Gió dữ hù hù như thịnh nộ giữ khung trời tuyết lạnh băng băng... Cả một khảng trời đất trầm trầm, quang cảnh nặng nề mang nặng tính sơ khai hoang dã... Giữ cảnh im lặng gần như cõi chết ấy vụt nghe vó ngựa rộn lên, một con kiện mã bốn vó bay trên tuyết trắng hướng về phía Bảo Đinh Thành. Một ngôi nhà đồ sộ sừng sững dựa bên đường, hai cánh cửa đen chết một màu khép vào nhau im ỉm, bên trên cắm xiên xiên một lá cờ nền đen thêu một con sư tử màu đỏ xậm. Lá cờ phần phật trong gió lạnh và người cỡi con kiện mã dừng lại ngay nơi ấy. Gió thổi tung chiếc áo choàng, người trên yên nhún mình nhảy xuống ngựa nắm tay đã nện thình thình vào cánh cửa: - Sư đại huynh! Bên trong có tiếng quát: - Ai? Cánh cửa nặng nề cùng với tiếng quát mở tung... Một người mặc áo hồ cầu, da mặt đỏ gay vừa xô cửa bước ra, thoáng thấy kẻ mới tới vụt kêu lên bằng một giọng vui mừng: - Đàm tam ca, sao lại đến đột ngột như thế? Mời vào, hãy dùng chén rượu mới cho ấm! Giọng nói có vẻ mừng, nhưng vẻ mặt không thể che giấu được phần lo ngại. Đàm Tú Phong, tên người khách vừa mới tụt khỏi lưng tuấn mã nhìn họ Sư cất giọng trầm trầm: - Sư đại huynh có nhận được cánh thiếp tử thần? Người họ Sư thoáng rùng mình, ông ta khẽ ngẩng mặt lên nhìn trời vẫn nặng trịch một màu sương xám ngắt. Đàm Tú Phong cau mặt: - Ở đây mặc dù không trăng nhưng hôm nay đúng là bữa trăng tròn, đúng là giờ phút xuất hiện hoành hành của Tử Thần Thiếp và Tình Nhân Tiễn, nếu nơi của Sư đại huynh không có gì biến động thì đệ sẽ suốt đêm đến Vọng Đô Thành! Đôi mày rậm của người họ Sư cau lại: - Nơi của Tử Thần Thiếp xuất hiện và biến đi không một ai có thể đoán được, cho nên việc Đàm tam ca bôn ba đây đó như thế e rằng đã không có lợi, mà còn có thể còn có hại nữa là khác. Đàm Tú Phong thở dài: - Từ lúc Tam Trương Đại Hiệp Sài Bình chết bởi Tình Nhân Tiễn, bốn anh em chúng ta đã phát thệ sẽ tự thân điều tra cho rõ điều bí mật đó, nhưng mãi cho đến nay sự thành công xem có vẻ mịt mờ. Người họ Sư cúi đầu có vẻ buồn bã... Đàm Tú Phong vòng tay nói bằng một giọng trầm trầm: - Sư đại huynh bảo trọng, đệ xin cáo từ! Người họ Sư nhổm mình: - Khoan, Đàm tam cạ.. Nhưng vó ngựa đã rộn lên..... Người họ Sư lại cúi mặt thở dài sườn sượt... Tuyết vẫn mù mù rơi đổ, bóng con tuấn mã vẫn lao vút như tên. Đêm đổ về sâu, bên ngoài Vọng Đô Thành ngàn cây trơ trụi lá, cảnh vật tiêu sơ hoang vắng lạnh lùng... Xa xa, từ trong khu thành như một thung lũng chơ vơ nằm giữa biển tuyết mênh mông và