Hai bên tìm đủ cách để trao đổi thư từ văn thơ với nhau mà Trương công và Trương phu nhân vẫn chưa ngờ vực một tí gì.
Một đôi khi, nhưng hôm mưa gió lớn, sấm chớp đầy trời. Phạm Thái cũng mơ màng tới sự nguy hiểm gian nan của thời oanh liệt, và nhớ tới bọn anh em đồng chí đương mạnh bạo quả quyết theo đuổi việc lớn. Những khi ấy, cái thú ủy mị của tình yêu vị tất đã thắng nổi cái thú xông xáo theo tìm cái chết. Nhưng than ôi, cái chế thì xa mà tình yêu thì ở ngay bên cạnh, nó dỗ dành, nó an ủi, nó dẫn dụ mình vào cõi mộng.
Phạm Thái sợ nhất những lúc nhớ đến Nhị nương vì tình yêu của nàng đối với trần Quang Ngọc. Chàng mỉm cười, nghĩ thầm để chữa thẹn, tự tha thứ:
"Người ta làm đảng trưởng có khác ? Ta ví sao được?" Rồi chàng giật mình kinh hãi, nhầm ôn lại những điều lệ nghiêm khắc của đảng Tiêu sơn đối với các đảng viên, Phải, bị triều đình Tây sơn truy nã thì còn có thể trốn tránh được, chứ bị đảng Tiêu sơn kết án thì chỉ có một việc chờ chết.
Hôm nay Phạm Thái càng lo sợ và toan bỏ đi ngay. Chết, chàng không quản.
Nhưng vì một người con gái, mà sao nhãng chí lớn, dù sao nhãng trong một thời kỳ ngắn ngủi, chàng lấy thế làm xấu hổ với lương tâm. Song một ý nghĩ còn giữ chàng lại, khác nào mảnh ván trôi sông giữ người đám thuyền lênh đênh trên mặt nước. Chàng tự nhủ thầm:
"Ư, sao ta không dụ Quỳnh Như vào đảng Tiêu sơn, như ta vẫn định từ trước?" Những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ của Quỳnh Như tỏ ra rằng nàng là một thiếu nữ tài năng phi thường, chẳng kém gì Nhị nương. Chàng còn nhớ tới lời bình phẩm của Nhị nương khi chàng thuật truyện Quỳnh Như cho nghe. Nàng nói:
"Đảng ta mà được người ấy thì hay biết bao?" Rồi Nhị nương khuyên chàng nên cám dỗ Quỳnh Như, đưa nàng vào đảng.
Phạm Thái mỉm cười:
"Cám dỗ thì ta đã cám dỗ xong rồi. Chỉ còn việc đưa nàng vào đảng. Việc ấy có lẽ khó hơn nhiều. Vì chính ta còn đương mê muội trong vòng tình ái, ta phải làm một bài thơ trường thiên để gửi cho Quỳnh Như mà dụ nàng." Phạm Thái vui mừng, hăng hái, lấy giấy bút ra viết.
Bọn trò nhỏ kể nghĩa xong đã xuống cả dưới nhà ngang. Chàng rất được bình tĩnh mà nghỉ thơ.
Nhưng chàng vừa mài xong mực, thì đứa thị tỳ lên nhà họ nói mượn cho Quỳnh Như bộ Đường thi. Kỳ thực nó chỉ cốt lên để trao cho Phạm Thái một bức hoa tiên.
Phạm Thái vội vút cả nghiên, cả bút, vội quên cả lời khuyên răn, dỗ dành:
chàng chỉ còn trông thấy bức thư và nét bút của Quỳnh Như mà thôi. Chàng đọc đi đọc lại bài thơ viết theo điệu Tây Giang nguyệt rồi tiện bút tiện mực, chàng phúc đáp như sau này:
~41 lên tử các thanh vân, Hỏi thăm ả Tố, chiều xuân thế nào?
Cầm âm một khúc gởi trao.
Cậy lòng vì gió đưa vào xuân cung, oanh yến véo von gọi khách, Cỏ hoa hớn hở gọi ai, Gió xuân hay hẩy giục đưa người, Đẽ khiến lòng thơ bối rối.
Thấp thoáng thoi oanh dệt liễu, Thung thăngphấn bướm dồi mài, Vũ lăng xa diễn biết bao vời! Khôn hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Không hỏi Đào Nguyên đâu cả?
Giòng ngư câu đeo lá tình chi, May thay một hội tương kỳ, Đễ bên tình phận lại bề phong lưu, Câu hảo cầu đợi người thục nữ, Năm mây phong đôi chữ đồng tâm.
