watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:46:0026/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Khái Hưng > Tiêu Sơn Tráng Sĩ - Trang 11
Chỉ mục bài viết
Tiêu Sơn Tráng Sĩ
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Tất cả các trang
Trang 11 trong tổng số 21
Hồi 20
Vua Chiêu Thống

Năm hôm sau, bốn người đến Lạng sơn và theo Phạm Thái đi thẳng đến Kỳ Lừa thăm sư cự chùa Tam Thanh. Sư cụ đạo hiệu Phổ Mịch thiền sư là bạn đồng chí của Phạm Thái và là một đảng viên trong đảng Tiêu sơn.
Hàn huyên dăm câu rồi hai người hỏi nhau đến việc đảng. Vô tình không biết có hoàng phi đứng trước mặt Phổ Mịch buột miệng nói:
- Về vùng trấn Bắc như thế cũng có thể hy vọng lắm. Còn ở đây, từ khi cái tin Hoàng đế thăng hà đưa về nươc các bật sĩ phu xem chừng đều có ý chán nản....
Thiền sư bỗng ngừng bặt vì thấy Phổ Chiêu ra hiệu bảo im ngay. Nhưng đã quá chậm rồi. Hoàng phi nấc lên một tiếng rồi ngã vật xuống đất. Nhị Nương vội nâng dậy đật lên giường và gọi mãi mới tỉnh. Thấy bà khóc thảm thiết và luôn miệng kêu "Bệ hạ", Phạm Thái lại gần khẽ nói:
- Tâu lệnh bà nên bình tĩnh.
- Ta cần gì. Ta cố sống đến ngày nay là chỉ vì hy vọng mai sau được gặp mặt Hoàng thượng. Nhưng nay Hoàng thượng thăng hà rồi, thì ta chỉ còn một thác mà thôi - Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy thế sao được ? Vì nào chỉ có một mình Thánh thượng? Còn thái hậu, vâng còn Quốc mẫu, sau này ai người phụng dưỡng ngài?
Và xin lệnh bà tha tội cho, Hoàng thượng mất tuy là một sự đau đớn. Vì Hoàng thượng mất còn tìm được người trong hoàng tộc kế vị, chứ giang sơn mất vào tay người khác, mới là mất hẳn. Vậy xin lệnh bà tĩnh tâm cho, đừng làm náo động lòng thần dân. Nhất lại ở chốn biên thành này, binh lính cùng thám tử của ngụy triều đông như kiến cỏ, nay lệnh bà khóc lóc ầm ỹ, nhỡ đến tai bọn họ, thì không những một mình lệnh bà bị khổ nhục, mà đảng trung thần phục quốc cũng đều vì lệnh bà mà phải ly tán mất. Xin lệnh bà nghĩ kỹ mà lượng xét cho.
Hoàng phi lau nước mắt ôn tồn đáp lại:
- Đạ tạ thiền sư, không có lời dạy bảo của thiền sư thì suýt nữa tôi đã làm lỡ cả việc lớn Bà liền cố gượng khuây nói chuyện với Phổ Mịch, cốt để hỏi về mọi sự đã xảy ra ở bên Tàu. Phổ Mịch sợ hải khép nép:
- Tâu lệnh bà, vì lệnh bà cải trang, bần tăng không biết, đã xúc phạm tới lệnh bà.
- Điều ấy không hề gì. Vả từ nay tôi thực đã trở nên một người tu hành, một nhà chân tu. Vậy xin sư cụ cứ gọi tôi là Phổ Bác cho tiện.
Dùng thiền trà xong, hoàng phi cố nài Phổ Mịch thuật lại cho biết tình cảnh bọn bầy tôi tòng vong ở nước người sau khi Hoàng thượng thăng hà. Phổ Mịch nói:
- Điều ấy, bần tăng không được tường. Nghe đâu vua Càn Long đày mỗi người ở một nơi . . .
Hoàng phi thương hại phàn nàn:
- Trời ơi? sao lại còn bị đày nữa? Tội tình gì mà bị đày như thế?
- Họ bị đày ngay khi còn sinh thời Tiên đế, vì vua Càn Long không muốn bọn họ được gần đấng Tiên đế, sợ họ thúc giục Tiên đế xin quân đem về nước lo sự phục hưng.

