watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:43:0926/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Khái Hưng > Tiêu Sơn Tráng Sĩ - Trang 2
Chỉ mục bài viết
Tiêu Sơn Tráng Sĩ
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 21

Hồi 3

Sư Ông

Đã luôn ba hôm nay, sư ông đóng cửa chùa trên, cả ngay cặm cụi làm việc. Làm việc gì? Trong chùa không một ai hay. Chỉ biết rằng đã sáu bữa nhà sư bỏ cơm, và mỗi lần có ai vào khiến đàn chó sủa ầm ĩ, thì trên chùa lại nghe có tiếng mõ đều đều và tiếng tụng kinh sang sảng. Mãi cho đến lúc một chú tiểu thân cận đến gõ cửa và báo cho nhà sư biết người mới đến là ai.

Lần này cũng vậy, đàn chó vừa im sủa thì người ta nghe thấy tiếng tụng kinh du dương huyền bí ở trong chùa đưa ra, lẫn trong mùi trầm, mùi hương phảng phất. Nhưng chú ti ểu vừa bạch có cô hàng nồi đất ở Kinh Bắc đến, thì nhà sư vội vã mở cửa bảo đưa cô ta lên ngay. Công việc của cô hàng chỉ có giao tận tay cho sư ông một bức mật thư. Đoạn, nàng hầp tấp xin đi ngay. Muốn tránh sự ngờ vực, nhà s ư lớn tiếng bảo chú tiểu mua hai cái niêu thổi cơm.

Đóng cửa cải then xong, nhà sư đến chỗ bệ gạch bày tượng. Tức thì hở ra một khe. Khi ấy lại mảnh tường để lấp cái khe đi, không ai có thể nhận thấy dấu vết được, nhất là chỗ đó lúc nào cũng tối như ban đêm.  Cố nhiên cái bệ ấy rỗng, và tuy ở trong có thắp đèn, thở cũng vẫn dễ, vì có nhiều lỗ thông hơi đục qua thân bụt gỗ khỗng lồ. ở một góc buồng nhỏ hẹp ấy có một bản gỗ trên khắc chữ nôm. Bên cạnh, một tập giấy vừa in xong. Thì ra luôn ba hôm nay, sư ông bận khắc bản gỗ ấy. Chẳng nói thì độc gi ả cũng thừa biết công việc bí hiểm của nhà sư quan trọng là chừng nào.  Nhưng có lẽ nhà sư cho bức thư kia còn quan trọng hơn nhiều, nên mới bỏ dở việc in giấy mà vội vàng xé phong bì ra xem.

Bức thư vắn tắt như sau này:

Phạm quý hữu nhã giám.
Bọn đồng chí chúng ta mới thêm đươc một người văn võ kiêm toàn. Người ấy là Lê Báo công tử con cả quan Thiên Thư Khu Mật Viện Sự Lê Ban.  Lê Báo hiện ẩn núp ở bản am, khao khát đươc gặp mặt quý hữu lắm. Vậy quý hữu nên sang ngay Tiêu Sơn hội viện để bàn một điều rất là cẩn trọng, cần kíp.
Phổ Tĩnh Thiền Sư kính thư.

Niên hiệu Chiêu Thống  thứ mười một năm Bính Thìn tháng Chạp ngày Mồng Bốn. (Đảng Tiêu Sơn vẫn giữ niên hiệu cũ của nhà Lê không chịu dùng niên hiệu Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn).

Xem xong thư, Phạm Thái - vì sư ông chính là Phạm Thái tức Phạm Phụng - vội vàng thu xếp bản in giấy má gọn gàng, rồi ra ngoài đóng cửa phòng bí mật lại.  Sau khi đã cặn kẽ dặn các tiểu trông nom chùa, chàng buộc hành lý vào trong một cái tay nải nâu, vắt lên vai ra đi.

