watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:46:0826/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Khái Hưng > Tiêu Sơn Tráng Sĩ - Trang 7
Chỉ mục bài viết
Tiêu Sơn Tráng Sĩ
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Tất cả các trang
Trang 7 trong tổng số 21

Hồi 11
Cái Võng Thịt
 

Đào Phùng bị giam đã được hơn một tháng. Trần Xá vì tuổi tác không chịu nổi hình phạt quá dã man nên đã bỏ mạng trong ngục thất. Nguyễn Tiết thì được tha ngay hôm bị bắt. Chàng hứa với phân phủ sẽ đi dọ thám bọn cựu thần nhà Lê. Đó là câu nói thầm đã khiến phân phủ vui mừng truyền cởi trói cho chàng.  Còn Đào Phùng, trong thời kỳ ấy, đã năm phen bị hành phạt roi song và kìm cặp mà vẫn không chịu cung khai, một mực nói mình chỉ phạm có một tội:  tội làm con bậc trung thần nhà Lê.

Một buổi sáng, tiết xuân ấm áp, Đào Phùng hồi tưởng tới hồi tự do đi chơi ngoạn cảnh, cùng anh em uống rượu làm thơ, mà trong lòng sinh ra mối hoài xuân, man mác. Mấy ngày tết Nguyên Đán, tiếng pháo nổ ran, chàng nghe như lời trêu ghẹo, nhưng chàng chỉ căm tức mà không buồn rầu.  Hôm nay, trong phòng ngục chật hẹp, sự yên lặng đã khiến chàng buồn rầu mà quên hẳn lòng căm tức.  Qua hàng chấn song sắt cửa sổ, màn mưa bay lờ mờ làm tăng vẻ dịu của cảnh trời muộn, Đào Phùng cúi xuống nhìn hai chân sỏ trong cùm rồi lắc đầu, thốt ra một tiếng thở dài đau đớn.

Bỗng chàng nghe có tiếng lao xao ở phòng binh lính giáp vách với ngục phòng. Chàng lắng tai nghe được câu chuyện của lý trưởng sở tại với người cai lệ. Lý trưởng đem biếu quan cái thủ lợn và chú cai vòi lễ mới chịu trình quan.

Đào Phùng liền lên tiếng nói đổng:
- Lâu nay bị giam them rượu quá. Giá được chén một bữa thỏa thích thì cung khai hết mọi điều.

Người cai nghe rõ, hấp tấp chạy lên cung đường trình bày cùng phân phủ. Tức thì có lệnh tháo cùm cho phạm nhân Đào Phùng và cho phép y được lên nhà trè xơi rượu.   Phân phủ thân đến mời Đào Phùng một chén đầy mà nói rằng:
- Nếu Đào quân cung khai bốn điều ấy thì không những được uống rượu mãi mãi, mà còn được cất nhắc lên làm quan nữa kia. Bốn điều ấy bản chức ôn lại để Đào quân nhớ cho. Là:  Ai giết Nguyễn Kha? Lê hoàng phi hiện trốn ở đâu? Phạm Thái hiện ẩn ở đâu? Nơi sào huyệt của bọn Phạm Thái ở đâu?
- Dạ, đại nhân để tôi uống rượu đã.
- Được, xin mời Đào quân uống cho thỏa thích. Hết, xin lại gọi thêm.

Hơn một giờ sau nghe tiếng ngâm thơ sang sảng ở nhà trên, phân phủ liền đi xuống, vui vẻ hỏi:
- Đào quân sơi rượu rồi?
- Bẩm đã. Đa tạ đại nhân thết đãi một tên tù quá hậu.... Ước gì bữa nào đại nhân cũng cho ăn uống no say như thế.

Phân phủ cười hả hả:
- Cái đó tùy ngài cả. Cung khai sự thực xong thì muốn gì mà bản chức chẳng tâu lên thiên tử ban cho.
- Cung khai thì cố nhiên là tôi cung khai, nhưng thưa đại nhân, tôi có một tính rất xấu:  cơm rượu xong cứ phải tiêu khiển một ván cờ, hoặc một hội tổ tôm. Giá đại nhân chuẩn cho sự nguyện vọng ấy thì tôi xin thú nhận hết các tội.