Hoàng phi thốt ra một câu mắng nhiếc:
- Quân khốn nạn? . . . Vậy thế thì ta không còn mong gì nhà Thanh giúp binh nữa đấy.
Phạm Thái đáp:
- Tâu lệnh bà, ta cũng chăng nên mong cậy gì ở họ. Trước kia họ cho Tôn sĩ Nghị mang quân sang ta, tuy miệng nói là cứu giúp, nhưng kỳ thực chỉ cốt chiếm cứ nước Nam mà thôi. Nhà Minh xưa giúp nhà Trần, cái gương xâm lược ấy ta đã quên rồi sao? . . . Chỉ nên trông vào sức mình là hơn cả . . .
Phổ Mịch nói tiếp:
- Tâu lệnh bà, Phổ Chiêu thiền sư nói rất phải. Họ chẳng nhân nghĩa gì đâu. Cứ xem cách tàn nhẫn họ xử với một ông vua mất nước với đám bầy tôi tòng vong cũng đủ rõ tâm địa họ không ra gì. Ai đời thủa một ông vua láng giềng gặp bước loạn ly lánh sang nhờ vả mình, mà coi người ta không bằng một viên thượng thư?
Bần tăng nghe Trần Thiện mo hắn phong cho Tiên đế chức tả lĩnh, ban cho áo mũ quan tam phẩm. Cái tin ấy làm bần tăng thâm ruột tím gan. Vua mình nó còn khinh thường như thế không trách các quan đi hộ giá, nó đày mỗi người một nơi . . .
Việc này chỉ tại thằng Kim Giản xui nên cả. Tâu lệnh bà, chẳng ai ngu như bọn Lê Quỳnh, Phạm Như Hùng, Hoàng Tịch Hiếu không biết cư xử cho phải đường.
Thấy nó lãnh đạm với mình thì mình phải hiểu chứ, ai lại để Thánh thượng đi lại cầu cạnh mãi rồi ra quỳ bên đường dâng biểu lên vua Thanh xin binh, nhất lại nhờ tên đô thống Kim Giản đưa vào hầu. Thầy trò chúng nó đã bàn định cùng nhau rồi.
Chúng nó sợ bọn Tây sơn như sợ cọp, còn dám ho he gì nữa mà mong ngóng chúng nó cứu giúp ? Vua Thanh có cho thằng Kim Giản ra dỗ ngon dỗ ngọt, đánh lừa tam tứ phen, nào là chỉ cho đất Thâm Châu, nào là sắp phong làm quốc vương ở đất Tuyên Quang. Chỉ thương hại Nguyễn Văn Quyên vì lòng trung quân mà bị bọn chó má nó ném chết ở trong vườn Viên Minh.
Hoàng phi rơm rớm nước mắt hỏi lại:
- Chắc cao tăng biết nhiều về mọi việc ở bên nước láng giềng. Vậy dám xin cao tăng làm ơn thuật lại cho nghe.
- Tâu lệnh bà, bần tăng quả mắt không trông thấy, nhưng tai được nghe Trần Thiện kể lại. Câu truyện đau lòng lắm, thiết tưởng lệnh bà chẳng nên biết làm gì thêm khó chịu. Chẳng qua nhà Lê ta đến vận suy, nên tình cảnh vua tôi sinh ra như thế Hoàng phi cố giữ nét mặt thản nhiên:
- Xin cao tăng cứ cho biết.

Nhị nương cũng nói:
- Việc đã xảy ra thì có can hệ gì. Đối với người đeo đuổi việc lớn, chỉ có việc hiện tại với tương lai là đáng kể. Vậy xin cao tăng cứ thuật lại hầu lệnh bà nghe rõ đầu đuôi Phổ Mịch ngồi ngẫm nghĩ một lát, như để sưu tầm mọi điều trong trí nhớ, rồi kể rằng :
- Hồi cuối năm ngoái, một hôm bần tăng đi tới cửa động Tam Thanh, bỗng gặp một người hành khất, quần áo rách rưới, dườing như đứng chờ ai. Người ấy vái chào bần tăng, thì thầm xưng tên là Trần Thiện. Bần tăng giất mình, vì hôm tiễn thánh giá vượt biên giới sang Tàu, chính mắt bần tăng trông thấy trong bầy tôi có ông Trần Thiện. Ngày nay ông ta về nước, chắc có sự biến cố chi đây. Bần tăng liền thắp đuốc mời Trần quân vào chơi trong động nói chuyện. Thì ra Trần quân trá hình kẻ hành khất trèo non, vượt suối về nước chỉ để báo tin cho thần dân biết rằng Hoàng thượng đã thăng hà, và đã lập Duy Khang kế nghiệp.
Hoàng Phi ngơ ngác hỏi:
- Duy Khang là ai vậy?
- Tâu lệnh bà, là Lê duy Vượng, con nuôi của đấng Tiên đế.
Hoàng phi có vẻ lo sợ:
- Thế hoàng tử?
- Hoàng tử....
Phổ Mịch ngần ngại đưa mắt nhìn Phạm Thái, Nhị Nương trù trừ đáp:
- Tâu lệnh bà, Hoàng tử lên đậu đã qua đời.
Nhị Nương kinh hãi nhìn hoàng phi, chắc thế ngào nghe tin thái tử mất, bà cũng chết ngất đi. Nhưng không, bà vẫn giữ thản nhiên.
Có lẽ sự thống khổ đã đến cực điểm làm cho bà nghẹn ngào không khóc được lên tiếng. Hay lòng căm tức vua tôi nước Tàu lấn át cả sự thống khổ ? Cặp mắt mơ mộng xa xăm, bà ngây người, nhắc đi nhắc lại:
- Lên đậu? .... Hoàng tử lên đậu? Lên đậu? Mất rồi?
- Tâu lệnh bà, có lẽ phần bực tức bị người Tàu khinh mạn, phần buồn phiền vì hoàng tử qua đời. Nên Hoàng thượng mắc bệnh nặng ngay, rồi qua năm sau, năm Quí sửu, Ngài thăng hà.