Vì cớ gì Phạm Thái vội vàng thế?  Có lẽ cũng vì một phần việc đảng bộ, nhưng nhất vì tính tò mò muốn biết Lê Báo là ai, là người thế nào mà võ nghệ cao siêu lạ thường như thế?  Nguyên sáng sớm hôm nay, thám tử của chàng về báo cho biết tối hôm trước
có một người trẻ tự xưng là Lê Báo vào uống rượn ở một tửu quán phố Từ Sơn rồi
trong khi bất ngờ giết bọn lính canh trong quán và cướp một nhà sư trốn biệt.
Phạm Thái lấy làm kinh ngạc. Trong thư Phổ Tĩnh nói sang hội diện cùng Lê
Báo. Vậy Lê Báo ấy chẳng hay có phải Lê Báo trong tửu quán không? Nếu phải thì
nhà sư bị cướp đi chẳng là Phổ Tĩnh còn là ai?  Phạm Thái vừa rảo bước trên con đường Từ Sơn vừa lẩm bẩm: "Khó hiểu! Chẳng nhẽ nhà sư ấy lại là Phổ Tĩnh? Vô lý? Trí dũng như anh Trần Quang Ngọc, còn ai bắt cóc nổi. Mà dù  bắt cóc, dù cướp đi nữa, sao lại đến Tiêu Sơn?

Câu truyện xẩy ra năm trước, chàng còn nhớ rành mạch, và khiến chàng không thể nào tin được rần sự bắt cóc kia là có thực.  Hồi ấy Nguyễn Đoàn vừa bị giết, đồ đảng vỡ lở tán loạn, sào huyện bị phá tan hoang. Phạm Thái phải lang thang, lẩn lút quanh vùng, luôn luôn bị quân lính của quan hiệp trấn Kinh Bắc và viên phân phủ Từ Sơn tróc nã.
Một đêm chàng đến chùa Tiêu sơn ngủ trọ. Thấy cảnh chùa hùng vĩ độc chiếm một trái đồi, chàng mừng thầm rằng chốn ấy có thể nương thân được để chờ vận mà đi tìm kiếm, tụ hội các nhân tài trong nước. Lòng sốt sắng báo thù cho cha và cho chủ đảng bị hại bởi tay Tây Sơn làm cho chàng trở nên tàn ác. Đối với chàng, chỉ một mục đích chàng đương theo đuổi là đáng kể. Chàng không kiêng nể một sự gì để đi tới mục đích ấy, dù phải quả quyết hung bạo cũng đành.  Bởi vậy chàng có manh tâm muốn giết nhà sư Tiêu Sơn để chiếm giữ ngôi chùa làm một nơi sào huyệt. Chàng cho đó là một việc rất dễ dàng và giản dị. Sau khi chàng cạo trọc đầu và thắng bộ quần áo nâu vào thì còn ai nhận được chàng là
Phạm Thái nữa; người ta sẽ gọi chàng là sư Tiêu Sơn và không bao giờ dám ngờ rằng chàng đã kế nghiệp nhà sư chân tu kia một cách võ đoán.

Nhưng Phổ Tĩnh thiền sư trụ trì ở chùa Tiêu Sơn há phải là một thầy tu tầm thường mà chàng có thể giết như giết con gà mái non? Vì thế vào khoảng giờ Tý, Phạm Thái vừa lẻn vào nhà trai, nơi túc phòng của Phổ Tĩnh, định giở tay, thì dưới ánh lù mù một ngọn đèn dầu, hai người liền đánh nhau một trận kịch liệt.  Ý chừng đều biết sức nhau, nên sau khi đã giở mấy miếng võ ra, đôi bên cùng lùi lại và cất tiếng cả cười. 
Nhà sư khinh bỉ hỏi Phạm Thái:
- Cớ sao ta đã cho nhà ngươi ngủ trọ, nhà ngươi lại trả ơn ta một cách xứng đáng thế?
Phạm Thái đáp vắn tắt:
- Không lôi thôi. Trong hai ta chỉ một người được sống.

Rồi chàng lại sấn tới giơ dao chém. Nhà sư né người sang một bên mà nói rằng:
- Khoan? Phòng này chật hẹp quá, không phải là nơi đấu võ. Vả như ngươi có dao mà ta tay không. Chẳng lẽ nhà ngươi lại hèn nhát đến thế. Có giỏi hãy đi ngủ một giấc cho khoẻ khoắn đã rồi sáng mai lên ngọn đồi sau chùa, cùng ta tỉ thí.  Ngươi có ưng thế không, Phạm Thái?