Đón xuân nhắn với tri âm, Tính tình xin tỏ tiế ing cầ này cho, Rắp hẹn hò, ngồi hoa đứng tuyết, Lòng còn e khôn biết nói năng.
Bây giờ mượn gió cung Đằng, duyên đua mối xích thằng lại đây.
Thơ rằng:
Từ chốn thềm cung trộm dấu hương, Dễxui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt trong đàn oán, Trăng lạnh chênh vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên vênh rạng bóng dương.
Nếu đã tình duyên dun dủi phận, Thì xin ân ái vẹn nên đường, Phong lưu đội lứa đà ai dễ, Bụi tục chi cho bợn lóa gương?
Tục trần chi để lóa gương?
Tuyết, mai là tiết, liễu, dương, ấy tình, Khôn hoa vừa mảnh phong thanh, Nức gương hnh các, nổi danh tao đàn, Trong tình thú hồng nhan dễ mấy! Chốn phòng trang trộm thấy phong quang.
Xui lòng du tử thêm càng, Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền ?
Tâm sự gửi hoa tiên một bức, Từ chương khôn sánh bực hào hoa, Những thi ân ái thế, Tài nương xin hãy xét ta chữ tình, Bóng quế mờ mờ trước nóc, Hơi hương hây hẩy bên thềm.
Ngón cầm dìu dặt nhắn thâu đêm, Văng vẳng khêu sầu dường điểm ! Cành tuyết ngoài rèm mới rớm, Chồi mai bên cửa vừa cầm, Vườn đào quạnh quễ mượn ai tầm, Mấy bức gấm phong im ỉm! Im ỉm gấm phong mấy bức, Điểm một ngày dằng dặc dường niên, Đẽ ai đưa đón cung tiên, Xếp nghề vũ lại, để bên trường tình, Mâyphủ vóc hình thương cẩu.
Nguyệt mờ ám vẻ ngọc thiềm.
Bóng đèn xanh thắm lọt năm đêm, Dì dõi khắp sầu khôn điểm.
Mấy tiếng khẽ thêm luống gẩy, Vài phen ngấm mực còn cầm.
Tuyết lồng thôn hạnh biết đâu tầm?
Chín khúc sầu trường im ỉm.
Im ỉm sầu trường chín khúc, Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư, Cầm sao thấy điệu ngẩn ngơ, sầu ai luống để khách thơ thêm càng! Viết xong, Phạm Thái đọc lại một lượt lấy làm vừa ý lắm. Lúc ấy có lẽ chí lớn đã hoàn toàn biến thành tình yêu.
Rồi chàng ngồi chờ thị tỳ lên để trao thư cho nó đưa xuống phòng thêu.
Nhưng chờ mãi đến trưa vẫn không thấy nó lên.
Chàng sốt ruột liền nghĩ ra một cách, tuy hơi nguy hiểm nhưng rất igản dị:
là viết phóng son cho hai đứa cháu Quỳnh Như tô. Chàng tự nhủ thầm:
"Viết ra hai đoạn như thế, dẫu Trương công có đọc qua cũng chẳng hiểu được." Chàng sung sướng làm theo ý nghĩ rồi chiều hôm ấy, chàng bảo học trò đem phóng xuống cho Quỳnh Như xem.
Quỳnh Như gnồi bên cửa sổ, thêu chiếc riềm màn với chỉ kim tuyến. Đã mấy hôm nay, việc nữ công nàng biếng nhác. Sáng ngày, khung cửi im tiếng, xa không quay, quặng để nhện trăng. Nàng lấy nê mải thêu bức riềm màn tặng cha, nhưng bức riềm màn ấy mới xong được mươi mũi chỉ. Nàng những mải ngắm trời ngắm mây, ngắm hoa, ngắm bướm mà hết thì giờ.
Có khi đương giở mủi kim, nàng ngừng lại, đứng dậy tìm bút mực và giấy hoa tiên, đề một bài thơ. Vì một con chim khuyên ở đầu cành liểu thướt tha trước gió, hay đôi bướm trắng đuổi nhau lượn vòng quanh bộ núi giả vừa gợi ra trong trí nàng một bài thơ tứ tuyệt, nên nàng vội ghi lên giấy những cảm tưởng dịu dàng với những vần êm ái, những điệu du dương.
Quỳnh Như đề xong thơ, mỉm cười lẩm bẩm:
"Cũng khá đấy? Rồi ta nhờ Phạm quân nhuận sắc cho".