Cặp mắt Hoàng phi vẫn mơ mộng xa xăm:
- Ngài thăng hà? Ngài thăng hà?
- Vâng, Ngài thăng hà đã được hơn bốn năm nay.
Hoàng phi rùng mình như có cơn gió lạnh thổi qua tâm hồn. Nhưng bà cố định thần mà hỏi rằng:
- Trần Quân có thuật cho cao tăng nghe cái giờ lâm chung của bệ hạ không?
- Tâu lệnh bà, Trần quân thuật rất tường tận.
"Hôm ấy, Thánh thượng biết rằng sắp qua đời, liền gọi bảo Như Tùng. Lê duy Vượng đi nấu nước thơm để Ngài tắm. Khi đã lau mình mẩy sạch sẽ, Ngài truyền lấy triều phục mặc vào cho Ngài rồi ngài nằm thẳng trên giường, quay mặt về phía Nam, miệng lẩm bẩm khấn khứa rất lâu. Hai người tôi - Trần Thiện với Như Tùng - quỳ ở một bên giường, trong lòng lo sợ, đau đớn....
Nhị nương hỏi:
- Bạch cụ, còn ai nữa không, hay chỉ có hai người ấy?
- Chỉ có hai người ấy, Những người khác đã bị đày cả đi các nơi. Hoàng ích Hiểu bị đày ra Y lệ, Lê Hân ra Phụng Thiên, Quốc Đống ra Cát Lâm, Việt Triệu, Văn Chương ra Nhiệt Hà.

Hoàng phi thở dài nguyền rủa:
- Cha đời quân Mãn Thanh? Thế rồi sao nữa, bạch cụ?
- Tâu lệnh bà. Thánh thượng vẫn tỉnh lắm. Ngài bảo Trần Thiện lấy giấy bút thảo tờ di chiếu, lập Duy Khang, tức Như Tùng Lê duy Vượng lên kế nghiệp, giữ hương hoa? hoàng phả, phụng thờ đức hoàng thái hậu.
Đọc xong, Thánh thượng cười chua chát nói tiếp:
"Hương hoa? của trẫm chắc cũng chẳng còn mấy?" Trong phòng yên lặng, lạnh lẽo. Hai người tôi vẫn quỳ bên giường. Bỗng Thánh thượng nắm lấy tay Trần Thiện mà rằng:
- "Các người theo trẫm trên con đường khốn quẫn, cùng trẫm nằm gai, nếm mật mong có ngày lấy lại giang san.... Ngờ đâu trẫm gặp phải vẫn nước, vận nhà chẳng ra gì, đến nỗi không giữ nổi được xã tắc, phiêu bạt quê người.... Nay trẫm chết là linh hồn trẫm được yên.... Trẫm thương các ngươi không biết còn đeo cái khổ, cái nhục đến đời thủa nào.
Trần Thiện khóc mà tâu rằng:
- "Muôn tâu Thánh thượng, vua tôi có ngờ đâu gặp phải bọn quyền gian đánh lừa như thế này để đến nỗi Thánh thượng âu sầu căm tức là long thể mang đau, Hạ thần xin thề rằng, nếu Bệ hạ có mệnh hệ nào, thì kẻ hạ thần xin tận tâm báo được thù này. . .
Hoàng thượng cười và an ủi:
- "Thôi, không nên trách người ta làm gì, chỉ nên trách mình mà thôi. Vả ngày nay, vận mệnh nhà Lê ta đã hết, các ngươi dẫu có chống chọi đi nữa có lẽ cũng không ăn thua gì. Ta chỉ ước mong có một điều sau này các người được về nước.
Bấy giờ các ngươi mang hài cốt ta về, phụ táng vào sơn lăng liệt thánh, để tỏ bụng ta; các ngươi nên nhớ kỹ điều ấy, cùng là truyền báo cho các quan ở xa được biết.
Trần Thiện, Như Tùng khóc nức nở vâng mệnh.
Thánh thượng nằm nghỉ một lát, rồi lại nói:
- "Khi trẫm bị quân Tây sơn đuổi, kịp bỏ chạy sang đây, đến cửa Nam quan thì thấy lạc mất hoàng phi. Trong mấy năm nay trẫm hằng lo lắng chẳng biết hoàng phi trốn tránh nơi đâu hay đã bị quân giặc hại mất rồi. Nếu sau này về nước, các ngươi còn có gặp Hoàng phi, thì xin vì trẫm trông coi cho tử tế. Trẫm nhờ Trần Thiện trao cho hoàng phi cái nhẫn này, Hoàng phi đeo ở tay chắc lại nhớ đến trẫm, mà biết rằng ở nơi đất khách quê người trẫm không bao giờ quên kẻ chung tình." Phổ Mịch ngừng kể, xin phép đứng dậy mở hòm lấy ra cái nhẫn vàng trổ lưỡng long chầu nguyệt đưa nộp Hoàng phi.
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn này, Trần Thiện sợ thất lạc đã gửi bần tăng giữ giúp, nay bần tăng xin dâng lên lệnh bà.