Phạm Thái, nghe nhà sư đọc đến tên mình thì giật mình kinh hãi. Phổ Tĩnh liếc mắt thấy vậy liền bất thình lình nhẩy lại giật phắt lấy con dao rồi mỉm cười bảo:
- Phạm Thái, chú có dao còn không làm gì nổi ta, bây giờ con dao ấy đã sang tay ta, vậy chú nghĩ sao?
Phạm Thái cũng mỉm cười:
- Điều đó không cần biết vội, hãy hỏi nhà sư điều này: Sao nhà sư nhận được tôi là Phạm Thái?
- Hỏi dở, một nghìn quan tiền thưởng của triều đình, ngươi bảo dễ không đáng khiến ta lưu ý đến diện mạo nhà ngươi chăng?
Phạm Thái không nén được lòng tức giận, thét mắng:
- Thằng sư hổ mang kia? Tao cho phép mày bắt tao đem nộp mà lĩnh thưởng.
Nhà sư lạnh lùng bỉu môi, đáp:
- Nhưng ta đã trót hứa với nhà ngươi rằng mai lên đồi đấu võ mất rồi?
- Ta không thèm đấu võ với quân khốn nạn đội lốt sư để đi do thám cho giặc của nhà Lê!
- Khá đấy. Phạm Thái anh hùng đấy. Còn kẻ đang đêm lẻn vào phòng này để giết trộm thì Phạm Thái liệt vào hạng gì?

Phạm Thái phần xấu hổ, phần căm tức, sấn lại đánh nhà sư, nhưng nhà sư nhanh nhẹn tránh sang một bên  mà lớn tiếng hỏi:
- Thong thả, Phạm Thái có biết ông Trần Quang Châu là ai không?
- Sao ta không biết? Bậc trung thần ấy là bạn của thân phụ ta khi xưa, sao ta lại không biết? Nhưng ta cấm thằng ác tăng kia không được đọc đến tên ngài.
Phạm Thái bỗng kêu rú lên:
- Trời ơi! Anh Trần Quang Ngọc!
- Chính ta là Trần Quang Ngọc.

Phạm Thái vội sụp lạy xuống đất, tạ tội:
- Anh tha chết cho em, vì em thật đáng chết.
Trần Quang Ngọc đỡ Phạm Thái dậy mà nói rằng:
- Chúng ta quen biết nhau từ thuở nhỏ. Ngày nay anh còn nhận sao được mặt tôi, nhất tôi lại ẩn núp trong bộ thiền phục.
Hai người mừng rỡ đem truyện riêng ra kể cho nhau nghe. Phạm Thái nói:
- Chẳng hay sau khi bác đốc trấn bị mắc mẹo lừa ở Chí Linh rồi ra sao?
Trần Quang Ngọc ứa nước mắt trả lời:
- Khi ấy thân phụ bị bắt giải về Phú Xuân, Quang Trung dụ thân phụ quy hàng, thân phụ nhất định không chịu nghe, nên đã bị hắn hại rồi, còn đâu!
- Thằng giặc già? Cha chúng mình cùng chết về tay nó. Nhưng đại huynh còn cặm cụi chống chọi mãi với quân Tây Sơn kia mà?
- Phải, được gần một năm. Vả hiện giờ đồ đảng của tôi cũng còn tới hơn nghìn, tản mạn ở khắp các trấn, nếu cần dùng đến, có thể có ngay. Nhưng còn hiền hữu, nay định đi đâu?
- Tôi cũng chẳng biết đi đâu.
- Ngày hiền hữu ở bên Nguyễn Đoàn, tôi vẫn có ý muốn sang theo, nhưng sau biết Nguyễn Đoàn không phải tay làm nổi việc lớn, nên lại thôi.
- Thế thì đại huynh có con mắt tinh đời lắm. Quả thực, Nguyễn Đoàn là một tay chủ trại tầm thường, chẳng qua chỉ sai khiến nổi một bọn lâu la ô hợp mà thôi, hiểu làm sao được chí lớn của anh em mình. Nếu hắn biết theo bài quân yếu về mấy thế chiến công của tôi thì đâu đến nổi.
Quang Ngọc cười, hỏi:
- Tôi nghe nói bài quân yếu của hiền hữu có thể so sánh với những binh thư có tiếng của cổ nhân như Lục Thao Tam Lược của Thái công, Thập Tam Thiên của Tôn Tử.
Phạm Thái gạt đi mà rằng:
- Đại huynh nói quá. Tôi tài hèn đâu dám ví với các bậc đại tướng xưa.