Tưởng tới Phạm Thái, nàng không khỏi bối rối. Nàng vẫn tự phụ rằng nàng có con mắt tinh đời, đã đoán biết Phạm Thái không phải là một thiền sư ngay từ khi chàng còn mặc áo cà sa và đeo tràng hạt. Nàng sung sướng tự nhủ thầm:
"Tài ấy mà gặp buổi thái bình thì chẳng trạng nguyên cũng thám hoa, bảng nhỡn".
Một cảnh rực rỡ tưng bừng hiện ngay trước mắt tưởng tượng của nàng. Một trang phong lưu công tử vừa l~nh mũ áo trạng nguyên, cưởi ngựa vào cung dự yến.
áo màu lam, ngựa sắc trắng, thấp thoáng dưới lầu hồng, trong đám người xung quanh để xem mặt ông tân khoa. Ngồi trên lầu, nàng gieo xuống một quả cầu thêu chỉ ngũ s ắc . . .
Quỳnh Như giật mình tỉnh mộng, vì nàng vừa ném ra vườn cuộn chỉ thêu đương cầm trong tay. Và nàng buông tiếng thở dài chán ngán, nhớ đến cái thân thế kỳ dị bí mật của người nàng yêu:
"Ư, lạ lùng thật? làm quân sư cho một tướng giặc, rồi đi tu, rồi lập đảng. Đời chàng sao mà nhiều gian nguy đến thế?" Cái bóng ông trạng nguyên cưỡi ngựa bạch đã biến thành hình ảnh một tráng sĩ múa gươm trên lưng con ngựa nhuốm máu hồng phi nước đại ở giữa dắm can qua, ở giữa tiếng chiêng, tiếng trống rầm trời, bụi bay mù mịt.
Quỳnh Như lo lắng, sợ hãi, tưởng tượng mình đương cùng người yêu đứng trong vòng tên đạn.
Nàng tự thẹn và nhớ lại hôm mới biết Phạm Thái, nàng chỉ mong ước chàng theo đuổi chí lớn, giúp nhà Lê lấy lại giang sơn. Nhưng mấy tháng xa cách Phạm Thái đã làm cho nguội lạnh chí cao xa mà làm bồng bột tình thương nhớ. Bây giờ, nàng chỉ lo có một điều:
là phải cùng Phạm Thái biệt ly.
Nàng đương ngồi buồn rầu suy nghĩ thì Trương Đăng Quế, cháu nàng, mang quyển phóng vào khoe:
- Cô ơi ? Cô coi chữ cháu tô có tốt không?
Quỳnh Như sung sướng cầm xem, vì nàng vẫn khao khát được ngắm nét bút tươi tắn, mềm mại của Phạm Thái. Nhưng vừa đọc được mấy câu đầu, nàng đã phải mỉm cười:
- Cái anh chàng này mới ngỗ nghĩnh chứ? Dạy trẻ viết chữ nôm, mà còn làm thơ nữa.
Má nàng dần dần nóng bừng. Nàng cất tiếng ngâm nga. Giữa lúc ấy, Trương công ở ngoài vường cảnh đi tới, đưa cho nàng quyển phóng của Ngọc Dung, cháu gái nàng:
- Con tính ông đồ Phạm Lý thế này có dở hơi không? Dễ ông đồ dạy chúng nó làm thơ nôm?
Quỳnh Như mặt tái đi, nhưng ngàng trấn tĩnh ngay được và ôn tồn đáp lại cha:
- Dám bẩm phụ thân, có lẽ chữ nôm cũng cần lắm, Thân phụ không coi mấy khoá trước, triều đình đều dùng chữ nôm để ra thi cống sĩ, bác sĩ. Muống cháu Quế mai sau trở nên ông Nghè thì phải dạy nó học chữ nôm ngay từ bây giờ.
Kiến Xuyên hầu cười:
- Đành rằng thế, nhưng dạy một thằng bé bảy tuổi tô những câu thơ nôm mà nó không đọc được, thì cũng hơi quá.
Hầu vừa nói, vừa dương mục kính, rồi cầm quyển phóng đọc:
Trong tình thú hồng nhan dễ mấy! Chốn phòng trong trộm thấy phong quan.
Xui lòng du tử thêm càng, Biết bao giờ vẹn lửa hương ước nguyền ?
Hầu nói tiếp:
- Đấy, con coi, ông đồ họ Phạm, nguyên thiền sư, một là cuồng chữ, hai là....
Quỳnh Như lo lắng đứng đợi thân phụ nói dút câu, nhưng Trương công lảng ngay ra truyện khác và hỏi:
- Con thêu xong cho cha bức riềm màn chưa?
- Bẩm gần xong rồi ạ.
- Con thêu mau cho chóng xong đi, nhé?
