho nàng biết rằng sau khi lục lọi khắp các chùa, các đền quanh vùng và không thấy gì, quan quân đã cùng Thị Lợi - tên người con gái đi báo - kéo nhau về Từ sơn. Phạm Thái nghe nói vui mừng, đến một khe cánh cửa lách tay vào khẽ nâng lên. Cánh cửa từ từ mở ra.

Chàng liền cùng Nhị Nương bước vào đền, sau khi thám tử đã leo lên gác tam quan đễ hễ thấy động thì ra hiệu báo.
Trong đền im vắng và tối om. Le lói trên bàn thờ một cây đèn dầu nam, ngọn nhỏ bằng hạt thóc. Phạm Thái lại khêu cao bấc lên, rồi lần vào hậu cung tìm một cây sáp mà chàng vẫn giấu ở đó để khi nào cần đến thì dùng.
Một làn ánh sáng chiếu rọi mấy gian đền. Không một tiếng động nhỏ, không một tiếng mọt kêu. Lặng lẽ như chứa bao nhiêu bí mật của ban đêm.
Phạm Thái nhìn Nhị Nương:
- Quái? Hình như hoàng phi không có đây.
Nhị Nương không đáp, lo lắng đi lại gần cái trống khổng lổ đặt trên sàn và chiếm vừa chật một gian đền rộng. Nàng gõ vào tang trống. Không nghe thấy tiếng trả lời Hai người kinh hoảng nhìn nhau:
Rồi Phạm Thái quả quyết mở cái cửa nách bí mật ở tang trống và ghé vào gọi:
- Tâu hoàng phi, tâu lệnh bà?
Vẫn không có tiếng trả lời. Chàng liền đưa cây sáp vào phía trong nhìn kỹ một lượt Chỉ thấy ngỗn ngang những giấy tờ. Chàng quay bảo Nhị Nương:
- Nguy rồi, hiền tỷ ạ, hoàng phi không có ở trong.
Hai người còn nhớn nhác nhìn quanh thì hoàng phi đã đến bên. Phạm Thái và Nhị Nương phục xuống tạ tội. Hoàng phi đỡ dậy mà rằng:
- Từ nay hai em đừng lạy như vậy. Chị không muốn thế. Hai em coi chị đã là quá lắm rồi, chị đã ơn lắm rồi. Sung sướng gì mà còn rở rói lễ vua tôi, hai em làm chị tủi nhục lắm.
Nhị Nương sụt sịt đáp lại:
- Để lệnh bà vất vả, gian truân thực là tội ở lũ bất trung này....
- Chị đã bảo không được nói đến vua tôi vội mà lại. Chờ khi nào lấy lại được nước hãy hay, chứ bây giờ đang lúc trốn tránh mà các em cứ kêu chị là hoàng phi với lệnh bà lỡ ra khổ đến chị mà lụy đến cả các em.
Nhị Nương hỏi hoàng phi sao không nằm ở trong lòng trống, thì bà đáp lại rằng ra ngoài cho được khoan khoái, vì ở trong ấy khó thở lắm. Không ngờ vừa ra được một lúc thì nghe có tiếng người mở cửa, bà vội núp ở sau một cái cột giáp tường.
Rồi bà thuật lại cho hai người nghe việc khám xét lúc ban chiều:
- Ta nằm trong lòng trống, không dám thở mạnh. Nhị Nương đi được một lát thì bọn họ đến, rầm rầm, rộ rộ, lục soát các nơi, bắt thủ từ mở cả hậu cung ra coi.
Có hai người đứng tựa tang trống nói chuyện. Người nọ bảo người kia:
"Quái? rõ ràng có kẻ trông thấy chúng nó vào đây?" Người kia đáp:
"Thế này thì tức lắm nhỉ ? Vừa nói vừa đấm mạnh một cái vào mặt trống, tiếng kêu inh tai, làm chị giật mình kinh hãi. Lúc quay ra người ấy nói:
Hay chúng nó ẩn trong này." Hắn lại đấm vào mặt trống một cái nữa mạnh hơn. Rồi cả hai cùng cười phá lên. Đoạn, họ kéo nhau đi. Một lúc sau nghe thấy trong đền yên tĩnh, chị mới hoàn hồn. Bây giờ thì ngủ được một giấc, người đã dễ chịu, nhưng mà đói lắm, vì từ sáng đến giờ chưa có một hột cơm trong bụng.
- Tâu lệnh bà....
- Thưa chị?
- Thưa chị, em đã nghĩ đến điều ấy. Đây, oản chuối mời chị xơi. Em lại đem theo cả một thứ này mà chị không ngờ.
Vừa nói, Nhị Nương vừa mở khăn gói nâu ra. Trong có mấy bộ quần áo của sư ông, và đủ các đồ phụ thuộc. Còn oản chuối, bánh gai thì có rất nhiều.
Ba người cùng ngồi ăn. Đoạn, Nhị Nương mời hoàng phi đi nghỉ một lát để lấy sức, vì sắp sửa phải dùng sức. Hoàng Phi hỏi tại sao, thì Phạm Thái nói chàng lĩnh mệnh đảng trưởng đưa bà lên Lạng sơn.
- Ồ ? lên được Lạng sơn thì dẫu chết chị cũng lấy làm sung sướng. Ngày theo quân vương sang Tàu, đến đây chị lạc đường. Chị vẫn ao ước được sang Trung Quốc với quân vương. Bây giờ hai em lại đưa chị lên Lạng thì sau này chị có thể trốn sang Tàu được. ơn ấy chị biết lấy gì đền lại hai em cho xứng đáng.
- Lạy chị, chị nói chi ân nghĩa cho em thêm tủi nhục. Nhưng chỉ một mình Phạm xá đệ được lệnh hộ giá mà thôi.
Hoàng Phi tỏ vẻ kinh ngạc:
- Em không đi? Như thế sao tiện?
Chính Phạm Thái cũng nghĩ đến chỗ không tiện ấy, vì ngắm thấy hoàng phi vừa trẻ vừa đẹp quá đỗi, mà mình chỉ là một nhà sư tạm thời, hơn nữa, một tráng sĩ dội lốt thầy tu. Vẫn biết không khi nào mình phạm vào tội bất chính được, nhưng không tiện thì vẫn là không tiện. Chàng liền nói:
- Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy chí phải.
Rồi quay sang bảo Nhị Nương:
- Hiền tỷ nên đi theo hầu lệnh bà.
- Nhưng chưa có thượng lệnh.
- Được hiền tỷ cứ ở lại đây nghỉ một lát với lệnh bà cho đỡ mệt. Ngu đệ đi Tiêu sơn cho. Chỉ chốc nữa là ngu đệ trở về.