Hai người chuyện trò với nhau mãi đến sáng về binh lược, võ nghệ. Hôm sau Trần Quang Ngọc khuyên Phạm Thái thế phát quy y đễ dễ trốn tránh, rồi nhân chùa Liên Đài ở xã Nghiêm Xá chưa có ai trụ trì (vì vùng ấy loạn lạc không nhà sư nào dám ở tu) Phổ Tĩnh thiền sư liền cắt Phạm Thái về đó lấy đạo hiệu là Phổ Chiêu thiền sư.

Phạm Thái vừa đi vừa ôn lại trong trí quãng đời dĩ vãng. Chàng lấy làm lạ rằng Phổ Tĩnh thiền sư tức Trần Quang Ngọc là một tay võ nghễ cao cường mà còn bị Lê Báo bắt thì không hiểu Lê Báo sức khoẻ đến bực nào. Mà nếu Phổ Tĩnh đã bị bắt cóc, sao lại còn có bức thư gọi mình sang hội diện. Hay là bức thư man trá? Nhưng chính tay Nhị Nương đưa cho ta kia mà. Vả xét tự dạng thì đích là thư của Phổ Tĩnh rồi.  Chắc có điều gì bí mật chi đây. Phạm Thái mải suy nghỉ đến nỗi tới đò Thọ Khê mà vẫn không biết. Mãi lúc bị lính giữ lại hỏi, chàng mới giựt mình như choàng thức dậy:
- Nhà sư kia đi đâu?
Một viên đội cười bảo tên lính của mình:
- Sư ông Phổ Chiêu ở chùa Nghiêm Xá mà chú không biết hay sao?
Liền vẫy tay cho phép nhà sư xuống đò.
Thấy sự canh phòng nghiêm mật, Phạm Thái càng nóng ruột về câu chuyện xảy ra ở tửu quán. Vì thế, trước khi đến Tiêu Sơn, chàng đi thẳng tới hàng nhà Ngỗng (bạn đồng chí của chàng thường hội họp ở đấy) để dò tin tức.  Thấy cửa quán đóng im ỉm, chàng liền gõ năm tiếng, đó là hiệu riêng của đảng Người chủ quán thì thầm mấy câu rồi đóng sập cửa lại. Trong lòng mừng rỡ, Phạm Thái thong rong bước lên chùa Tiêu Sơn.

Hồi 4

Tiêu Sơn Kết Nghĩa

Đã lâu nay cửa tam quan chùa Tiêu Sơn rào kén hẳn hàng ba, bốn lần tre, hóp và chông chà. Khách thập phương phải đi qua một con đường vòng chạy theo chu vi trái đồi, rồi rẽ ngoặt ra phía bên. Ở đó có một cái cổng nhỏ hẹp nhưng xây rất kiên cố. Qua lần cổng, một hàng bậc gạch cao và giốc đưa đến nhà trai. Như thế, đứng trên ngọn đồi hay trong lầu Tiêu Lĩnh nhìn xuống có thể biết ai sắp đến chùa, nhất lại có một cái lạch nước rất sâu ngăn chận đồi ra với con đường vòng. Cái lạch ấy, sư Phổ Tĩnh cho đào để lấy đất đắp bức tường dài bao bọc quanh đồi. Và cũng nhờ việc to tát ấy mà nhà sư đã được dân làng nức nở ca tụng công đức. Họ cho nhà sư đắp tường đào hào như thế không những chỉ có một mục đích giữ chùa, mà còn có mục đích che chở cho dân quanh vùng trong khi nhiễu loạn, vì hạt ấy, họ sợ hãi bọn Nguyễn Đoàn, Phạm Thái lắm, tuy chỉ sợ bóng sợ gió. 

Ý chừng Phổ Tĩnh thiền sư cũng biết vậy, nên ngay ở cửa tam quan, có dán một tờ yết thị nói cửa từ bi không hẹp, ai sợ quân cường đạo cướp bóc cứ vào chùa nương náu ít ngày, nhà chùa sẵn lòng dung nạp.