Hoàng phi ứa nước mắt đỡ lấy vẫt kỷ niệm của người xưa, đeo vào ngón tay mà lẩm bẩm:
- Bệ hạ? Bệ hạ?
Nhị nương ghé vào tai Hoàng phi nói thầm:
- Tâu lệnh bà, cái nhẫn ấy, xin lệnh bà gói lại cất đi, đeo vào tay như thế, sợ có nguy hiểm.
Hoàng phi khóc nức nở:
- Từ nay ta còn sợ gì nguy hiểm tới thân ta nữa. Ta sống đến nay chỉ mong mỏi có ngày được gặp long nhan, nhưng nay.... ta chỉ còn lấy cái thác đền lại ơn tri ngộ của Hoàng thượng.
- Thiết tưởng lệnh bà càng nên giữ gìn quý thể để mai sau, khi rước hài cốt Hoàng thượng về nước, còn được nhìn thấy cùng là trông nom việc mai táng trong sơn lăng liệt thánh.
Hoàng phi vụt tỉnh ngộ:
- Em nói rất phải. Chị đợi đến ngày ấy hãy xuống cửu tuyền hầu Thánh hoàng cũng không muộn.
Rồi quay lại hỏi Phổ Mịch:
- Hoàng thượng thăng hà vào năm nào, ngày nào, giờ nào, bạch cao tăng?
- Tâu lệnh bà, bần tăng đã biên chép cẩn thận. Thánh thượng thăng hà giữa giờ Dần, ngày mười sáu, tháng mười, năm Quý sửu. Ngài thọ hai mươi tám tuổi.
Hoàng phi lấy bút chép lại ngày tháng vào một mảnh giấy, gập lại bỏ vào bọc và phàn nàn:
- Chẳng biết mấy năm nay, có ai nhớ ngày húy ky Hoàng thượng mà cúng giỗ không?

Phổ Mịch đáp:
- Tâu lệnh bà, thế nào ở bên Bắc Quốc, Duy Khang chẳng đèn nhang thờ phụng Tiên đế. Còn như ở bản sơn môn đây, thì năm năm vẫn nhớ ngày húy, lập đàn cầu nguyện lên vong linh Tiên đế.
- Đa tạ cao tăng, cao tăng đừng quên hoàng tử nhé?
- Xin vâng.... Nhưng bây giờ thì rước lệnh bà xơi lưng cơm chay cho đỡ đói.
Liền bảo các chú tiểu sắp cơm, trong khi hoàng phi và Nhị nương ngồi sụt sịt thì thầm nói chuyện.