Dút lời, Trương công thong thả lên nhà trên, vờ để quên quyển vở của Ngọc Dung lại bên con gái yêu. Quỳnh Như mở vội ra xem thì ra hai đoạn, hai bài viết tập, ăn khớp nhau mà chắp thành một bài thơ, một bức thơ tình.
Trương công vừa khoan thai bước vừa ngẩm nghĩ đến việc biến sắp xảy ra trong nhà mình.
ông buồn rầu tự nhủ:
"nhà ta là một nhà thế phiệt đời đời khoa giáp xuất thân, không thể nào lại chịu để cho kẻ kia làm nhơ nhuốc được ?... Thà giết chết con gái đi còn hơn?" Dần dần ông cũng nguôi cơn giận:
"Ư, chẳng lẽ nó theo học đạo thánh hiền, mà lại bậy bạ được ?... Ư, cho dẫu thằng kia có định tâm gởi thư trêu ghẹo con ta nữa, những con ta đã thuận đâu?... Phải để ta tra xét đã... Những hạng công tử sính thơ, gặp nguồn cảm hứng thì họ viết ra những câu tình tứ đó thôi, vị tất đã để tặng ai.... Ta chẳng thấy có thầy khóa viết thơ gởi lên trời ve vãn con Ngọc hoàng đấy Kiến Xuyên hầu bật cười lên tiếng?
- "ồ ? Tuổi trẻ ?... Ngày xưa, chính ta đây thấy gái đẹp, ta chẳng ngâm vịnh là gì? Chẳng những ngâm vịnh, ta lại còn trêu ghẹo nữa kìa...." Hầu vui vẻ nghĩ tiếp:
- "Vả lại Phạm Thái cũng là một danh sĩ đời nay. Trí thức ấy, học vấn ấy, thực xứng đáng với tài mạo con ta... Được, để ta xem... " Hầu bước vào trong nhà thì vừa gặp Trương phu nhân tiễn chân một bà khách ra công.
Một lát sau, chờ phu nhân trở lại. Trương công cười hỏi:
- Có điều gì vui mừng mà bà hí hửng thế?
Phu nhân cười hỏi lại:
- Đố ông biết việc gì?
- Việc của bà thì tôi còn biết sao được?
Trương phu nhân ghé vào tai chồng thì thầm:
- Ông Phủ Trịnh nhờ mối đến hỏi con Quỳnh Như Cho CậU Trinh Nhị.
Trương Công thở dài không nói gì.
- Sao? ông không ưng chăng? ông phải biết ông phủ Trịnh giàu nhất phủ Kiến Xương...
Trương công cười gằn, ngắt lời:
- Thì nhà ta đã nghèo đói đâu mà cần bám vào nhà giàu, mà phải thông gia với nhà giàu?
- Vẫn biết thế, vẫn biết mình chẳng cần nương nhờ ai, nhưng con Quỳnh Như sau này thế nào cũng yên thân đỡ phải vất vả làm lụng.
Trương công gắt:
- Làm gì bà vội vồ lấy người ta thế? Thì hãy để xem thằng Trịnh Nhị học hành ra sao đã nào.
- Điều đó thì ông chả phải lo. Khoa mới rồi giá đừng xảy ra việc mưu phá trường thi thì nay nó đã ông cống rồi...
- Sao bà biết? Ý chừng bà mối bảo thế.
- Sao tôi chả biết? Dễ ông tưởng gả con lại không kén chắc. Tôi cho ngưòi dò la, chẳng những biết sức học của Trịnh Nhị, mà lại còn biết tính nết cậu ấy nữa kia.
Trương công cắt đoạn câu truyện:
- Được, rồi biết.
sáng hôm sau Trương công truyền làm một bữa tiệc thực long trọng rồi cho mời Trịnh Nhị đến dự.
Nhận được thiệp mời Trịnh Nhị hí hửng, vào khoe mẹ (Trịnh phu nhân vừa ở phủ về được mấy hôm để lo việc hỏi vợ cho con).
- Bẩm thân mẫu, việc xong rồi, Trương tướng công gửi thiệp mời con đến dự tiệc Trịnh phu nhân vui mừng:
- Thế à? Nhưng con chắc đâu là xong?
- Sao lại không chắc. Con sang đấy sẽ giở hết tài ra, thì thế nào Trương tướng công cũng phải phục mà bằng lòng gả Quỳnh Như cho con.
- Nhưng con cũng nên cẩn thận, mẹ nghe nói Kiến Xuyên hầu học rộng tài cao, mà Quỳnh Như vào thơ lỗi lạc. Không khéo bị cha con họ lấn át thì nhục đấy.