Kỳ thực chỉ có đồ đảng của Phổ Tĩnh là hay lui tới cửa chùa và tờ yết thị kia không có mục đích gì khác là để che mắt quan quân. Chẳng thế có khi trong chùa tụ họp đến hàng trăm người mà viên phân phủ Từ Sơn vẫn không lưu ý tới, cho rằng đó toàn là những bọn quê mùa yếu hèn, nhút nhát đến ẩn núp. Không những thế, viên phân phủ còn nhân tờ chiếu của vua Quang Trung bắt bỏ hết chùa nhỏ trong các làng để dựng một ngôi chùa lớn ở mỗi phủ, mỗi huyện, mà đệ tờ bẩm lên quan trấn thủ xin lấy chùa Tiêu Sơn làm chùa chính thức được trụ trì, ở chùa ấy.  Tuy việc tư xin bị đình bãi, vì từ khi vua Quang Trung thăng hà, vua Quang Toản và Thái Sư Bùi Đắc Tuyên không còn lưu tâm gì đến công việc cải cách thiền học nữa, nhưng lòng tín nhiệm của quan quân hạt Kinh Bắc đối với Phổ Tĩnh thiền sư, nhờ việc đó mà ngày một thêm vững chặt.

Lòng tín nhiệm hầu hoàn toàn ấy đã giúp đồ đảng bí mật của Quang Ngọc hoành hành dễ dàng ở vùng Kinh Bắc, vì những viên kiện tướng của chàng đều là các sư ông, sư bác mà tay quan trọng nhất là Phạm Thái tức sư ông Phổ Chiêu chùa Linh Đài, làng Nghiêm Xá.
Chiều hôm trước nhân sư bác chùa Đình Bảng đến báo có một bà hoàng phi bị bắt giải về giam ở phủ Từ Sơn, Quang Ngọc liền hốt hoảng chít vội cái khăn vuông xuống tận mắt và khoác vội vào mình cái mền nâu cũ, cho người ta không nhận được ra đi.

Nguyên chàng vẫn biết rằng từ khi thành Thăng Long mới vỡ, người em thứ ba vua Lê là Lan quận công Duy Chí đem bà Hoàng Phi họ Nguyễn chạy lên Tuyên Quang rồi chiêu dụ những người thổ hào cùng nhau lo toan việc hưng phục.  Nhưng Duy Chí mới chống chọi với quân Tây Sơn được vài tháng ở Bắc Lạc thì bị bắt bỏ cũi giải về Phú Xuân hàng hình cùng với hết thảy các tướng tá.  Hoàng Phi liền rời Tuyên Quang trở về hạt Kinh Bắc ẩn núp ở trong các nhà bình dân. Quân Tây Sơn thường đi lùng bắt mà không được, vì người Kinh Bắc vẫn còn mến tiếc nhà Lê, không ai chịu tố cáo nơi hoàng phi trú ẩn.

Khi đã dò biết đích xác rằng hoàng phi bị bắt, Quang Ngọc vào hàng cơm nhà Ngỗng ở phố phủ, định sai chủ quán, một đảng viên của đảng Tiêu Sơn, đưa ngay tin đến Nghiêm xá cho Phạm Thái. Chẳng ngờ gặp giữa lúc Lê Báo đang uống rượn và nói nhiều câu khảng khái. Chàng liền dốn ngồi lại để xem ông khách trẻ tuổi kia là người thế nào, nhất chàng lại như bị cái sức vóc vạm vỡ và nét mặt tươi như hoa của kẻ kia lưu luyến.  Việc cần kíp thứ nhất của Quang Ngọc khi đã đưa Lê Báo về tới chùa là viết thư sai người tức tốc đến Kinh Bắc giao Nhị Nương đem về Nghiêm xá cho Phạm Thái. Chàng biết tất có binh mã đuổi theo con đường Từ Sơn - Kim Lũ, nên chàng không cho người mang thư đi lối ấy. Chàng lại biết đàn bà, con gái ít khi bị ngờ vực, khám xét, nên việc thông tin tức chàng thường giao cho bọn họ.