Phân phủ ngẫm nghĩ. "Hay thằng này lại giở quẻ đây? .... Được ngươi cứ gan.... Ta đến phải cho ngươi nếm mùi võng thịt mới xong!"
Đào Phùng cũng nghĩ thầm:  "Thú nhận? Rồi mày biết tay tao thử cung khai chính mày là thủ phạm, vợ mày là đồng đãng xem mày còn giở ra thứ hình phạt gì có thể dã man hơn được nữa?"
- Đào quân nói gì tôi quên bẵng mất.... Đào quân miễn chấp. Tôi đãng trí lắm.
- Dạ tôi đâu dám. Vừa rồi tôi xin đại nhân cho phép tôi hầu đại nhân một ván cờ hay một hội tổ tôm.

Phân phủ mỉm một nụ cười ghê gớm:
- Bản chức cờ còn thấp lắm, địch sao lại Đào quân lắm mưu nhiều trí. Còn như tổ tôm thì không đủ quân. Vả, thiết tưởng hai cách tiêu khiển ấy nhu nhược lắm, buồn tẻ lắm. Tôi xin hiến Đào quân một cách tiêu khiển khác hùng tráng mà cảm động hơn nhiều...

Liền gọi viên đội trưởng mà bảo thầm mấy câu. Lát sau, mấy tên lính dẫn đến trước mật hai người một tội nhân cổ mang gông nặng, tay bị trói quặt về sau lưng.
Phân phủ trỏ tên tù, nói với Đào Phùng:
- Đây là một thằng tướng cướp rất lợi hại ở vùng này.  Qquan phân suất vừa bắt được tối hôm qua. Tôi sai nó làm trò để Đào quân coi cho đỡ buồn nhé!
Rồi quay hỏi tên kia:
- Mày đã thú nhận chưa?
Tên cướp vờ khóc:
- Bẩm ông lớn, ông lớn thương con phận nào con được nhờ phận ấy. Quả thực con là người lương thiện.
Phân phủ quát tháo:
- Lương thiện à? Đốt nhà giết người, lấy của mà là lương thiện thì thế nào mới là tàn ác hở tên....

Một dịp cười làm cho phân phủ ngừng bặt:
- Cái gì mà Đào quân cười dữ dội thế?
- Thưa đại nhân, tôi nghĩ đến bọn giết người lấy của mà vẫn tưởng mình là lương thiện, thì tôi tức cười đến chết.
Chàng lại cười. Phân phủ cố nén giận, nghọt ngào bảo chàng:
- Đấy ngài coi, thằng tướng cướp này giết biết bao nhiêu lương dân mà dám tự cho mình là lương thiện thì còn trời đất nào nữa? .... Nhưng tôi đã có cách trừng trị nhân tiện hiến ngài một cuộc vui hiếm có.
Rồi bảo tên cướp:
- Mày không xưng, quả thực mày không xưng?
- Bẩm ông lớn, con biết điều gì mà xưng?
- Lính đâu?
Tiếng dạ ran. Mấy người lính chạy lại.
- Sắp sửa khí cụ hình phạt để làm võng thịt hầu Đào quân coi.

Tức thì kẻ đi lấy thừng, lấy giây đàn, kẻ bê đá, bê gạch đến, rồi dùng giây đàn buộc hai ngón tay cái hai ngón chân cái tên tướng cướp lại với nhau. Trong khi ấy, một người lính khác đã leo lên cây bàng mắc vào một cành hai đoạn giây thừng lớn. Xong, họ buộc hai đầu thừng vào đầu ngón chân và ngón tay người bị trừng phạt mà kéo lên cao, trông như cái cõng vậy:  "Võng thịt".