Giữa lúc Phạm Thái sắp nhảy ngựa để đi Tiêu sơn một chú tiểu tiến vào đền, vai quẩy một gánh hành lý.
Hỏi đến có việc gì thì chú nói Phổ Tỉnh thiền sư cho lại giục Phổ Chiêu cùng Nhị Nương phải ngay đêm nay lên đường đưa hoàng phi tới Lạng sơn.
Phạm Thái cả mừng, đua chú tiểu vào trong đền bái yết hoàng phi. Nhị Nương bảo Phạm Thái:
- Đảng trưởng nghĩ chu đáo đến hết mọi việc.
- Truyện? Chẳng thế mà lại là đảng trưởng?
Thế là ngay lúc ấy, hoàng phi và ba người khởi hành.
Đi được một lát thì gà ở các làng bắt đầu gáy sáng và khi đến cầu Dọi thì mặt trời mới mọc, ánh sáng đỏ rực trên đỉnh dẫy núi Neo. Hoàng phi kêu mỏi, vì bà không quwn đi xa. Nhị Nương đỡ ba vào nghĩ trong cầu và mỉm cười nói:
- Sư ông cố gượng đi bộ đến sông Cầu, sang bên Đạo Ngạn đã có ngựa.
Phạm Thái cũng khẽ nói:
- Sang đến bên kia sông thì không cần phòng bị lắm.
ở trong cầu đã có hai người buôn vải ngồi nghỉ. Một người chào hỏi:
- A di đà phật? Chư tăng ở đâu đến đây? Có phải ở mạn Yên Phụ không?
Phạm Thái đáp:
- A di đà phật? Bần tăng ở nơi xa, qua vùng này khuyên giáo để chữa chùa.
Người kia lại hỏi:
- Vậy nhà sư không biết hôm qua ở chợ Phù Mẫn có xẫy ra sự gì?
- Không.
- Nghe đâu tối hôm qua quan quân đánh đuổi một toán cướp ở đấy. Hôm nay có lẽ thế nào quan hiệp trấn cũng đem binh lính về tróc nã.
- Thế à? Ghê sợ nhỉ?