Vào khoảng cuối giờ Tỵ, Phạm Thái tới chùa Tiêu Sơn. Quang Ngọc đã dứng chờ ở chân đồi. Hai người lớn tiếng chào nhau: "A Di Đà Phật!"
- Lê Báo đâu?
Quang Ngọc cũng khe khẽ đáp lại:
-  Trong chùa.
- Có việc gì quan hệ nữa không?
- Có, chốc nói chuyện.

Lên đến đầu bực thang gạch, nghe có tiếng mõ lớn thưa thớt rời rạc. Phạm Thái mỉm cười, theo Quang Ngọc qua cái cửa nách bước vào chùa trên. Một nhà sư đầu mới cạo nhẵn thín, khoác áo cà sa ngồi ở cái bục gỗ trước bàn thờ, miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay uể oải gõ mõ. Hình như nhà sư chú hết tinh thần vào sự tụng niệm, nên không biết có hai người vừa vào, tuy họ đã cất tiếng chào: "A Di Đà Phật!"

Thấy người kia không nhúc nhích, Quang Ngọc đưa mắt liếc Phạm Thái, mỉm cười rồi lại gần bàn thờ gọi:
-    Lê Báo. 

Lê Báo vờ không nghe rõ, vẫn ngồi đọc kinh, mắt chăm chăm để vào quyển sách chữ lớn mở đặt trên giá. Quang Ngọc cáu tiết, đến sau lưng ghé vào tai nói:
-         Mới tu được một buổi mà đã mộ đạo thế ư? 

Bấy giờ Lê Báo mới rời quyển kinh, ngước mắt nhìn lên, nhoẻn miệng cười:
- Không, đệ có đọc kinh đâu, đệ ngâm thơ đó chứ!

Cả ba người cùng cười ồ. Bỗng một chú tiểu ở ngoài đi vào để thắp hương.  Các nhà sư lại im bặt, nét mặt người nào người ấy đều có vẻ thành kính, nhu mì, kín đáo. Phổ Tĩnh vờ hỏi Lê Báo:
- Sư cụ bên ấy vẫn được mạnh đấy chứ?
Lê Báo hấp tấp đáp lại:
- Thưa ngài…
Phổ Chiêu vẻ mặt trang nghiêm vội đỡ lời:
- Bạch sư ông, cụ Phổ Mịch nhờ ơn Phật Tổ vẫn được mạnh như thường.

Phổ Tĩnh mỉm cười rồi quay ra bảo chú tiểu, ý chừng mới tu ở chùa này:
- Gọi chú Mộc.
Một lát sau, bước vào một người to lớn, gân cốt nở nang, cặp mắt tròn xoe, da dẻ hồng hào.
Phổ Tĩnh hất hàm hỏi:
- Nó mới đến, chú đã biết tâm địa ra sao mà dám cho lên chùa trông nom việc đèn nhang?
- Bạch sư ông, nó ở trong bọn thủ túc chân thành của đệ tử. Đệ tử xin cam đoan chịu hết trách nhiệm.
Phổ Tĩnh hơi gắt:
- Đành vậy, nhưng cứ phòng bị trước thì vẫn hơn. Tiệc đã sửa soạn xong chưa?
- Bạch sư ông đã.
- Có nhiều rượn ngon đấy chứ?
- Bạch sư ông, đủ cả. Đệ tử đã cho xong đâu đấy ở trên lầu Tiêu Lĩnh.
- Được, ta không cần đến chú nữa.

Chú tiểu lễ phép cúi đầu chào, đi ra. Phổ Tĩnh đóng cửa cẩn thận mà nói rằng:
- Thôi, bây giờ chúng ta không còn lo sợ điều gì, cứ việc bình tĩnh mà đánh chén, vì muốn lên Tiêu Lĩnh tất phải qua chùa, mà cửa chùa thì đóng khóa kiên cố lắm.