Tên tướng cướp đã gan, cố cắn răng không kêu khóc. Nhưng khi người ta lạnh lùng đặt một phiến đá lên bụng hắn mà đưa người hắn như đưa võng thì hét lớn lên một tiếng:  "Ố!"
Đào Phùng lại cất tiếng cười the thé.
- Ngài cười gì vậy?
- Tôi cười để khen ngợi đại nhân đó mà thôi, xin đại nhân đừng vội giận. Cách xử án của đại nhân khiến tôi nhớ tới một người hiền đời xưa.

Phân phủ, trong lòng căm tức nhưng vờ vui tươi hỏi:
- Người hiền ấy là ai thế?
- Người ấy là Triệu Công. Ngày xưa Triệu Công xử án ở gốc cây bàng. Lòng công bằng của ngài đã khiến người ta phổ vào bản đàn câu hát:  "Tế thế cam đường, vật tiễn vật phạt...."  Ngày nay đại nhân cũng xử án ở một cành bàng. Cành bàng tuy có cao hơn gốc bàng nhưng cũng thế thôi.  "Được, lát nữa xin sẵn lòng treo anh lên một cành cao hơn." Phân phủ nghĩ vậy rồi hầm hầm truyền lính lật sắp tên tướng cướp xuống và đặt trên lưng hắn ta một phiến đá nặng hơn.

Giữa lúc ấy có tiếng hát ngoài cổng.
Phân phủ lắng tai nghe và bảo một tên lính:
- Đứa nào hát nghêu ngao thế? Mày ra xem....
Một lát, tên lính trở về nói:
- Bẩm ông lớn, đó là một bọn mãi võ, đi múa hát kiếm ăn. Chúng xin vào hầu ông lớn.
- Đuổi cổ nó ra!
Đào Phùng vội can thiệp:
- Sao đại nhân không cho phép chúng nó vào múa gươm để tôi được coi nhờ với .  Thưa đại nhân trong bọn biết đâu không có kẻ đại tài mà đại nhân có thể dùng làm thủ túc được!

Phân phủ gật gù:
- Cũng có lẽ.
Liền truyền lệnh gọi bọn kia vào. Tức thì bốn người nai nịt gọn gàng, mạnh mẽ dõng dạc bước tới. Người đi đầu là một tráng sĩ vào trạc ba mươi tuổi, hai người đi kèm hai bên ý chừng là em trai và em gái tráng sĩ, vì cùng một nét mặt rắn rỏi, xương xương với cặp mắt xếch ngược và trong sáng. Theo sau, một người gánh đôi hòm lớn, trông càng lực lưỡng hơn.
Cả bốn người kính cẩn dập đầu xuống sân làm lễ. Phân phủ hách dịch hỏi:
- Chúng mày biết làm những trò gì?

Một tiếng "Ái!" rất lớn trả lời lại, đó là tiếng kêu của tội nhân bị treo trên cành bàng. Phân phủ quát:
- Hãy cho phép nó nằm yên đấy:  Đừng đặt đá lên lưng nó vội, để ta coi mấy đứa này làm trò cùng múa võ đã.
Rồi quay về bọn mãi võ:
- Tao hỏi:  chúng mày biết làm những trò gì?
Người trùm lễ phép thưa:
- Kính bẩm đại nhân chúng tôi biết đủ các món võ, biết làm, biết hát những bài ca múa gươm.
- Vừa múa gươm vừa hát có được không?
- Bẩm được lắm chứ.
- Vậy múa hát ta coi thử nào?

Chàng liền vừa múa vừa ca rằng:
Ta, tráng sĩ hề
gặp thời loạn lạc
như cá gặp nước
hề! ta vẫy vùng
bỏ bút nghiên hề
toàn đồ vô dụng
một ngựa một gươm
hề! một cây cung
với lòng dõng cảm
hề! với chí lớn
ta xông xáo hề
trong đám mông lung
chiếc chiến bào của ta hề đẫm máu
bên tai ta hề! súng nổ đì đùng
ta tráng sĩ hề
vào trong trận địa.
như cá trong nước hề ta vẫy vùng!

Đào Phùng vỗ đùi khen ngợi:
- Hay! Hay lấm!