mãi suốt vào sâu hơn nữa, một trang trại bóng đèn heo hắt chập chờn... Khuôn mặt Đàm Tú Phong như nở một nụ cười. Nhất Kiếm Trấn Bắc Hà hào khí vẫn không hề thay đổi, ánh đèn còn chói rạng chứng tỏ đêm về khuya mà yến tiệc đàn ca vẫn hãy chưa tan... Đàm Tú Phong nhảy mau xuống ngựa, xung xắn đi vào đưa tay vỗ cửa, nhưng cánh cửa chỉ khép hờ... Họ Đàm hơi khựng lại, gọi to: - Trương huynh, tiểu đệ Đàm Tú Phong đến viếng anh đây. Tiếng gọi của Đàm Tú Phong lan vào đại sảnh, vọng tuốt ra hậu đường, nhưng không một tiếng trả lời... Họ Đàm rúng động lao thẳng vào trong. Trang viện mênh mông, nơi nào cũng đèn đuốc sáng choang, tuyệt nhiên không có lấy một bóng người. Đàm Tú Phong nghiến răng xô cửa vào phòng đọc sách... À, có thế chứ... Một lão già mặc áo gấm đang ngồi dựa trên chiếc ghế bành. Đúng là Nhất Kiếm Trấn Bắc Hà, nhưng nơi đại sảnh mênh mông không một bóng người vẫn còn ít tịch mịch hơn là đơn độc ngồi trong phòng đọc sách giữa đêm khuya với ngọn đèn heo hắt... Một luồng gió nhẹ thoáng qua, chòm râu của lão già áo gấm phất phơ lay động, nhưng lão vẫn ngồi yên. Đàm Tú Phong buột miệng kêu lên: - Trương đại ca... Ánh mắt của họ Đàm dường như đứng lại, ngay giữa ngực của lão già áo gấm, hai mũi tên ngắn, một đen một đỏ cắm lút thật sâu! - Tình Nhân Tiễn! Đàm Tú Phong hớt hãi kêu lên, hắn nhìn thẳng vào mặt lão già, một giương mặt chưa hết nét hãi hùng, chứng tỏ trước khi chết đã nhìn thấy điều khủng khiếp... Họ Đàm chợt nghẹn ngào: - Trương huynh, tiểu đệ đến chậm mất rồi... - Chưa, chưa phải là chậm đâu! Một giọng cười lạnh lẽo cùng với tiếng nói âm trầm phát ra nghe như sát ở phía sau lưng. Đàm Tú Phong giật mình quay phắt lại... Ngay lúc đó, một tờ giấy màu đỏ chói theo gió phất phơ bay tới. Đàm Tú Phong vung tay chụp lấy... Một tấm thiếp có màu đỏ như máu, bên trên không có chữ, chỉ vẽ hình một chiếc đầu lâu. Nền giấy đỏ chói, đầu lâu vẽ bằng mực đen, nơi hai trũng mắt của đầu lâu tô màu xanh biếc như chất lân tinh rờn rợn! Đàm Tú Phong phát rùng mình, từ phía sau lại một giọng cười sắc lạnh nổi lên. Họ Đàm nghiến răng quay lại. Lãng đãng xa gần, hai tròng con mắt xanh biếc, thứ cặp mắt một màu rờn rợn trong chiếc đầu lâu đang nhìn vào mặt hắn trừng trừng. Đàm Tú Phong thét lên một tiếng đâm sầm lao tới. Nhưng không còn kịp nữa, hai mũi tên một đen như đôi mắt của tình nhân, một đỏ như giòng máu tình nhân đang chảy, cắm phập vào ngay giữa ngực của Đàm Tú Phong, cắm đúng vào giữa con tim của hắn.