Thấy Phạm Thái thì thầm nói chuyện với Lê Báo, Quang Ngọc quay lại hỏi hai người :
- Chỗ quen biết cả đấy. Mà dù chưa quen biết thì rồi cũng phải quen biết. Anh hùng trong thiên hạ phỏng được bao người, sao không cùng nhau làm việc đại nghĩa.
Phạm Thái đáp:
- Ngu đệ vẫn được nghe đại danh của quan Thiên Thơ Khu Mật Viện Sự. Nay được gặp ngài thực lấy làm hân hạnh.
Quang Ngọc thẳng thắn cười lớn:
- Ngài? Cái tiếng xưng hô ấy không được ổn bỏ nó đi.
Lê Báo cũng nói:
- Phải, chỗ anh em sao lại gọi thế!

Quang Ngọc bàn:
- Muốn chính kỳ danh, trước hết phải chính kỳ vị. Ngày xưa anh em Lưu, Quan, Trương kết nghĩa tại vườn đào, rồi lập nên cơ nghiệp kinh thiên động địa.  Vậy ngày nay, sao chúng ta không theo gương ấy mà cũng kết làm anh em?
Lê Báo vỗ tay, thét vang như tiếng lệnh:
- Ồ! Phải đấy! Hay! Hay! Ý đại huynh hay lắm!
Phạm Thái mỉm cười:
- Trong ba anh em mình chẳng biết có ai giống Lưu Huyền Đức, Quan Vân
Trường không, nhưng giống Trương Dực Đức thì Lê hiền hữu thực là giống như đúc.
- Vậy đệ xin làm em út chứ sao.
Quang Ngọc hỏi:
- Hiền hữu niên canh bao nhiêu?
- Mười chín tuổi.
- Thế thì hiền hữu là em út hẳn đi rồi, vì Phạm quân hơn hiền hữu một tuổi.
Phạm Thái khiêm tốn:
- Nhưng Lê hiền hữu giòng dõi tôn thất nhà Lê, ngu đệ xin nhường là anh.
Phổ Tĩnh vội gạt:
- Không được, chỉ có một điều đáng kể: Ai hơn tuổi là anh.
- Hiền huynh đã dạy như thế, thì hai em hẳn phải vâng theo. Vậy bây giờ chúng ta phải thề ra sao?
Lê Báo hỏi:
- Ở chùa này cũng có thờ Quan Công đấy chứ?
Quang Ngọc cười:
- Chùa nào lại chẳng thờ đức Thánh Quan.
- Thế thì hay lắm. Chúng ta cứ đến trước bàn thờ ông ấy mà thề.
- Phải đấy, phải đấy!

Ba người liền cùng nhau lại bàn thờ Quan Công. Lê Báo bảo hai bạn:
- Trông Quan vân Trường lẫm liệt oai phong lắm nhỉ? Có lẽ vẻ lẫm liệt oai phong ấy là nhờ ở bộ mặt đỏ, mà muốn có một bộ mặt đỏ tất phải uống nhiều rượu.  Vậy trước khi phát thệ, sao ta không đem rượn lên dâng ngài rồi cùng nhau uống thực say đã!

Quang Ngọc cười:
- Vì say rượu hiền hữu suýt bị thiệt mạng ở tửu quán, thế mà vẫn không chừa?
Lê Báo lấy làm xấu hổ với Phạm Thái, nói chữa thẹn:
- Hiền huynh tưởng ngu đệ say à? Ngu đệ uống gấp năm, gấp mười thế cũng chẳng thấm vào đâu. Chẳng qua giữa lúc bất ngờ bị chúng nó đẩy cái bàn vào người, nên ngu đệ ngã đó mà thôi.
Phạm Thái vốn thích rượu mà uống bao nhiêu cũng không say, liền đỡ lời bạn:
- Lê hiền hữu nói rất đúng. Lễ phát thệ long trọng này không có rượu sao được?

Dứt lời, Quang Ngọc đi thẳng lên lầu Tiêu Lĩnh. Ở lại trước bàn thờ Quan Công, Phạm Thái sẽ bảo Lê Báo:
- Nghe nói tửu lượng hiền hữu khá lắm.
- Vâng, cũng khá. Hôm nay xin uống thi.
- Thi cái gì chứ thi uống rượu thì không bao giờ ngu đệ dám nhận lời.
- Sao vậy?
- Vì kẻ tu hành phải giới tửu.
- Thế thì buồn lắm nhỉ?