Ba người đưa mắt nhìn nhau, lo sợ.
Phạm Thái lại hỏi:
- Sao bác biết?
- ấy, tối hôm qua chúng tôi ngủ ở nhà trọ nghe người ta nói chuyện với nhau như thế, chả biết có đích xác không?
- Chào bác ngồi nghỉ, chúng tôi đi thôi.
Phạm Thái đứng dậy, hoàng phi và Nhị Nương cũng đứng dậy theo. Rồi, tuy còn mỏi mệt, ai nấy đều cố dấn bước cho mau thoát khỏi nơi nguy hiểm. Và họ rẽ đường tắt đến bến Cổ mễ, chứ không đi qua thành Kinh Bắc.
Đến nơi, Phạm Thái trông sang bờ sông bên kia thì thầm bảo hoàng phi và Nhị Nương :
- Đã có ngựa chờ ở Đạo Ngạn. Mà từ đó trở lên Lạng sơn, việc canh phòng không ngặt quá đâu.
Nhị Nương đáp:
- Chắc người ta chả ngờ đâu hoàng phi đã rời hạt Từ sơn, Đông Ngàn.
Bỗng có tiếng gọi:
- Mấy nhà sư sang đò phải không?
Tưởng là lái thuyền, Phạm Thái trả lời liền:
- Phải, bác có thuyền cho chúng tôi thuê chăng?
Người kia gắt:
- Ai là lái đò? Muốn sang ngang hãy vào trình cậu tuần đã.
hoàng phi còn đương ngơ ngác nhìn Phạm Thái thì người ấy đã nói tiếp:
- Đễ cậu khám hành lý. Lệnh trên truyền xuống ngặt lắm, các người phải biết.
- Nhưng chúng tôi toàn là kẻ tu hành.
- Mặc? lôi thôi mãi. Lại mau?
Chẳng đừng được, bốn người phải theo chú lính tới một cái đồn nhỏ, ngoài cổng treo một cái biển lớn đề ba chữ "Tuần Giang Nhạ" Thấy hoàng phi có vẻ mặt sợ hãi, Phạm Thái khẻ bảo:
- Không lo. Lệ thường vẫn khám xét như thế.
Một người ở trong đồn đi ra. Tên lính lễ phép nói:
- Bẩm cậu, mấy người này qua sông vào xin phép cậu.
"Cậu là người đường trong, trước làm lính theo vua Tây sơn ra Bắc, nay được bổ chứx tuần giang đội trưởng để canh phòng thuyền bè gian phi. Những nơi đồn lũy quan trọng cẩn mật như thế, nhà Tây sơn thường giao cho người Quảng Nam coi giữ, cũng như trước kia họ Trịnh kén ưu binh ở tỉnh Nghệ An dùng làm quận túc vệ sau khi đã khám xét khăn gói, tay nải, cậu tuần đã nhìn thấy Nhị Nương:
- Thày này cũng sang sông?
- Thưa vâng.
- Vậy tín bài đâu đưa xem?
hoàng phi tái người. Nhưng Nhị Nương rất bình tỉnh thản nhiên, thò tay vào bọc rút ra một cái thẻ đưa cho viên đội trưởng mà nói rằng:
- Thưa đây.
Viên kia đọc:
- Nguyễn Đức Minh, người làng Đông Phủ, huyện Đông Ngàn, phải không?
- Thưa vâng ạ.
- Vậy cặp chỉ xem có đúng không?
Nhị Nương đưa bàn tay trắng trẻo, mềm mại cặp ngón trỏ và ngón giữa và tờ giây.
- Thôi được rồi. Cho đi?
Ra đến ngoài hoàng phi hỏi Nhị Nương:
- Tín bài kiếm ở đâu thế?
- Phổ Bác nên cẩn thận hơn một chút. Sang bên kia sông đã hẵng hay.
Rồi lẳng lặng bốn người cùng xuống thuyền sang ngang.
Hồi 16
Sông nước

Thuyền ra tới giữa sông, Phạm Thái trợn mắt nhìn người lái đò, trong lòng áy náy lo sợ. Vì giòng nước chảy xiết, đáng lẽ phải hết sức chèo mau để vượt qua, thì người ấy chỉ giữ tay lái cho thuyền trôi xuôi.
- Ông lái?
- Dạ.
- Chúng tôi sang ngang kia mà.
- Phải, tôi biết. Nhưng quý hồ thuyền đậu vào bờ là được, chứ gì?
Phạm Thái đoán chừng chú lái muốn sinh sự, giở thói bóc lột. Chàng nghĩ thầm:
"Nếu quả thế thì thằng cha này giỏi thực? Nhưng đến bọn cướp ở bến đò Lũ, ta còn trị nổi, nữa là thứ mày? ...." Thuyền vẫn trôi phăng phăng. Không những thế, thỉnh thoảng chú lái lại còn bẩy thêm một mái chèo nữa....
- Ô kìa? sao thế này?
Nghe hoàng phi nhớn nhác hỏi, người lái đò lễ phép đáp:
- Tâu lệnh bà, xin lệnh bà cứ yên lòng.