Trịnh Nhị mỉm cười:
- Thân mẫu quá lo xa làm gì thế? Cứ một cái gia tài nhà ta cũng đủ xứng đáng với cái tài mạc của Quỳnh Như rồi. Vả lại tài nàng là tài của một người con gái địch sao nổi tài cao, trí rộng của bậc nam nhi như con.
Chàng chắp tay chào mẹ rồi sửa soạn trang sức cực kỳ lịch sự:
Tấm khăn nhiễu tam giang mới quấn rất khéo làm lộ hẳn cái trán cao, chiếc áo gấm lam thêu kim tuyến thướt tha chấm gót, cái quần lụa ngả mày hồng phớt trùm gần kín đôi hài thêu. Trước khi ra đi, Trịnh Nhị không quên đánh qua một lượt phấn gạo rồi đem các bài thơ cổ đã học thuộc lòng ra đọc một lượt.
Xong rồi, chàng thong dong nhẹ bước tới biệt thự Kiến Xuyên hầu.
Đến cổng, chàng gặp một người y phục nhã nhặn vái chào và lễ phép nói:
- Tướng công tôi mời công tử vào chơi.
Trịnh Nhị trừng mắt nhìn rồi vái chào lại và hỏi:
- Thưa.... Thưa ngài, dám xin ngài cho lãn sinh này được biết quý tính cao danh để lãm sinh được hầu truyện.
Phạm Thái vẫn lễ phép đáp:
- Thưa công tử chúng tôi họ Phạm tên Văn Lý, được Trương tướng công tìm đến dạy các cậu các cô con quan cố hiệp trấn Lạng sơn.
Trịnh Nhị có vẻ kiêu hãnh:
- à? Thầy đồ. Vậy mời thầy đi, lãn sinh xin theo.
Phạm Thái cố nén lòng căm tức, ôn tồn nói:
- Thưa lãn tiên sinh, chúng tôi lấy làm....
Trịnh Nhị chau mày, ngắt lời:
- Thầy đồ mà không biết hai chữ lãn sinh ư? Tôi nhún mình mà tự xưng là lãn sinh, chứ có phải tên hiệu tôi là Lãn sinh đâu.
Phạm Thái vờ giật mình, xin lỗi:
- Chết chửa, chúng tôi vô tình xúc phạm tới công tử, xin công tử đại xá cho.
Vốn chúng tôi có biết tiếng cụ Lãn ông Nguyễn Hữu Huân, nên tưởng công tử cũng lấy mỹ tự Lãn sinh. Vậy xin công tử cho chúng tôi rõ quý hiệu, để chúng tôi được hầu chuyện.
Trịnh Nhị tỏ vẻ khinh bỉ, vờ không nghe rỏ, rảo bước đi vào trong nhà, đến trước mặt Trương công và Trương phu nhân, lễ phép chắp tay vái:
- Vãn sinh Trịnh Nhị xin cúi đầu lạy trình.
Trương phu nhân vội đứng dậy niềm nở mời chào:
- Mời công tử ngồi chơi.
Rồi phu nhân lảng vào buồng bên để mình Trương công tiếp hai chàng thiếu men.
Quỳnh Như thấy mẹ vào, liền hỏi:
- Bẩm mẫu thân ai vừa đến chơi, con coi như người gặp ở chùa Non Nước ngày nào.
Trương phu nhân cười mắng yêu con:
- Mày nấp nhìn trộm người ta đấy à? Ngày nay chúng mày đáo để quá. Thời thầy mày làm rể, tao nghe nói đến tên ấy đã đi trốn biệt.
Quỳnh Như tái mặt suýt ngất đi:
"Thì ra cái người đọc thơ cũ nhận là thơ của mình, cái cậu ấm dốc ấy, chính là vị hôn phu của ta đó?" - Con sao thế?
- Bẩm thân mẫu, con hơi váng đầu. Nhưng không sao?
- Vậy con đi nằm nghỉ.
- Bẩm được, thân mẫu để mặc con.
Rồi nàng tìm vào ngồi trong xó tối bưng mặt khóc thút thít. Nàng vụt nghĩ đến mấy câu thơ trong bài "Cầm tháo" của Phạm Thái:
Im ỉm sầu trưởng chín khúc, Mượn tiêu cầm đỡ lúc tương tư, Cầm sao thấy điệu ngẩn ngơ, sầu ai luống khách thơ thâm cùng.
Nàng lau nước mắt rồi lẩm bẩm nói một mình.
"Hay chàng biết rằng ta sắp về tay người khác.... Không, không thể nào thế được, thà ta tự tử cho hết kiếp, chứ bắt ta lấy con người dốt nát, đần độn ấy thì ta nhất định không nghe".