Quang Ngọc bê xuống một bình rượu lớn và hỏi hai người:
- Ngần này đã đủ chưa?
Lê Báo đáp:
- Cũng tiềm tiệm. Nhưng rượn có ngon không đấy? Chứ rượu của thằng cha chủ quán, ngu đệ uống hôm qua không thể nuốt được.
Phạm Thái cười:
- Ấy là không thể nuốt được đấy, chứ nuốt được thì không biết hiền hữu say tới đâu?
Quang Ngọc cũng cười:
- Hai chú không ngại. Rượu đây tôi thửa mãi tận ở Thủ Khối chính hiệu hoàng
cúc.  Nhưng ta làm lễ đã rồi hãy hay.

Quang Ngọc nói:
- Bây giờ mỗi người thề một câu. Tôi hơn tuổi được hai hiền đệ tôn làm anh xin thề trước.
Chàng liền quỳ trước bàn thờ Quan Công và dõng dạc khấn rằng:
- Ngày xưa Quan Thánh đế có kết nghĩa với Lưu Huyền Đức, Trương Dực Đức tai vườn đào, thề cùng sống cùng chết để cùng nhau phò nhà Hán, cứu giúp muôn dân. Ngày nay ở nước Việt Nam chúng tôi trăm họ loạn lạc, bị lầm than chẳng kém đời hậu hán, hai anh em lũ giặc Tây Sơn đem quân đi ăn cướp phá đánh đuổi vua chúng tôi phải chạy trốn sang bên quý quốc, giết cha chúng tôi, giết họ hàng chúng tôi, vậy trước bàn thờ ngài ba chúng tôi là Trần Quang Ngọc, hai mươi nhăm tuổi, Phạm Thái hai mươi tuổi, Lê Báo mười chín tuổi, xin theo gương ngài cùng họ Lưu, họ Trương, kết nghĩa anh em, trước là để phò nhà Lê, sau nữa là để rửa thù cho cha chúng tôi. Tôi thề rằng tôi coi Phạm Thái, Lê Báo như hai anh em ruột, cùng hai người sống chết có nhau. Nếu tôi ở không đúng lời thề xin chết như thế nầy.

Dút lời chàng bẻ hương ra làm hai đoạn mà vứt xuống đất. Phạm Thái thề cũng như Quang Ngọc. Đến lượt Lê Báo. Chàng rót thêm vào chén rượn thờ, rồi tự rót cho mình một chén đầy giốc một hơi cạn. Đoạn chàng bảo hai người:
- Hai hiền huynh thề như thế không được, nghe ngu đệ đây nè.

Tức thì chàng vào quì trước bàn thờ và lớn tiếng khấn:
- Tôi đây Lê Báo tuy mới mười chín tuổi đầu nhưng trong ba năm nay tôi đã đi chu du khắp nước, vì vậy tôi biết dân tình rất khổ sở. Tôi nhớ sách Mạnh Tử có câu: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Thế mà họ coi nước như tư sản của họ, không tưởng gì đến dân, đến xã tắc nữa. Vì vậy ba chúng tôi là Trần Quang Ngọc, Phạm Thái, Lê Báo cùng nhau kết anh để ra tay tôn phò một vị nhân quân biết coi dân làm trọng. Tôi thề rằng (vừa nói vừa rót rượn vào chén) tôi xin giữ trọn đạo làm em út dốc lòng tuân theo mệnh lệnh của đảng trưởng là ông anh cả Trần Quang Ngọc của tôi, nếu tôi trái lời thề ấy thì nguồn ngày xanh của tôi cũng cạn như chén rượn này.

Cùng với câu thề, chén rượu cùng hết. Quang Ngọc và Phạm Thái đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Rồi Quang Ngọc rót ba chén rượn đầy mà nói rằng:
- Xin uống cạn chén rượu để chúc cho tình huynh đệ chúng ta ngày thêm bền chặt với non sông Nam Việt.
Uống xong Phạm Thái khen:
- Rượu của hiền huynh ngon lắm.

Lê Báo nghĩ thầm: "Đã giới tửu mà còn biết rượn ngon!"
Quang Ngọc mời hai bạn lên lầu Tiêu Lĩnh dự tiệc.  Lê Báo sợ bỏ quên mất bình rượu, vội vàng bê theo.

HOMECHAT
1 | 1 | 180
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com