Ba người đưa mắt liếc nhau khiếp sợ, nguồi trơ như phỗng đá. Bỗng Phạm Thái thò vào trong bọc rút thanh đoản đao. Thấy vậy, Nhị Nương cũng tay trái cầm võ kiếm, tay phải nắm chuôi kiếm. Hoàng phi đăm đăm nhìn, không hiểu sao kẻ kia lại dò biết được tung tích của mình.... Nhưng người lái thuyền vẫn bình tỉnh, thản nhiên.
- Nếu nhà ngươi không vẻ lái cho thuyền vào bờ, thì ta thề rằng nhà ngươi không thể sống mà về được với vợ con tối nay.
Vừa nói, Phạm Thái vừa dữ tợn, quả quyết giơ đoản đao lên. Người chở thuyền không đổi sắt mặt, buông mái chèo ra mà cười phá lên, khiến thuyền không lái chồng chềnh ở giữa giòng sông:
- Phạm Thái giỏi đấy? Nhưng ta không có vợ, con hay chưa có vợ con thì đúng hơn.
Nhị Nương và hoàng phi nhìn nhau kinh hãi Nhưng Phạm Thái yên lặng tươi cười, tra đao vào vỏ giấu trong áo cà sa, rồi ôn tồn bảo người lái đò:
- Không cần có thông minh gớm ghiếc mới đoán được rằng tôn ông đây chẳng phải là một chú lái tầm thường. Vậy tôi xin hỏi:
Tôn ông muốn gì?
Người lái đò vói vội lấy mái chèo giữ cho thuyền đi thẳng rồi cười lớn mà đáp răng:
- Ta muốn biết Phạm Thái tức Phạm Phụng, tức Phổ Chiêu thiền sư đã giết được bao nhiêu bạn đồng nghiệp của ta ở bến đò Kim Lũ?
Phạm Thái cũng cười:
- Nghĩa là tôn ông muốn trả thù cho bạn lục lâm chứ gì ? Bần tăng đây xin sẵn lòng nghênh tiếp, nhưng....
- Nhưng sao?
- Nhưng bần tăng vẫn không tin như thế.
- Không tin cái gì kia chứ?
- Không tin rằng tôn ông theo nghề trộm cướp. Bần tăng đoán già rằng, tôn ông phi là thám tử của triều đình, thì là một tay hảo hán, sống một đời tự do ngang dọc. Nếu thực tôn ông là thám tử, thì bần tăng thương hại cho cây đoản đao của bần tăng quá, vì thế nào cũng đâm trúng họng tôn ông, nhất tôn ông lại biết lai lịch của bần tăng đây, mà xin thú thực cùng tôn ông, xưa nay chưa có kẻ thù nào biết lai lịch của bần tăng mà thoát chết được. Còn như nếu tôn ông là tay anh hùng hảo hán thì xin mau mau cho biết đại danh, để bần tăng thờ là quý hữu.
Hoàng phi nói thầm bảo Nhị Nương:
- Quái? Chị trông người này không quen nhưng nghe tiếng nói, thì hình như đã gặp nhiều lần.
Người lái đò vẫn cười, rồi hất hàm hỏi Phạm Thái:
- Biết bơi không?
- ái chà? Khá nhỉ? Ý chừng chú lái có dã tâm muốn chọc thủng thuyền chăng?

Ta can, vì nhà ngươi bị dìm chết ở đáy sông mất.
- Nhưng còn hoàng phi?
- Đã có công tử đây phò giá. Ngươi không cần phải lo hộ.
Lúc bấy giờ thuyền trôi đã được một quãng xa. Người lái đò liền bắt mạnh cho mũi thuyền rạt vào vãi sậy bên vệ sông. Nhị Nương rút phắt kiếm ra thét:
- Sao lại đưa chúng ta vào đây?
Người kia vẫn không đổi sắt mặt, ôn tồn nói:
- Tra kiếm vào vỏ?
Nhị Nương kinh ngạc, nhìn Phạm Thái, chàng bảo:
- Cứ tra kiếm vào vỏ xem hắn làm trò gì.
Người lái đò lẳng lặng cắm sào, rồi sụp xuống lạy hoàng phi:
- Đào Phùng xin khấu đầu làm lễ.
Hoàng Phi vui mừng không kịp giữ gìn:
- Trời ơi? em Đào Phùng? Thảo nào chị cứ ngờ ngợ. Nhưng mặt mũi em gớm ghiếc thế kia?
Đào Phùng quay ra hỏi Phạm Thái:
- Đạo hiệu của hoàng phi là gì?
- Phổ Bác thiền sư.
- Bạch thiền sư, chẳng có gì lạ hết. Nhân được nếm mùi kìm chín ở phủ Từ sơn trong ít lâu Phùng này đã nhận thấy ích lợi của thứ hình phạt ấy....