Lần lượt bốn ngưòi kế tiếp nhau múa gươm, múa dáo, múa đại đao. Sau hết, người trùm xin chia ra làm hai cánh, giả đánh nhau để hiến phân phủ một cuộc vui hiếm có. Đào Phùng lấy làm thích chí, cười nói:
- Ồ, thế thì đẹp lắm nhỉ.! Giá đại nhân cũng cho phép tôi múa may với họ thì vui biết chừng nào!

Phân phủ chưa kịp trả lời thì bốn người mại võ đã kẻ đao, kiếm, kể dáo, kích đánh nhau loạn xạ. Bỗng huych một tiếng, giây thừng treo tội nhân đã đứt và nhanh như cắt, một người đã cổi trói cho va, trong khi ba người sấn vào đâm chém phân phủ.  Lính tráng hoảng hồn vớ lấy ghế giơ lên đỡ.  Nhưng bọn kia cũng chỉ đánh dọa để mở đường mà thôi. Vụt một cái cả năm người đã ra khỏi cổng chạy miết.

Nhân lúc phân phủ và binh lính chạy hỗn loạn và kêu la ầm ĩ, Đào Phùng lẻn được ra cổng, trốn thoát.
Hồi 12
Tờ Phả Khuyến

Trên con đường nhỏ chạy ven đê sông Cầu rẽ vào làng Vĩnh Thế, người ta thấy một nhà sư trẻ tuổi, thân thể tráng kiện tay chống gậy trúc, vừa đi vừa lâm râm niệm Phật. Một chú tiểu vạm vỡ như nhà sư gánh một đôi thúng theo sau. Một bên thúng có một cái tay nải nâu, và ở bên kia có mấy quyển kinh và nhiều giấy tờ gói trong chiếc khăn nâu cũ. Nhà sư thông thuộc đường lối trong làng lắm, đi thẳng vào một xóm tới một toà nhà ngói, đứng ở cổng nói:
- Nam Mô A Di Đà Phật! Nghe tin ông bà đây hằng tâm hằng sản, sãi tôi đến xin ông bà mở lòng tu nhân tích đức, cúng vào việc sửa sang chùa chiền. Nguyên chùa Nghiêm xá. . .
Không để sư nói đút câu, chủ nhà quát lớn:
- Sư với mô gì!  Đem cho họ một đồng kẽm.  Một đồi kẽm thôi, rồi bảo họ đi ngay.

Nhà sư mỉm một nụ cười khinh bỉ và toan cất tiếng bá ngọ lại mấy câu. Nhưng giữa lúc ấy, ở trong nhà đi ra một thiếu nữ rất xinh tươi khiến nhà sư ngây người đứng ngắm, không rứt ra đi được.  Thiếu nữ dịu dàng bỏ vào thúng nhà sư dăm đồng tiền kẽm mà nói rằng:
- Mẹ tôi cúng xin sư ông nhận cho.
- Đa tạ thí chủ.

Rồi cất tiếng du dương trong trẻo nhịp nhàng vừa nhìn thiếu nữ vừa đọc bài sau này:
"Từng mảng rằng: Kẻ dựng phúc hẳn là gặp phúc, tên ghi muôn kiếp đá không mòn;
người tìm nhân âu lại đươc nhân, dấu để nghìn năm gương chẳng bụi.
Nếu cắm thẳng chiếc bóng theo vào lệch, cân nhắc hàng mây tóc nhận không sai.
Đức Phật ta:  chén nổi ân thiêng, tích hay phép nhiệm.
lá vuồm gấm thổi gió từ bể giác, doành mê nhẹ chở kẻ trầm luân,
bóng đèn hoa lồng mây tuệ ngàn thiêng, bể khổ sáng đưa người ám muội...

Trong nhà lại thét ra:
- Liên! Cho tiền người ta rồi bảo người ta ra, hát với xướng mãi!

Thiếu nữ có vẻ không bằng lòng đáp lại:
- Thưa mẹ, mẹ để sư ông đọc hết bải phả khuyến đã.
Nàng quay lại mỉm cười bảo nhà sư:
- Sư ông cứ đọc đi.