Hồi 21
Thanh Xuyên Hầu

Thanh Xuyên hầu, Trương Đăng Thụ là một trang thiếu niên tuấn tú, con quan Kiến Xuyên hầu, người làng Thanh Nê, trấn sơn Nam.
Kiến Xuyên hầu làm thượng thư bộ lễ thời chúa Trịnh sâm. Khi sâm mất, Khải và Cán chia ra hai phe đánh cướp nhau ngôi chúa, thì hầu chán nản cáo quan về làng, Trương Đăng Thụ hồi đó đang làm hiệp trấn Lạng sơn.
Kịp khi Tây sơn dứt nhà Lê, vua Chiêu Thống qua trấn Lạng sang Tàu, Thụ xin hộ giá tòng vong, nhưng vua truyền ở lại xem xét tình hình trong nước và để sau này làm nội ứng cho quân cứu quốc ở ngoài đưa vào. Thụ ép lòng nhậm chức cũ, đợi xem Tây sơn xử trí ra sao. Chàng nghĩ thầm:
"Dù có vì thế mà bị hại, thì cũng là một cách báo đền ơn vua".
Triều đình Tây sơn có rõ điều ấy chăng? Chỉ biết rằng vua Quang Trung săn sóc đến bọn bầy tôi nhà Lê một cách tha thiết, chu đáo. Ai đi trốn thì tìm về cho làm quan, ai ở chức cũ thì cất nhắc lên chức trên, còn những người nào nhất quyết từ chối không chịu nhận quan tước thì đẽ mặc ý về quê an cư lạc nghiệp, không phiền nhiễu tới. Đó chỉ là một chính sách thu phục nhân tâm, có chi lạ.
Cũng vì thế mà Trương Đăng Thụ đương ở chức hiệp trấn được nhắc lên chức trấn thủ. Nhưng ta đừng vội tưởng đó là sự khoan hồng của nhà Tây sơn. Trong chính giới, không có cai gì người ta làm vì tình cảm hết, ở đời nay hay ở đời Tây sơn cũng vậy. Trước kia, Trương Đăng Thụ còn ở chức hiệp trấn thì tuy dưới quyền quan trấn thủ nhưng bao binh lực chốn biên thuỳ đều ở trong tay mình. Nay được thăng chức trấn thủ tức là bị tước hết binh lực. Vả viên hiệp trấn mới lại là một tướng thân tín của vua Tây sơn từ Quảng Nam theo vua ra Bắc, và một số đông binh lính mới lại là người đường trong, trung thành với nhà vua, với triều đình Vậy thì quan trấn thủ Trương Đăng Thụ thực chẳng khác một tên tù giam lỏng, tuy vẫn được quan hiệp trấn và các viên liêu thuộc rất tôn trọng.
Trương Đăng Thụ cũng thừa hiểu, nhưng phải vờ trung thành với triều đình mới, dù ngày đêm vẫn lo mưu khởi nghĩa để phục hưng nhà Lê.
Một hôm lòng buồn bực, trí chán nản, Thụ đến vãn cảnh chùa Tam thanh, và nhận thấy sư cụ Phổ Mịch là một bậc cựu thần nhà Lê. Hai người liền đem tâm sự ra kể lể. Lúc bấy giờ sư cụ mới bỏ lòng khinh bỉ Thanh Xuyên hầu, vì trước kia vẫn tưởng lầm rằng hầu ham công danh, phú quý, bỏ vua theo giặc.
Nghe sư cụ thành thực tạ lỗi, Thanh Xuyên thở dài mà rằng:
- Sư cụ, - xin cứ xưng hô như thế cho tiện - Sư cụ ngờ oan cho Thụ này, thật chẳng có gì là quá đáng. Thời này, ai đã dễ mà tin hẵn được ai? Bậc trung thần nghĩa sĩ, anh hùng khảng khái thì ít, mà đồ siểm nịnh ham danh vụ lợi thì nhiều.

Những hạng siểm nịnh ấy, tôi có trách đâu. Cái chí bình sinh của họ ở chổ vinh thân phì gia, thì họ cứ việc mà theo cái chí lớn ấy cho kỳ tới mục đích, nào ai cấm đoán, mà nào ai bảo sao.... Tôi chỉ trách riên bọn bầy tôi nhà Lê ngoài miệng leo lẻo những chữ trung quân, ái quốc, phò Lê diệt tặc, mà trong lòng chứa đầy sự ham muốn cho mình, cho vợ con mình. Tôi chẳng cần kể tên bọn họ ra đây, vì chính tôi cũng đương ở một đia. vị vừa khả nghi vừa khó xử.... Nhưng sư cụ thử nghĩ xem, lúc phò thánh giá, bọn kia nói những gì khảng khái biết bao? Thế mà bây giờ tôi chỉ biết mấy thằng trong đám nghĩa binh xưa đang dự vào những chức trọng yếu trong triều.... sư cụ đừng ví họ với tôi. Tôi chỉ là một tên tù giam lỏng mà thôi, không có quyền binh gì trong tay. Chứ bọn họ - bọn đồng chí xưa của ta - thì trái hẳn, nay họ chỉ hô một tiếng là đầu chúng ta rụng, họ chỉ vẫy tay một cái là cả một hạt bị tàn phá. Công to của họ đối với triều đình Tây sơn là đã hoặc dụ hàng, hoặc chém giết hàng trăm hàng nghìn bậc cựu thần nhà Lê. Tôi đây hẳn là cái gai trước mắt bọn họ, họ chỉ chờ dịp bứt đi mà thôi.
Phổ Mịch hết lời an ủi Thụ, rồi đem công việc đảng Tiêu sơn ra bàn. Thanh Xuyên hầu cả mừng mà rằng:
- Tôi vẫn nghe đất Kinh Bắc có nhiều bậc anh hùng. Bây giờ mới biết rằng một đảng lớn mới thành lập ở đấy. Thực là đại phúc cho nhà Lê ta ? . . . Nhưng có phải dư đảng của Nguyễn Đoàn không?
- Không, đảng trưởng đảng Tiêu sơn là Phổ T nh thiền sư. Nhưng mới có cựu quân sư của Nguyễn Đoàn nhập đảng.
- Phạm Thái phải không, bạch sư cụ?
- Chính Phạm Thái, thế ra ngài biết cũng tường tận lắm nhỉ.