Phạm Thái vội kêu:
- Trời ơi? Dễ thường Đào quân dùng kìm đốt xém da mặt chăng?
- Thưa Phạm đại huynh, khi người ta làm một tôi trung thì người ta không cần có bộ mặt đẹp cho lắm. Huống chi mặt kẻ ngu si này lại bị bên địch biết nhẵn. Vậy thì có ngần ngại gì mà không vạc nó đi. Bây giờ Đào Phùng không còn là Đào Phùng nữa, mà chỉ là Nguyễn Phác làm nghề chở thuyền.
Ba người lấy làm khiếp phục cái cách trá hình phi thường của Đào Phùng, hoàng phi hỏi:
- Nhưng cớ sao, ban nãy em làm cho chúng ta lo sợ vì những ngôn ngữ, cử chỉ khả nghi của em?
Đào Phùng cười:
- Em xin lỗi thiền sư.... Đó là em thử xem Phạm Thái có thực là đấng anh hùng như người ta đồn đại không? Nếu không thì....
- Nều không thì sao?
- Thì em bắt Phạm Thái ở lại, để em tự đảm nhận lấy cái trọng trách phò giá hoàng phi lên trấn Lạng.

Phạm Thái kinh ngạc:
- Sao Đào quân biết ngu đệ phò giá hoàng phi lên trấn Lạng?
- Làm một đảng trưởng thì cái gì mà không phải biết? Ta còn biết nhiều.
Chẳng hạn Quang Ngọc muốn đảng ta hợp nhất với đảng Tiêu sơn. Nhưng ta thiết tưởng cứ để hai đảng, mà cùng hành động thì vẫn lợi hơn.
Phạm Thái đăm đăm nhìn Đào Phùng.
- Có lẽ lắm. Nhưng ngu đệ xin khuyên hiền hữu hãy để việc ấy vào một bên.
- Bây giờ thì ta yên tâm rồi. Phạm quân có thể đương nổi việc, nhất lại có Nhị Nương trợ lực.
Nhị Nương cười ròn như nắc nẻ:
- Ông mà không phải là Đào Phùng thì tôi quyết tặng ông một lưỡi kiếm cho ông lộn cổ xuống sông, hết kiếp. Nhưng bây giờ thì ông đưa chúng tôi đến bến chứ?
Đào Phùng xua tay:
- Bất khả? sáng nay một toán quân vừa sang sông để đi thủ trấn Lạng sơn.
Vậy nên ở dốn lại cho bọn kia đi trước vài hôm đã. ấy chỉ vì thế mà Phùng này phải đón xa giá ở bến để giữ lại.
Hoàng phi cười:
- Em Đào rõ khéo nói kiểu cách. Làm gì có xa giá kia chứ. Nhưng em định để chị ở đâu?
- Bạch thiền sư, ở dưới chân núi Yên Xá, cách đây độ một dặm nữa thôi.
Hoàng phi nhìn Phạm Thái như để hỏi dò ý kiến. Rồi không thấy chàng nói gạt, liền nhận lời và bảo Đào Phùng chở thuyền đưa về nhà.
Một lát sau, thuyền đậu bên cạnh một bãi sậy um tùm. Một con đường nhỏ lách giữa đám lá rậm đưa quanh co đến chân núi. Năm người leo tới một dinh cơ khá rộng, làm chênh vênh trên sườn núi đất thoai thoải.
Chủ gọi người nhà bảo giết gà thết khách, và xin lỗi các vị thiền sư, vì không biết làm cơm chay. Nhưng các thiền sư cũng vui lòng nhận lời dùng cơm mặn.

Hồi 17
Một nhà ẩn sĩ

Hoàng phi, Phạm Thái và Nhị Nương ở lại nhà Đào Phùng hai hôm. Trong hai hôm ấy, mấy người luôn luôn nói chuyện với nhau về binh thư và chiến lược. Có khi lại rủ nhau lại ngọn núi Yên Xá để đấu võ. Đào Phùng lấy làm phục võ nghệ của Phạm Thái và Nhị Nương lắm.
Hôm thứ ba, bốn người từ biệt lên đường. Đào Phùng nói nên đi tắt đến Hoàng Mai, rồi từ Hoàng Mai đi tắt lên Lạng Thượng. Nhưng bốn con ngựa lại đã để chờ sẵn ở Đạo Ngạn. Đào Phùng liền cùng Phạm Thái và chú tiểu chở thuyền ngược lên đó, để đem ngựa về, một mình Nhị Nương ở nhà hộ vệ hoàng phi.
Vào buổi trưa ba người trở về, mỗi người cười một con ngựa, Phạm Thái kèm thêm một con.
Nhưng khi đi đến sân, thì một cảnh tưởng ghê gớm bày ra trước mắt:
bốn cái thây lực lưỡng nằm sóng sượt ở bên mấy gốc thông. Phạm Thái hốt hoãng:
- Hoàng phi đâu? Thôi chết rồi?
- Hoàng phi ở đây?
Nghe tiếng Nhị Nương đáp lại Phạm Thái mới hết lo, chạy vội vào trong nhà, nói với hoàng phi:
- Để lệnh bà khiếp sợ, thực tội hạ thần to lắm.
Hoàng phi cau mày:
- Chỉ vì các em không nghe lời chị, cứ luôn miệng lệnh bà, với tâu, với hạ thần nên mới xảy ra cái hoa. tày trời này. May mà có Nhị Nương dấy, chứ không thì cũng chưa biết chừng chị còn sống mà ngồi đây. Chỉ thương Đào quân có bốn tên người nhà bị Nhị Nương giết mất cả.... Rõ thật Đào quân làm ơn nên oán....
Đào Phùng lại phục xuống đất khóc xin chịu tội. Xong chàng quay ra hỏi Nhị Nương :
- Đầu đuôi câu chuyện ra sao, thưa quý nương?

Nhị Nương liền thuật lại cho hai người nghe:
- Mấy tên kia biết rằng trong bọn khách của chủ chúng nó có bà hoàng phi.
Nhân thấy Đào Phùng, Phạm Thái ra đi, ở nhà chỉ còn hoàng phi với một chàng công tử nhỏ, xinh xắn như con gái, chúng liền bàn cùng nhau ra tay bắt nộp quan lĩnh thưởng. Chẳng ngờ chàng công tử bé nhỏ lại có võ nghệ cao cường, chỉ đưa bốn mũi kiếm là bốn đứa hoá bốn cái thây ma.
Đào Phùng cười ha hả, nhưng tiếng cười có giấu nỗi buồn vô hạn:
- Thực đáng kiếp cho bốn thằng phản chủ? Chúng là bốn tên thuyền chài, ngu đệ tuy dùng, nhưng mà cũng nơm nớp lo sợ, vì thế trong câu truyện, khi có chúng đứng hầu, ngu đệ vẫn phải giữ gìn. Nhưng không biết sao chúng nó lại hay rằng Phổ Bác thiền sư là hoàng phi?
Đào Phùng ngẫm nghĩ một lát, rồi như chợt hiểu, chạy lại soát quần áo bốn đứa vừa bị giết thì trong hầu bao một thằng có một tờ giấy chữ đầy những dấu son đỏ chói. Đào Phùng kêu:
- Đã biết ngay mà? Một tên thám tử.
Vừa nói, chàng vừa đạp mạnh vào cái xác, rồi gập tờ giấy bỏ vào bọc.
Cả năm người cùng có vẻ lo lắng, suy nghĩ Hoàng phi nhìn xuống chân đồi:
Con sông cầu lượn khác chảy về phía đông, giòng nườc lấp lánh dưới ánh trời trưa. Bổng bà buông một tiếng thở dài, chán ngán.
Đào Phùng cúi đầu tạ tội:
- Để lệnh bà sợ hãi, kẻ hạ thần thực đáng chết.
Hoàng phi như không nghe thấy gì hết, cặp mắt tuôn hai giòng lệ. Rồi bà thổn thức bảo Nhị Nương và Phạm Thái:
- Hay tôi, ta đừng đi Lạng sơn nữa hai em ạ.
Nhị Nương an ủi:
- Tâu lệnh bà, không bao giờ ta nên nản lòng. Ta phải....

Không để cho Nhị Nương dút câu, hoàng phi tiếp luôn:
- Vì, các em ạ, chị còn sống đến ngày nay là chị mong ước mai sau được gặp hoàng đế.... Nhưng hoàng đế thăng hà rồi các em ơi, thì chị còn sống làm gì nữa, thà chị thác đi để dưới suối vàng được cùng hoàng đế tương kiến....
Bà bưng mặt nức nở khóc. Phạm Thái nói:
- Nhưng hoàng đế hiện còn sống, sao lệnh bà lại nói gở thế?
- Không, đích thực hoàng đế thăng hà rồi. Đêm hôm qua chị nằm mộng thấy hoàng đế khóc mà bải chị rằng "ái khanh ơi, đôi ta ngày nay đã âm dương cách biệt. Ta không hề oán giận điều gì, ví dù có ở dương thế ta cũng chẳng hy vọng được cùng ái không hội ngộ." Rồi hoàng đế tả những cảnh khổ sở, những nỗi gian nan, các em để chị chết cho được gặp mặt hoàng đế ở dưới cửu tuyền, chứ chị sống thêm một ngày là thêm một ngày đầy đoa. ở dương gian....
Đào Phùng, Phạm Thái và Nhị Nương xúm lại khuyên giải, lâu dần hoàng phi cũng ngôi nguôi.
Nhị Nương nói:
- Vì lệnh bà tưởng nhớ hoàng thượng quá nên hoá mộng đó thôi. chứ vừa có người ở bên Trung quốc về nước nói hoàng thượng hiện đóng ở Tràng An chờ binh cứu viện của nhà Thanh.
Nhị Nương bịa đặt ra tin ấy, để yên lòng hoàng phi mà thôi. Kỳ thực, các yếu nhân trong đảng Tiêu sơn thừa biết rằng vua Chiêu Thống không chịu nỗi những sự nhục nhã, những sự khinh mạnh của người Tàu đã chết rồi, chết theo hoàng tử đã ba năm trước. Nếu trong các tờ hịch, các mật thư gửi cho nhau họ vẫn còn dùng niên hiệu Chiêu Thống là chỉ cốt để khỏi náo động lòng các đảng viên và nhân dân các nước đang mến tiếc nhà Lê. Vả họ cho rằng nước không thể một ngày không vua được, mà vua Quang Toản nhà Tây sơn thì họ nhất định không công nhận là ông vua chính thức của nước Việt Nam. Vì vậy trong khi chưa tìm được một người trong hoàng tộc để tôn lên ngôi hoàng đế, đảng Tiêu sơn tạm phải coi như vua Chiêu Thống hãy còn sống, để làm trụ thạch cho công cuộc khởi nghĩa của đảng Phạm Thái bỗng dục:
- Tâu lệnh bà, bây giờ sang giờ Mùi rồi, ta phải đi kíp, thì tối nay mới có thể tới Lạng Giang được.