Sư ông cũng vui lòng chiều ý cô gái đẹp, lại cất tiếng ngâm nga đọc tiếp:
"Sãi tôi nay:  gặp thuở minh thời, sinh lầm nam tử.
võ dẹp loạn đã không hề thao lược, văn trị yên lại chẳng biết kinh luân.
Tiến thì quan nghe đường ấy khó nhằm, trong thế giới ba nghìn dư
há trời đất xanh xanh nào có phụ; đạt mà sư, xem đạo này cũng phải,
đường tu hành ba mươi sáu, với cỏ hoa hơn hớn cũng là vui.
Làm chi tham dục để nên lòng, luống chịu hên vưu cho lụy tiếng..."

Một tên người nhà vội chạy ra:
- Thôi nhà sư đi.
Rồi hắn chắp tay lễ phép nói với thiếu nữ:
- Bà lớn truyền cô vào ngay.
Thiếu nữ phụng phịu:
- Vào thì vào!
Ra đến đường, chú tiểu nói với nhà sư:
- Bạch thầy, nhà nó giàu có thế mà bủn sỉn quá đi mất!
Nhà sư làu nhàu chửi:
- Bá ngọ nó chứ! 
- Bá ngọ cả cái cô thiếu nữ đẹp ghê đệp gớm!
- A Di Đà Phật, chú chỉ nói bậy! Nhưng bá ngọ nó, giá nó ở vào vùng Nghiêm Xá, Phú Mẫn thì phải biết tay ta.
- Dạ bạch thầy, có thế. Nhưng biết đâu chẳng có ngày nó phải qua đò Kim Lũ.

Giữa lúc ấy, một người to lớn ở phía sau tiến lên, lấy tay gạt mạnh bên quang của chú tiểu ra mà đi khiến chú căm tức, đặt gánh xuống đường, thò tay vào bọc toan rút dao đuổi theo.  Nhưng nhà sư vội giữ lại thì thầm:
- Thôi, mặc kệ hắn, sinh sự với hắn làm gì?
Chú tiểu hằn học:
- Nhưng bá ngọ nó, nó khinh thầy trò mình ra mặt thế này thì chịu sao nổi.  Mà thầy ạ, biết đâu nó không nghe lỏm được câu chuyện của ta.
- Ờ, cũng có lý, vả thằng cha trông dáng bộ khả nghi lắm.

Thực vậy, người ấy rất có vẻ bí mật:  cái khăn nhiễu tam giang quấn rối sụp đến đôi lông mi rậm. Và tuy sang xuân, tiết trời ấm áp, mà chàng còn đội tùm hụp trên đầu chiếc khăn bịt lụa trắng che kín hẳn nửa mặt dưới, để hở ra hai con mắt thao láo.
- Có lẽ nó ốm, thầy ạ.
- Ốm mà lại đi nhanh như thế được?
Hai thầy trò còn đương bàn bạc chưa biết xử trí ra sao thì người kia đã đi khuất sau lũy tre thôn Vạn Đình. Nhà sư bảo chú tiểu:
- Cứ coi bộ hấp tấp vội vàng của hắn thì đổ rằng hắn đến Cổ Mể để sang đò.  Muốn đuổi kịp, ta phải rảo bước một chút.
- Bạch thầy, biết đâu hắn sang đò. Nhỡ hắn quay về Kinh Bắc thì sao?
- Nhưng hắn quay về trấn lỵ thì đã làm sao?
- Trò lo lắm thầy ạ. trò chỉ sợ nó đã nghe lỏm được câu chuyện mình bàn tán... ở vùng này ít lâu nay nhan nhản những thám tử của quan trấn thủ, chắc thầy chẳng lạ.