Nàng lại nghĩ "Can chi phải khóc lóc, buồn bã. Rõ ta cũng trẻ con? Với lại đã có gì gọi là chắc chắn ? " Rồi nàng gượng đi trang điểm, vì nàng sợ nhỡ thân phu vào trông thấy dung nhan tiều tuy mà hiểu thấu lòng nàng chăng. Đoạn nàng đứng bến cửa buồng nấp sau bức rèm, ghé mắt nhòm ra nhà ngoài.
Lúc bấy giờ vừa bắt đầu vào tiệc. Trương công nâng chén nói:
- Ngày xuân không gì thú bằng uống rượn ngâm thơ. Lão gia nghĩ thế nên có buổi chén xoàng này mời hai thiếu niên thi sĩ đến chơi cùng nhau xướng họa cho lão được quên trong chốc lát cái tuổi già nua yếu đuối.
Trịnh Nhị nghĩ thầm:
"Rõ Trương tướng công khéo bày vẽ giở giọng văn hoa.
Thì cứ nói phăng là thử tài chú rể này có xong không. Tài tướng công thì là một mớ tài cổ, ta không lo lắm. Vã dầu ta có kém thì con rể kém bố vợ, lý ấy là thường. Đến như cái anh đồ đạc kia, chẳng qua là một anh hủ nho, có hai chữ lãn sinh còn không thủng nghĩa, nói gì làm thơ phú?" Không thấ ai trả lời, Trương công nói tiếp:
- Thế nào ? Hai công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị mỉm cười vì chàng không hiểu sao Trương công lại gọi thầy đồ kia là công tử. Nhưng Phạm Thái đã đứng dậy chắp tay lễ phép nói:
- Bẩm tướng công, vãn sinh học vấn được mấy nả, mà dám múa dìu qua mắt thợ, đánh trống qua cửa nhà sấm....
Trịnh Nhị tiếp:
- Sao mà ông đồ giỏi phương ngôn, tục ngữ thế?
Phạm Thái vờ không nghe rõ câu chế riễu, nói luông:
- Nhưng tướng công đã dạy đến, văn sinh đâu dám từ nan.
Tướng công cười:
- Phạm công tử nhún mình lắm? Văn tài của công tử, lão gia còn lạ gì?
Trịnh Nhị giật mình:
"Chết chưa, thằng này dễ thường đã xướng hoa. với Trương công nhiều lần rồi chăng?" - Trịnh công tử nghĩ sao?
Trịnh Nhị cũng đứng dậy trả lời:
- Dạ, xi tướng công cứ đề ra cho.
Trương công nâng rượn mời, rồi nói:
- Còn phải tìm đầu đề ở đâu nữa? Ta đương vui chén với nhau, chi bằng lấ ngay đề "Ngày xuân uống rượn," mà vịnh một bài Đường luật thất ngôn bát cú.
Phạm Thái còn đương tìm vần thì Trịnh Nhị đã mỉm cười, nói:
- Dám bẩm tướng công, làm bằng hán tự có được không?
- Cũng được.
- Vậy, vãn sinh xin đọc:
Cẩm giang xuân sắc hội thi ngâm, Ngọc lũy phù vân biến cổ câm...
Phạm Thái thản nhiên đọc luôn:
Bắc cực triều đình chung bất cải, Tây sơn khấu đạo mai tương xâm.
Rồi nói tiếp:
- Bẩm tướng công, không ngờ, Đỗ, Trịnh lưỡng thi gia, lời văn lại giống nhau đến thế? Mà lại hợp lắm? Nhất là hai câu dưới.
Trịnh Nhị cãi:
- Bẫm tướng công, anh đồ này dám hỗn xược trước mặt tướng công. Bắc chước cổ nhân là một sự thường chứ? Không đọc Lý Bạch, Đỗ Phủ, một thi sĩ đời nay chỉ viết nên những câu vô vị.
- Vâng, công tử dạy rất phải. Đã là văn nhân thì ai không đọc, không thuộc Đường thi. Chẳng nói ai, chứ như bỉ nho đây, giá không thuộc Đường thi, nối điệu sao được với công tử.
Trương công sợ hai người sinh ra to chuyện, liền nói chữa cho Trịnh Nhị:
- Lão gia coi ra hai công tử cùng đọc rộng, nhớ nhiều. Bài thơ ấy thực lão gia chưa xem qua, thế mà hai công tử đều biết, đủ rõ học vấn hai công tử suýt soát nhau. Thôi tranh biện làm gì vô ích, xin hai công tử cạn chén rồi mỗi người làm một bài thơ nôm chơi.
Trịnh Nhị nhìn Phạm Thái cười nhạt:
- Vậy mời tiên sinh vịnh trước cho, lãn sinh xin hoa. theo.