Đào Phùng bàn:
- Lệnh bà nên nghỉ lại Hoàng Mai, sớm mai hãy lên Lạng Giang thì hơn. Như thế lệnh bà đỡ nhọc mệt mà ngựa lại được nghỉ ngơi dưỡng sức.
Ai nấy còn đương suy nghĩ thì Đào Phùng lại nói luôn:
- Tôi xin có thư giới thiệu của Phạm hiền hữu, một nhà ẩn sĩ ở Hoàng Mai tên là Phạm Quảng Văn. Người ấy đậu tiến sĩ về cuối đời Cảnh Hưng, văn chương lỗi lạc, chỉ vì tính cương trực nên không được chúa sâm trọng dụng. Vả ông ta cũng không thích ra làm quan, bỏ về làng dạy học, lấy sự chơi núi cao, sông rộng, uống rượn, ngâm thơ làm thú. Ngày bà hoàng phi họ Đặng mưu việc phế lập muốn tìm vậy cánh cho Trịnh cán để chống nhau với Trịnh Khải, cũng đã nghĩ đến ông Nghè trẻ tuổi ấy, mà đòi ông ta về triều, vì có ông Ngô thì Nhậm đậu cùng khoa với ông ta tiến cử. Nhưng ông ta không ưa những sự âm mưu ám muội, nên cáo ốm ở lỳ nhà Hiền hữu nên đến chơi ông ta, vì ông ta không những có văn tài, mà về binh lược, ông ta cũng khá lắm. Khi xưa quận Nhưỡng đóng binh ở Hải Dương cũng có mời ông ta đến tham nghị. ông ta tấy Nhưỡng có tính phản trắc, biết không làm nổi việc lớn nên vừa đến ông ta đã về ngay. Từ đó tới nay, ông ta không nghĩ đến việc nước nữa, cho rằng vận nhà Lê đến thì mạt, dẫu có tài Trương Lương, Gia Cát cũng không thễ cứu vãn nổi, nên đành chịu khoanh tay phục tòng thiên mệnh mà thôi.
Phạm Thái thở dài bảo Đào Phùng:
- Người anh hùng cứu quốc khi nào lại chịu phục tòng số mệnh? Chỉ biết một ciệc là hành động, hành động cho tới giờ cuối cùng.... Tránh sự gian nguy mà mình biết chắc chắn đương đợi mình, để được an nhàn ở một nơi dật lạc, không bận trí đến việc đời, việc nước, hạng ấy người ta cho là bậc ẩn sĩ, nhưng tôi, tôi chỉ cho là phường ích kỷ, ham sống, có đáng kể chi. Thưa hiền hữu, tôi không phục Phạm Quảng Văn một chút nào.
- Nhưng, thưa hiền hữu Quảng Văn rất tự phụ thông phép tuoán Thái ất. ông ta bảo ông ta biết chắc chắn rằng vận nhà Lê hết rồi.
Phạm Thái cả cười đáp:
- Bây giờ giá Triệu Nghiêu Phụ tái sinh bảo tôi như thế, tôi cũng không tin kia mà. Tài lực của đấng anh hùng phải cố đoạt nổi số mệnh. Bằng không thì chết. Mà cái chết như thế còn có nghĩa lý hơn cái chết dần mòn của kẻ ẩn sĩ trong xó tối.
- Những kẻ ẩn sĩ có đợi cái chết già ở nơi nhàn dật đâu? Họ chỉ đợi thời mà thôi Nhị Nương yên lặng đứng nghe từ nãy tới giờ. Bỗng nàng mỉm cười bảo Đào Phùng :
- Bậc hảo hán không bao giờ chịu đợi thời thế.
Phạm Thái và Đào Phùng cất tiếng cười vang:
- Khảng khái thay lời nói của quý nương?