Phạm Thái - Vì nhà sư chính là Phạm Thái - giật mình nhớn nhác nhìn quanh.
Rồi quay lại bảo chú tiểu:
- Chú Quế, chú cứ đi thong thả nhé.
Dút lời chàng bước rất mau, hầu như chạy. Chú tiểu theo không kịp, đành để thầy đi trước.  Một lúc lâu, Phạm Thái trở lại nói:
- Không biết nó biến đằng nào mất. Chẳng thấy bón nó đâu nữa.
- Bạch thầy, thật là một mối hoạn cho thầy trò ta.
Phạm Thái đương lo lắng ngẫm nghĩ, cũng phải bật cười bảo tiểu Quế:
- Chứ nên cất kỹ cái kho "hán tự bá láp" của chú đi. Mối gì là mối hoạn....  Nhưng ta hãy vào hàng này ngồi nghỉ uống bát nước chè tươi đã, rồi muốn ra sao thì ra.

Hai thầy trò liền bước vào một cái quán bên đường ở đầu làng Ngọc Đôi. Ngày xưa đó là một bến đò sầm uất. Nhưng từ khi vua Quang Trung đắp lại con đường Bắch Thành qua Kinh Bắc đi thẳng lên Lạng Thương, Yên Thế, Lạng sơn, thì bến đò Ngọc Đôi đã thiên đến Cổ Mễ. Dần dần, người ta rỡ hết hàng quán để mang lại dựng ở bến dưới, và bến cũ chẳng bao lâu đã thành một nơi bỏ hoang, còn trơ trọi mỗi một cái quán nước bán bánh. Một bà lão già ở đó cùng với một đứa cháu gái nhỏ lên chín lên mười.
- A Di Đà Phật! Bạch sư ông vào sơi nước!
- A di đà phật!
- Trời đã xế chiều rồi, sư ông ý chừng đến chùa Cổ Mễ?
- Không đâu bà hàng ạ, sãi tôi đi khuyên giáo lấy tiền sửa chùa Nghiêm Xá.
- A Di Đà Phật! Vậy của ít, lòng nhiều, tôi xin cúng nhà chùa.

Vừa nói, bà lão vừa moi bọc lấy hai đồng kẽm bỏ vào thúng, khiến Phạm Thái cảm động đưa mắt nhìn chú tiểu:
- Phúc đức quá! Tôi xin cầu trời phật độ trì cho bà.
Bỗng chú tiểu giơ tay trỏ cái cửa sổ trông ra sông, lớn tiếng bảo Phạm Thái:
- Kìa! Thầy coi!

Phạm Thái giật mình, vì chàng cũng vừa nhác thấy người bí mật ban nãy một mình trên chiếc thuyền nan lênh đênh giữa giòng sông, nước chảy xiết. Chàng buông một tiếng thở dài như để trút hết lòng lo sợ băn khoăn.
- Thì ra, chú ạ, người ấy không về trấn lỵ.
Hai thầy trò vui mừng từ giả bà hàng ra đi. Khi đến bến đò Cổ Mễ gặp một bọn lính ở thành Bắc cũng vừa tới. Nhân dân thất kinh giãn cả ra khi thấy một người trong bọn binh, chừng là cai đứng lên một mô đất bên sông và lớn tiếng nói:
- Có lệnh quan truyền không cho một tên lái đò nào chở sang ngang trong đêm hôm nay. Phải để mai quan quân khám tín bài hành khách đã.
Phạm Thái đến gần người ấy và lễ phép hỏi:
- A Di Đà Phật! Thưa thầy có việc gì quan hệ mới xảy ra mà cấm ngặt thế?
Người cai bép sép trả lời:
- Nghe như vừa có tin ở phủ Từ Sơn báo bọn Đào Phùng phá ngục trốn thoát.