Từ hôm đó thỉnh thoảng Trương Đăng Thụ lại đến vãn cảnh động - chàng không ra luôn, sợ gợi lòng nghi ky của viên hiệp trấn. Nhưng sau chàng nghĩ được một diệu kế là vờ ham mê đạo Phật, mua đủ cách thứ kinh về xem, rồi đoạn sách nào không hiểu, lại thân ra chùa Tam Thanh hỏi sư cụ.
Viên hiệp trấn thấy vậy chỉ cười, cho trấn thủ là người mê tín đạo Phật và không đáng đề phòng cẩn mật lắm như triều đình đã có lệnh:
"Phải, còn có việc gì, chẳng xem kinh Phật thì làm cái gì?" Viên hiệp trấn lấy làm đắc chí, tâu luôn mấy điệp sớ về triều, kể tình trạng sự thay đổi tâm tính của Thanh xuyên hầu.
Nhưng trong khi ấy Phổ Mịch và Trương Đăng Thụ vẫn được bình tĩnh cùng nhau bàn quốc sự. Rồi nhờ Phổ Mịch giới thiệu, Thụ xin vào đảng Tiêu sơn và biên thư xin Phổ Tĩnh phái Phạm Thái lên trấn Lạng để cùng hai người lo toan việc lớn .
Hồi 22
Tâm sự

Bấy giờ vào quá giờ Tý. Dẫy nhà thấp lụp xụp mái lơp ngói kiểu tàu nằm ngủ dưới ánh sáng yên lặng của trăng tà. Gần đấy, về phía tây bắc, mấy quả núi đá Kỳ Lừa lù mù lấp lánh trong sương. Đứng bên bờ sông Kỳ Cùng trông sang, cảnh ấy hiện thành một bức tranh thủy mạc Tàu chấm phá trên nền lụa màu vàng ám khói.
Cách xa hẳn dẫy phố, bên con đường nhỏ rẽ vào động Tam Thanh, một toà nhà cao rộng hơn, nhưng cùng làm theo một kiểu kiến trúc. Một bức tường xây bằng đá ong, trên ngọn có cắm mảnh sành vỡ, bao bọc nơi dinh cơ ấy, trông như một cái thành quách nhỏ vậy, tuy xung quanh không có hào. Trong vườn nhô lên những đám lá cây thưa nhặt, thấp thoáng trong trăng, khiến cảnh thâm u lặng lẽ kia bớt vẻ buồn tẻ, lạnh lùng.
Đêm đã khuya, thế mà một nhà sư trẻ tuổi còn lần mò đến gõ cổng nơi biệt thự. Sau một hồi chó sủa inh ỏi, có tiếng hỏi ở phía trong:
- Ai? Ai đến khuya thế?
- Tôi.
- Tôi là ai mới được chứ?
- Tôi đây mà? Bần tăng đây mà?

Tiếng mắng đuổi chó, tiếng lách cách mở then rồi cánh cổng từ từ hé. Người bên trong cất tiếng run run, se sẽ hỏi:
- Có phải Phổ Bác thiền sư đấy không?
Người đứng ngoài cũng se sẽ trả lời:
- Phải.
- Trời ơi? sao đêm hôm khuya khoắc mà lệnh bà lặn lội....
Hoàng phi sợ hãi vừa quay đầu nhìn phía sau lưng vừa thì thầm:
- Im?
- Sao thế, tâu.... bạch sư ông?
Hoàng phi bước vội vào:
- Đóng cổng lại đã. Hình như có bóng người theo sau.