Phạm Thái ngả đầu, ung dung đáp:
- Xin lĩnh ý.
Rồi quay lại Trương công, chàng chắp tay vái:
- Bẩm tướng công cho phép.
Trương công vui vẽ:
- Xin công tử cho nghe những lời châu ngọc.
Phạm Thái liền đọc:
Ngày Xuân Uống Rươu.
Hơi xuân hây hẩy động rèm dương, Thổi hợn lăn tăn nước rươu vàng.
Rạng rỡ tiên hoa khoe tử sắc, Nồng nàn thánh tửu tỏa mê hương.
Đầu xanh trước gió lao đao chuyể hn, Tóc bạc sau mây lỏa tỏa vương, Có rươu có thơ xuân có mãi, Một năm ba vạn sáu thiều quang.
Kiến Xuyên hầu vỗ đùi khen:
- Hay? Hay lắm? Có rượn có thơ xuân có mãi. Một năm ba vạn sáu thiều quang? Hay? Đúng lắm. Công tử làm lão gia trẻ hẳn lại.
Hầu cất tiếng cười vang, cặp mắt nheo, mặt hây hây đỏ. Rồi hầu thưởng Phạm Thái một chén rượn đầy, Phạm Thái tạ ơn, uống một hơi cạn.
Trịnh Nhị tức uất người, nhưng cũng gượng mời Phạm Thái một chén rượn nữa, Phạm Thái mỉm cười nói kháy:
- Thưa công tử, tài làm thơ ngu để chẳng bằng ai, nhưng tài uống rượn thì ít người bì kịp. Công tử ban thưởng, một chén, chứ đến mười chén, ngu đệ cũng không từ chối ?
Chừng để kéo dài thời giờ ra, Trịnh Nhị vịn ngay lấy câu ấy, đứng dậy nói:
- Dám bẩm tướng công, Phậm công tử đã dạy thế, vãn sinh xin phép tướng công mừng Phạm công tử đủ mười chén rượn nữa.
Trương công sợ Phạm Thái quá say, liền nói gạt:
- Rượn uống dần ít một mới ngon. Vả hai công tử phải tỉnh mà làm thơ, chứ say li bì thì còn sao trông rõ cảnh mà ngâm với vịnh?
Phạm Thái đáp :
- Xin tướng công cứ cho phép vãn sinh nhận mười chén rượn mời của Trịnh công tử.
Rồi chàng quay ra bảo Trịnh Nhị:
- Bỉ nho xin uống thật thong thả, để công tử có đủ thời giờ gọt dũa bài thơ họa cho được toàn bích.
Trương công nói:
- Phạm công tử cũng nên đọc lại bài tho một lượt để Trịnh công tử nhớ kỹ lấy vạn Phạm Thái vâng lời cao giọng ngâm, vì chàng biết thế nào Quỳnh Như cũng nấp đâu đó để nghe. Ngâm xong, chàng ngồi yên, nhấp chén đẻ Trịnh Nhị được bình tĩnh mà nghĩ thơ.
Nhưng khi chén thứ mười đã cạn. Trịnh Nhị vẫn loay hoay chưa tìm được vần.
Chàng đánh trống lãng nói với Kiến Xuyên hầu:
- Bẩm tướng công, cổ nhân dạy:
"Xuất đối dị đối đối nan", quả không sai. Đối một câu đốim mà cổ nhân còn cho là khó hơn ra một câu đối, huống nữa lại hoa. một bài thơ. Kể họa bậy, họa bạ, thế nào xong thôi thì cũng dễ, nhưng họa được một bài nghiêm chỉnh cả từ lẫn ý, mà lại mốn có phần xuất sắc hơn bài xướng đề thì thực là khó khăn quá.
Trương công muốn giữ thể diện cho chàng mốt chút, gật gù nói:
- Phải lắm, công tử nói phải lắm Vậy công tử bất tất phải họa, cứ làm ngay một bài thơ khác, hoặc ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt, hoặc cổ phong hay Đường luật bát cú cũng được.
Giữa lúc ấy một đứa thị tỳ ra, dâng lên Trương công một tờ hoa tiên mà nói răng:
- Dám bẩm tướng công, có người mạn phép tướng công họa giúp Trịnh công tử một bài.
Trương công chau mày lẩm nhẩm đọc, rồi cười bảo hai người:
- Lời thơ còn non nớt quá?
Phạm Thái xin được ngâm. Kiến Xuyên hầu liền đưa cho chàng bài thơ hoa. mà hầu thừa biết là tác phẩm của con gái yêu. Phạm Thái đọc thực to cốt để trêu tức Trịnh Nhị.