Phạm Thái sửng sốt ngả đầu chào quay đi.  Viên cai tưởng nhà sư sợ hãi, có biết đâu rằng chàng kinh ngạc vì vừa nhớ lại vừa nhận ra người bí mật kìa là Đào Phùng mà chàng đã gặp trong rừng Đình Bảng; Chàng quay lại bảo chú tiểu Quế:
- Thôi ta đi chẳng tối mất.
Phạm Thái hấp tấp như thế là vì trong bọc chàng có nhiều giấy quan trọng và chàng sợ bọn lính đòi khám.  Đi một quãng xa, chàng như không thể nhịn được nữa, ôm bụng cười rũ rượi.
Chú tiểu hỏi:
- Bạch thầy, có chuyện chi mà thầy cười gớm ghiếc vậy?
- Còn gì đáng cười cho bằng cách đề phòng của bọn bầy tôi Quang Toản.
- Đề phòng như thế thì có gì là đáng tức cười, bạch thầy?
- Lại còn không tức cười à? Việc quan trọng thế mà để tiết lộ sự bí mật? Đợi người ta sang sông rồi mới cấm thuyền. Làm hai điều vô lý ấy thì chỉ có bọn bầy tôi Quang Toản.
- Nhưng có ai sang sông cơ?
- Ai? Đào Phùng chớ còn ai nữa! Cái người mà thầy trò ta ngờ oan là thám tử, chính là Đào Phùng đó.
- Sao thầy biết?
Phạm Thái ngần ngừ đáp:
- Đoán!  Nhưng việc của ta, ta hãy nghĩ đến đã. Bây giờ phải đi mau tới thành Kinh Bắc.
- Đến nơi chắc cổng thành đã đóng rồi.
- Thì ta vào chùa Yên Xá.

Quả thực khi đến Kinh Bắc cầu treo đã kéo, và cổng thành đã đóng. Hai thầy trò Phạm Thái liền tìm vào chùa Yên Xá trú ngụ.  Nửa đêm chú tiểu chợt thức giấc, không thấy sư ông nằm ở giường trên. Chú đoán chừng thầy ra sau, nên chú lại ngủ ngay.  sáng hôm sau, chú mở choàng mắt nhìn lên giường:  sư ông vẫn còn ngũ, mà coi như ngủ say lắm. Yên lặng sắp sữa hành lý đễ chờ thầy dậy.
Bỗng chú kêu rú lên một tiếng, khiến Phạm Thái tỉnh giấc hỏi:
- Cái gì thế, chú?
- Bạch sư ông, đâu mất bọc giấy?
- Giấy gì?
- Bạch thầy, giấy gói trong cái khăn nâu, mà thầy bảo là những bài phả khuyến đem đi phát để quyên tiền.
Phạm Thái mỉm cười:
- Mất thì thôi.

Sau khi cùng sư ông chùa Yên Xá uống thiền trà, Phạm Thái cáo từ ra đi.  Vừa vào trong thành, chàng đã nghe thấy lời đồn huyên náo:  "Tối hôm trước có người đến dán giấy ở các cổng thành xúi giục nhân dân nổi loạn để đánh đổ nhà Tây Sơn và phò nhà Lê lên ngôi trời. Giấy ấy hiện đã bóc nộp quan trấn thủ. Nhưng ở trong thành còn nhiều người nhặt được cũng tờ giấy như thế mà không biết ai bắn từ đâu tới vì tờ nào cũng quấn vào một cái tên."
Phạm Thái hỏi một người đàn bà:
- Có thể xem được không bà?
Người kia vênh mặt bỉu môi, nhiếc nhà sư:
- Xem? Có mà mất đầu? Ai dám chứa cái của nợ ấy ở trong nhà mà xem được?
Hai thầy trò Phạm Thái ung dung đến một hàng cơm quen thuộc ở phố Tiền Môn. Chủ quán đon đả ra cửa mời chào: 
- A Di Đà Phật! Đã lâu lắm mới thấy sư ông Phổ Chiêu đến hàng. Mời sư ông vào nhà trong cho tĩnh.