Rồi hai người cùng đi vào trong nhà.
Độc giả hẳn đoán biết người vừa ra đón tiếp Hoàng Phi là Nhị nương. Nhưng sao Nhị Nương lại đến ở đây?
Nguyên biệt thự này, quan trấn thủ Thanh Xuyên hầu dựng lên đã dăm năm nay, dùng làm nơi nghỉ mát để thỉnh thoảng đến đọc sách, ngâm thơ, di dưỡng tinh thần những khi nhàn hạ, rảnh việc quan. Nhất từ ngày ngài ham khảo cứu đạo Phật, thì ngài càng năng lui tới nơi đó để được cùng sư cụ Tam Thanh thuyết minh nghĩa mầu nhiệm của kinh Phật.
Kỳ thực, lập ra lớp riêng, Trương Đăng Thụ chỉ có một mục đích hưng Lê, hội họp anh em đồng chí để bàn việc lớn chống chọi với Tây sơn.
Hai tháng trước Hầu có ngỏ lời nhờ Phổ Mịch thiền sư tìm cho một người tin cẩn thông chữ nghĩa để vừa trông nom nhà, vừa biên chép kinh Phật, cùng văn thơ.
Nhân gặp giữa lúc Phạm Thái và Nhị nương phò giá Hoàng phi lên Lạng, sư cụ liền đem Nhị nương ra giới thiệu là một người cháu họ tên gọi Nguyễn Đức Minh.
Thế là đương đóng vai phong lưu công tữ, Nhị nương đã đổi ra đóng vai quản gia tại biệt thự quan trấn thủ. Trong khi ấy Phạm Thái ở lại tạm trụ trì một ngôi chùa gần Tam Thanh và Hoàng phi đến trú ở chùa Tiên, có đầy tớ tinh cẩn chủa Thanh Xuyên ăn mặc giả làm tiểu ở trông nam hầu hạ luôn bên mình.
Ham nay chừng có điều khẩn thiết hay nguy kịch muốn ngỏ cùng Nhị nương, Hoàng phi bỏ chùa lần tới đây chăng? Chính Nhị nương cũng đoán thế nên vừa vào trong phòng, nàng đã lo sợ thì thầm hỏi:
- Tâu lệnh bà, có việc gì quan trọng thế?
- Không, chả có việc gì quan trọng cả, nhưng hôm nay không biết sao, chị nóng ruột quá.

Nhị nương thở dài:
- Lệnh bà làm tôi giật mình kinh hoảng, tưởng đã xảy biến. Mà tôi cũng vậy, tâu lệnh bà, lòng tôi cứ xót như bào, đêm nay không sao nhắm mắt ngủ yên được.
Tôi đương một mình tản bộ ngoài vười thì nghe có tiếng lệnh bà gọi cổng.
Hoàng phi buồn rầu nói:
- Em ạ, từ hôm nghe tin hoàng đế thăng hà, hoàng tử qua đời đến nay, chị sinh ra mê sảng luôn. Động nhắm mắt là lại thấy haòng thượng về đứng bên giường.
Có khi muốn tránh những giấc mơ đau lòng, chị đã thức suốt đêm tụng kinh niệm Phật, cầu cho vong linh thánh thượng cùng hoàng tử.
Nhị nương nghe Hoàng phi nói, chỉ ngậm ngùi thở dài. Rồi nàng hỏi:
- Mấy chén thuốc tôi lấy hầu lệnh bà, lệnh bà đã xơi chưa?
- Cám ơn em, chị uống cũng thấy dễ chịu, nhưng sốt ruột thì vẫn còn sốt ruột.
Hôm nay vì chị đứng ngồi không yên về nỗi sốt ruột, nên chị phải vội đến thăm em để nói chuyện cho khuây khỏa.
Nhị nương chợt nghĩ đến con sông Kỳ Cùng:
- Nhưng ai chở thuyền hầu lệnh bà sang ngang?
- Vẫn có anh lái đò của sư Phổ Mịch đỗ thuyền ở bến. Chị nói sư cụ cho tìm, nên người ấy vội vàng chở ngay. Nhưng còn em, vì cớ gì mà em cũng băn khoăn không ngũ?
- Tâu lệnh bà, tôi cũng không hiểu vì cớ gì mà đêm nay tôi lại nóng ruột quá thế Tôi lo đã xảy ra sự gì bất trắc ở Tiêu sơn, nên có tâm linh báo cho biết như vậy Tôi muốn một hai hôm nữa về thăm đảng trưởng cùng anh em đồng chí, nhưng lại e lệnh bà ở đây một mình....
Hoàng phi vội đỡ lời:
- Nếu em về thì chị cũng về. Chị ở đây gần Trung quốc là nơi hoàng đế thăng hà, lòng chị đau thương không rứt. Vì thế chị cũng muốn về Bắc để được nhất tâm niệm Phật mà quên đau khổ.
Ngừng một lát không thấy Nhị nương đáp lại. Hoàng phi nói tiếp:
- Nhưng chị thấy em cũng khổ sở thì chị lại muốn quên nỗi thống thiết của chị đe để an ủi em. Hình như em có điều gì dấu chị?
Nhị nương vẫn ngồi im. Bỗng Hoàng phi nghe thấy nàng nức lên một tiếng.
Bà vội cầm lấy tay nàng, ôn tồn khuyên bảo:
- Chị em ta cùng gặp một cảnh ngỗ, tưởng em chẳng nên giấu chị một điều gì.