Nhưng ai nấy ngừng bặt, vì vừa thoáng nhìn thấy hai má hoàng phi đẫm lệ.
Chưa kịp khỏi duyên cớ thì bà đã lau nước mắt, buồn rầu nói:
- Nếu quả thực vận nhà Lê hết rồi, thì các em nên thôi đi, đừng hành nữa mà mất công vô ích.
Phạm Thái cúi đầu đáp:
- Tâu lệnh bà đời kẻ tráng sĩ chỉ có một nghĩa là hành động. Còn sự thành, bại cùng sự sống, chết, không nên để trí nghĩ quá.
Nhị Nương cũng nói:
- Vả lại, tâu lệnh bà, phép toán Thái ất đã lấy gì làm đúng. Xin lệnh bà cứ vững lòng tin cậy cho.
Hoàng phi cười gượng:
- Chị thực kém em nhiều lắm. Vậy bây giờ ta lên đường thôi chứ?
Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Tâu lệnh bà, đi Lạng Giang thì không kịp. Mà đến nhà cái ông ẩn sĩ Hoàng Mai thì thực không nên. Vậy Đào hiền hữu ơi, hiền hữu mau sắp cơm nước hầu lệnh bà xơi, mai chúng tôi hãy hộ giá đi sớm.
Đào Phùng vui mừng toan gọi người nhà, nhưng trông ra sân, chàng bỗng giật mình nhớ đến bốn cái xác, Nhị Nương cũng nhìn theo và hiểu ý chàng?
- Không hề gì. Việc bếp nước đã có ngu muội.
Nàng mỉm cười nói tiếp:
- Giết nhà bếp của đại huynh thì cố nhiên phải làm bếp thay chứ. Được cái việc bếp nước em cũng khá thạo. Hỏa đầu quân Nhị Nương đây.
Mọi người cười rộ lên, quên hẳn câu chuyện buồn rầu.
- Nhưng trong khi Nhị Nương này làm cơm thì xin đại huynh cùng hiền đệ chôn cất cho mấy người chết.
Phạm Thái lẩm bẩm:
- Rõ khéo? Một người giết, hai người khác phải chôn?
Hôm ấy mãi sang giờ Thân mới có cơm trưa. ăn xong, mọi người ngồi bàn về hành trình. Đào Phùng đã nhiều lần đi Lạng sơn nên rất thông thuộc đường lối, vẽ phác ra một bức bản đồ, ghi những nơi có thể nghĩ lại được. Đoạn chàng hỏi Phạm Thái:
- Hiền hữu lên Lạng sơn phen này đã có chủ định gì chưa?
Phạm Thái đáp:
- Kể thì tôi vâng lời đảng trưởng, hộ giá Hoàng phi đến trấn Lạng sơn, rồi lại trở về ngay. Nhưng nếu gặp việc quan trọng mà cần ở lại thì tôi cũng ở lại.

Phạm Thái nói thế là vì chưa tin hẳn bụng Đào Phùng, không muốn lộ sự bí mật trong đảng. Kỳ thực chàng lên Lạng sơn còn có một mục đích khác, khẩn yếu hơn.
Nguyên Phổ T nh thiền sư có một người đồng chí trẻ tuổi, hiện lĩnh chức trấn thủ trấn Lạng sơn, là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thu, người làng Thanh Nê, trấn sơn Nam. Đã nhiều lần Thanh Xuyên hầu cho mang thư về mật xin Phổ T nh cử lên Lạng một người có đại tài để lập một chi đảng ở đó. Phổ T nh ngỏ lời với Phổ Chiêu muốn cắt Chiêu đương việc ấy. Vậy nay nhân dịp hộ gia hoàng phi lên Lạng, Phạm Thái sẽ ở luôn đó, nói là để giúp việc sư trưởng chùa Tam Thanh, nhưng kỳ thực để giúp Trương Đăng Thu về việc phục hưng nhà Lê. Trương làm trấn thủ ở một trấn nơi biên thuỳ khẩn yếu, dưới quyền có tới năm, sáu nghìn binh lính tinh nhuệ Khi lâm đến đại sự sẽ dụ theo để chiếm cứ ngay lấy trấn làm nơi sào huyệt của đảng, việc ấy thật dễ như trở bàn tay.
Quang Ngọc cũng thấy rõ sự lợi ích ấy, nên hôm đảng viên đảng Tiêu sơn tụ họp, chàng không đem việc lập chi đảng ở Lạng sơn ra bàn, sợ nhỡ việc ấy tiết lộ ra ngoài đảng thì Trương Đăng Thu sẽ bị hại, hay ít ra cũng bị cách, và như thế, đảng Tiêu sơn đến có ngàn cũng chẵng làm nên trò trống gì, vì sức mạnh của đảng sau này sẽ trông vào một quân đội lớn như quân đội Lạng sơn.

HOMECHAT
1 | 1 | 191
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com