Vốn biết sư ông thích rượu nhắm thịt gà nướng chả, chủ quán sợ để ngài ngôì ngoài hàng, ngài ngượng không dám gọi những món "thiền giới" ấy, nên có nhã ý mời ngài vào một phòng vắng để ngài được tự tiện muốn dùng thứ gì thì dùng, dầu "cẩu nhục" đi nữa không sao.
Phạm Thái vừa nhắp cạn chén trà mạn tống khẩu thì ở ngoài hàng có tiếng nguyền rủa ôm xòm. Chàng tò mò ra xem: 

Một công tử cầm tờ giấy đầu chữ in bảo chủ quán:
- Ta đến trước cửa hàng nhà ngươi bắt được mảnh giấy ghê gớm này.
Phạm Thái đến gần thì vừa gặp chú tiểu tỏ vẻ kinh ngạc đưa mắt nhìn chàng.
Chàng cũng quắc mắt nhìn lại, rồi ôn tồn hỏi người vừa vào:
- Tờ giấy gì thế? Công tử đọc cho tôi nghe với.
- Một tờ giấy chữ nôm, nhà sư ạ. Chẳng biết đứa nào hỗn xược dám viết, dám in những câu phạm thượng thế này.

Rồi chàng lẩm nhẫm đọc:  "Từ khi đức Thái tổ nhà Lê ta khởi nghĩa ở Lam sơn đánh đuổi quân Minh mà lấy lại giang sơn gấm vóc tới nay, trải có hai mươi bốn đời vua, gần bốn trăm năm dựng nghiệp đế, thừa lệnh trời trị nhân dân trăm họ. Tuy trong khoảng vài chục năm, cha con họ Mạc manh tâm phản phúc thoán đoạt ngôi rồng nhưng lẽ trời riết ráo kẻ thoán nghịch tránh sao cho khỏi thoát sa vào.
"Nay anh em cha con Tây sơn ngu độn, bạo ngược, chẳng hiểu lẽ mệnh trời, chẳng nghĩ tới nghĩa vua tôi, dám dấy quân phản loạn để đến nỗi Hoàng Đế phải phiêu lưu đất khách gần mười năm nay. Than ôi, vua bị nhục, bầy tôi phải chết! Nay vua ta bị nhục mà ta nỡ sống an nhàn đươc ru?
"Hỡi anh em, ta phải tỏ cho quân Tây Sơn biết rằng đất Bắc chẳng thiếu anh hùng, nghĩa sĩ. Anh em hẳn còn nhớ câu nói ngạo mạn, khinh thị của Nguyễn Huệ khi hắn mới tới Thăng Long. Hắn nói rằng:  Ngoài Bắc Hà chỉ có mỗi một thằng Chỉnh, nay đã theo hầu tao rồi. Còn thì toàn một giống giẽ giun, cầy sấy."  Anh em đã nghe rõ chưa?  Vậy nào những ai là bầy tôi trung nhà Lê - mà ai lại không là bầy tôi trung nhà Lê, vì ông cha chúng ta đều đời đời ăn lộc nhà Lê, hãy đêm ngày lo toan việc khởi nghĩa phục thù cho nhà Lê đi!  Bọn chúng tôi hợp tập được một đảng có mấy vạn người tản mát khắp các nơi, chỉ chờ anh em trong nước tiếp ứng là khởi sự đó thôi.
Ký tên :
"Những tôi trung của nhà Đại Lê Niên hiệu Chiêu Thống thứ mười hai."

Nghe đọc xong tờ hịch Phạm Thái nói:
- A Di Đà Phật! Lời lẽ mạnh quá!
- Nhưng ta phải mang tờ giấy này lên trình quan trấn thủ mới được.
Dút lời, chàng hấp tấp đứng dậy đi thẳng.
Chàng công tử vừa ra khỏi thì một bọn quan võ đến hàng thét bảo chủ quán làm rượu.
Phạm Thái nghe một người nói:
- Đã biết mà! Nó chưa đi thoát vùng này mà!
- Ngài nói Đào Phùng?
- Chứ còn ai? Gớm thật? Vừa trốn ở ngục ra đã táo tợn dám đi rải hịch xúi dân làm loạn được rồi.
Một người hỏi:
- Những tờ hịch chữ in. Vậy nó khắc, nó in sao chóng thế được?
Một người khác, giọng bí mật:
-Ồ phải biết, đảng nó to lắm!

Phạm Thái mỉm cười, quay vào nhà trong uống rượu.

HOMECHAT
1 | 1 | 166
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com