Đấy em coi, xưa nay có một ý nghĩ gì mà chị không ngõ cho em biết?
Nhị nương lặng lẽ để bàn tay trong tay Hoàng phi rồi thong thả nói:
- Thưa chị - Vì lệnh bà đã cho phép tôi được kêu lệnh bà là chị....
Hoàng phi vui vẻ ngắt lời:
- Phải, chị muốn em gọi chị là chị, như thế vừa thân vừa kín đáo.
- Thưa chị, tâm sự của em, em chưa ngỏ cùng ai. Nhiều khi đêm khuya thanh vắng, gồi một mình em lấy làm tự thẹn về những ý nghĩ bất chính của em. Vì, thưa chị những ý nghĩ ấy thật là bất chính. Em xin cứ thực tình dể hầu chị nghe:
"Từ ngày em rời bỏ tỉnh Nghệ, mang tấm thân phiêu bạt đi khắp đó đây, em đã tự thề với em rằng em còn sống một ngày nào, thì đời em, em hoàn toàn hiến cho sự báo thù cha, cho sự trả ơn chúa. Cũng vì thế mà em dấn mình vào nơi nguy hiểm, đi tìm thầy học võ, tìm bạn đồng chí để gây thế lực.
"Thế rồi một đêm em gặp Trần Quang Ngọc, cùng nhau lập đảng Tiêu sơn".
Hoàng phi kinh ngạc:
- Vậy ra chính em đã cùng Quang Ngọc, sáng lập đảng Tiêu sơn?
- Vâng, sau khi em cùng chàng giết được tên ác tăng tu hành ở chùa Tiêu sơn.
Rồi một ngày, đảng một thêm đông, một ngày em một thêm mến phục Quang Ngọc, mến vì nết, phục vì tài. Nhưng xin thú thực với chị rằng ngoài sự mến phục ra, không có gì nữa. Quang Ngọc coi em như một đảng viên khác bên nam giới mà thôi, còn em thì mải mê man trong cuộc hành động.... em không bao giờ để lòng em . . .
Nhị nương im bặt như lấy làm hổ thẹn về lời thú tội của mình. Hoàng phi thở dài đáp :
- Thế thì em đáng thương lắm. Chị hiểu em rồi. Em ạ, chị em mình muốn khảng khái, muốn hiến thân cho việc lớn đến bực nào mặc lòng, cũng chẳng bao giờ thoát khỏi được ra ngoài vòng thường tình nhi nữ. Nhưng em ơi, nặng chữ tình thì có phạm tội gì đâu. Mà theo đuổi việc lớn thì sao lại không được có tình?

Nhị nương ngập ngừng:
- Nhưng.... thưa chị, Quang Ngọc đã mặc áo cà sa.
- Không em ạ, Quang Ngọc tuy mình mặc áo cà sa, mà vẫn giữ một linh hồn một trang hiệp sĩ. Sống tạm trong tấm áo kẻ tu hành để làm việc lớn không phải hoàn toàn là kẻ tu hành. Đã không phải là kẻ tu hành, thì em có thể mong được mai sau....
Nhị nương bỗng ngồi ngay lại, nói dắn dỏi:
- Tạ ơn chị. Không, thưa chị, không bao giờ ta được nhu nhược. Em xin tự xử làm sao cho xứng đáng lòng tin cậy, lòng quý mến của Quang Ngọc, của đảng trưởng. Thưa chị, em nhất định không bao giờ chịu để ngữ "nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản" lại không đúng nghĩa đối với cả những hạng người theo đuổi việc lớn như Quang Ngọc?
Hoàng phi cảm động khen một câu:
- em nghĩ rất phải.

HOMECHAT
1 | 1 | 166
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com