Ngày Xuân Uống Rượn (Hoa. nguyên Vận) Rực rỡ trời xuân ánh thái dương, Xuyên qua chén rươu nhuốm màu vàng.
Hoa xuân hn đáo thầm phong nhụy, Men rươu nồng nàn ngát tỏa hương.
Má phấơn say xuân hây ửng đỏ, Thơ tình thiế uu rươu rối vản vương, Tìm vần trong rươu vần không thấy, Chỉ thấy xuân đầy vẻ diệm quang.
- Trời ơi ? Hay? Hay quá, hay lấn át hẳn bài xướng? Hay không tìm được lài mà khen ngợi nữa.
Trương công chữa thẹn cho Trịnh Nhị:
- Công tử khéo chế riễu quá. Thực Trịnh công tử nói không sai, họa vẫn khó hơn xướng. Đấy, hai công tử coi, trong bài họa vần nào cũng dùng ép cả:
"Vấn vương" nghe sao được? Còn hai chữ "diệm quang" thực chẳng thoát tý nào.
Phạm Thái đã chếnh choáng hơi men, đứng dậy cải:
- Bẩm tướng công chê bài họa thì vãn sinh không phục. bài ấy hay, hay lắm.
Câu phá mạnh mẽ biết bao, câu thừa tự nhiên lạ lùng. Hai câu thục tuy không đặc sắc, nhưng cũng chẳng dở. Hai câu luận thì âu yếm quá. Tuy hơi.... chua chát chút đỉnh Còn hai câu kết, trời ơi? Hai câu kết đến Lý Bạch cũng vị tất đã có hai câu kết ấy. Mà xin tướng công nhận cho điều này:
Trong mỗi vế, chữ "rượn" đều đối với chữ "xuân", thực hơp với đầu đề "Ngày xuân uống rượn".
Trịnh Nhị tái mặt đi, xừng xộ mắng Phạm Thái:
- Thầy đồ vô lễ quá? Làm gì mà tướng công không nhận ra được, lại phải nhờ đến thứ thầy. Còn như thầy khen bài thơ họa hay, thì điều ấy chẳng lạ. Nó cũng na ná như bài thơ của thầy nghĩa là rất tầm thường.
Phạm Thái cười khinh bỉ không thèm đáp rồi thì thầm ngâm lại bài thơ. Đoạn chàng rót đầy một chén rượn mà mời rằng:
- Vản sinh, xin phép tướng công, tự thưởng một chén rượn, vì đã có diểm phúc được nghe một bài thơ hay.
Ngôn ngữ cử chỉ của Phạm Thái làm cho Kiến Xuyên hầu càng thấy rõ tình yêu của chàng đối với Quỳnh Như và càng mong ước cho hai người nên vợ, nên chồng. Hầu lại ngảnh nhìn Trịnh Nhị nghĩ thầm:
"Tài nữ mà sánh đôi với thằng ngu dợn thì thực ngọc quý để ngâu vầy?'.
Nhưng Trịnh Nhị đã đứng dậy nói:
- Văn sinh xin đọc, có đọan nào kém, nhờ tướng công phủ chính cho.
Rồi chàng cất tiến ngâm ồm ồm:
Ngày Xuân Uống Rươu
Ngày xuân uống rươu ngâm thơ tiên,
Xuân thắm rươu nồng tỏa hơi men,
Liễuyếu trước thềm tha thước lã,
Đào thơ bên cửa thắm màu sen,
Đưa thoi chim én bay vùn vụt,
Xòe cánh bướm vàng lượn chập chờn,
Nhấp chén toan đề bài vịnh cảnh,
Nhưng còn mãi ngắm buổi xuân thiên.
Chàng vừa đọc dút bài, bỗng có tiếng cười thé ở buồng bên vọng lại. Trương công cố thản nhiên, gật gù khen lớn để Trịnh Nhị không nghe thấy tiếng cười chế nhạo:
- Hay? Hay? Tuy vần không được chính lắm? Nhung khuyết điểm nhỏ nhặt ấy kể chi?
Phạm Thái cũng khen mát:
- Bẩm vâng, hay thực mà không thất niêm một câu nào.
Trịnh Nhị tưởng hai người khen thành thực đã vội tự phụ:
- Dám bẩm tướng công, văn sinh quả không hay làm thơ nôm. Có thì giờ rãnh, văn sinh chỉ tập làm thơ chữ Hán. Rồi vãn sinh xin đem trình Tướng công tập thơ của văn sinh, để tướng công nhàn lãm.
- Phải đấy? Bây giờ thì mời hai công tử uống rượn đã, mà xin uống thực say cho.