* * *
Mặt trời đã ngã về tây, ráng chiều ửng nhiều màu phủ lên rực rỡ ngôi chùa Thanh Hải Tháp. Trên một khoảng đất bằng chếch về hướng Đông Nam, căn rạp to rộng được giăng lên: Lạt Ma Giáo sửa soạn cho ngày đại lễ. Thiện nam tín nữ vầy vầy hành lễ dâng hương. Trên tấm thảm màu hồng, nhiều chiếc bàn được xếp dài, mười vị lạt ma áo vàng ngồi giăng hàng chữ nhất. Áo vàng, thảm đỏ phản chiếu nhau rực rở lunh linh. Trong đám người y phục chỉnh tề sang trọng dâng hương, bên cạnh những vị cao tăng áo vàng chói lọi, một lão già mặc chiếc áo choàng màu tía cũ xì đứng lẫn trong sân, thoáng nhìn qua y như là một cành cỏ dại giữa đám hoa trăm sắc. Ông ta chấp tay sau lưng, trầm ngâm như người đi ngoạn cảnh và không một ai chú ý, nhưng nếu có người quen mặt tất phải e dè khi thấy lão già áo tía: người thứ hai trong nhóm “Nhân Nghĩa Tứ Hiệp Ngụy Tử Vân”. Cố nhiên, nơi tái ngoại như thế nầy, hẳn không một ai quen biết, nhưng: - Có phải Ngụy nhị ca đó không cà? Ngụy Tử Vân giật mình quay lại. Một lão già đội nón bàng xơ xác vẹt người bước tới, toét miệng cười. Vẻ vui mừng lộ ra ngoài mặt, Ngụy Tử Vân bước lại nắm tay: - Ma Quan lão huynh, sao anh cũng có mặt ở nơi đây? Đúng là một lão già đã lừng danh vùng biên giới, không nghe ai nói đến tôn chỉ, chỉ thấy thường đội nón bàng bện vành bằng giây cỏ chì, cho nên thiên hạ đều gọi lão là “Ma Quan”. Ông ta vuốt râu cười hềnh hệch: - Tiểu đệ định vào Trung Nguyên, ngang qua đây phát giác được chút dấu vết của nhị ca, nên tạm thời dừng bước vấn an. Ngụy Tử Vân cười: - Nghe Lạt Ma Giáo sắp bày đại lễ và đã có nghe các vị Lạt Ma cao tăng ẩn tàng tuyệt kỹ, nên định ghé qua coi cho biết. Giọng nói của họ Ngụy vụt thất hẳn xuống: - Tôi cũng muốn dò xem cái bệnh dịch Tình Nhân Tiễn và Tử Thần Thiếp đã có lan đến đây chưa? Ma Quan lão nhân hơi đổi sắc: - Đệ tuy ở biên cương, nhưng bằng vào cửa miệng của các bạn giang hồ, nên có biết qua về chuyện ấy một cách mập mờ... nhưng cứ theo lời của nhị ca, thì vấn đề có thật thế sao? Ngụy Tử Vân khẽ thở ra: - Trong đời đệ, chưa bao giờ nghe nói loại ám khí nào nguy hiểm như Tình Nhân Tiễn, mới không đầy nửa năm mà đã có không biết bao nhiêu bằng hữu, không biết bao nhiên bậc thành danh võ lâm phải táng thân vì nó, và cho đến bây giờ, cũng chưa một ai khám phá ra lai lịch của nó cả. Ma Quan lão nhân cau mày: - Chỉ bằng vào hai mũi tên ngăn ngắn như thế ấy mà làm cho thiên hạ xáo trộn đến thế sao? Chẳng lẽ chất độc trên đầu mũi tên ấy lại không một ai giải nổi? Và cho dù ám khí lợi hại đến đâu, đối với những bậc võ công thâm hậu lại làm sao không thể tránh đở gì được cả? Ngụy Tử Vân có vẻ buồn buồn: - Nội một chuyện đó cũng đã làm cho đệ mất ăn mất ngủ, ngay bây giờ, luận về ám khí và độc dược thì đâu có ai qua anh em họ Đường nơi đất Thục. Thế mà ba tháng trước đây, họ lại chết cả bởi Tình Nhân Tiễn, thì đủ biết nó lợi hại đến mức độ nào... Khắp trong thiên hạ hiện nay, chỉ có mỗi một người có thể giải được, nhưng khi nào Tình Nhân Tiễn không đúng ngay tim, và phải đừng quá ba tiếng đồng hồ thì mới có hy vọng còn sống sót. Khốn nổi, Tình Nhân Tiễn xuất hiện quá lạ lùng, chiều nay ở phía tây, tối nay lại ở phía đông, không thể làm sao mang đi cho kịp thời cứu chữa, mãi cho đến nay thì hình như chỉ cứu được năm ba người gì đó thôi... Cả hai cùng im lặng thở ra, họ cùng cảm nghe tâm sụ trầm trầm... Bóng chiều đã khuất sau rặng núi xa xa, hoàng hôn nhuộm sẩm rừng cây, cả vầng trăng tròn vành vạnh đã hiện rõ trên nền trời cao vút. Điển lễ của Lạt Ma Giáo đã phụng trình quá nửa, bây giờ đến phần ác quỷ hiến đầu lâu, một trong những vũ khúc tế thần, tập tục cổ truyền của Giáo Hội Lạt Ma. Bốn người đội lốt ác quỷ trên tay nâng một chiếc mâm cây có chiếc đầu lâu bằng bột nắn. Họ vừa múa vừa tiến về phía các vị cao tăng. Ánh đuốc bập bùng lóe lên một lượt. Tiếng nhạc đang trầm trầm vụt chuyển âm rộn rã, chiếc đầu lâu trên tay ác quỷ quay quay... Thình lình, hỏm mắt của chiếc đầu lâu chợp chớp lóe xanh dờn. Ngụy Tử Vân rúng động chồm lên, từ trong mâm đựng chiếc đầu lâu, một cánh thiếp màu hồng chói lọi! Ngụy Tử Vân hét lên một tiếng, nhún mình vọt qua đầu người, nhảy thốc lên trên, nhưng... Đã muộn rồi, giữa ngực của mười vị Lạt Ma áo vàng đều cắm một cặp Tình Nhân Tiễn! Đám vũ công giả thần giả quỷ chạy bò tán loạn... Nhìn chầm chập vào một trong những vũ công “Ác Quỷ”, Ngụy Tử Vân vụt lao mình tới: - Chạy đi đâu? Ma Quan lão nhân chỉ kịp thấy cánh ta của Ngụy Tử Vân vừa giáng xuống chưa tới đầu “Ác Quỷ” thì thân hình họ Ngụy đã bật ngửa ra sau. Hai mũi tên, một đỏ một đen cắm ngay giữa ngực lão!
* * *
Khí lạnh chiều xuân đổ xuống dòng sông Sơ Lặc, một dòng sông nhỏ hẹp quanh co khúc khuỷu dọc giãi Nam Cương. Trên bờ sông, cạnh đồng cỏ xanh rì, hai con kiện mã đang thong dong gặm cỏ, tuốt về trái xa xa, rặng cây đen thẩm, Cổ Thành Trảo Châu sừng sững uy nghi. Dựa bên hai con tuấn mã lưng trần, hai người trung niên ánh mắt ngời ngời, họ ngồi nhìn dòng sông im lìm lặng lẽ... Hình như mỗi người đều mang một tâm sự trầm trầm... Thật lâu, người bên trái mới ngẩng đầu lên nói: - Tình Nhân Tiễn có lẽ kẻ đó cũng mang một tâm địa cực kỳ hiểm ác! Người bên phải gật gù: - Đúng vào đêm trăng tròn rạng rỡ, lại đúng vào ngày mà cặp tên “oan ương” xuất hiện trong nhân gian, độc tính của nó là một âm một dương, và người bị trúng luôn luôn là ngay giữa tim chứ ít khi sai chệch! Người bên trái đứng đậy, giượng cười: - Cho dù thế nào, ta cũng không muốn cho tim mình phải mang thương. Hồ tứ đệ tốt hơn hết tứ đệ nên theo ta trở vào Trảo Châu nghỉ một đêm rồi sáng sớm quay về Giang Nam là ổn nhất. Người bên phải mỉm cười: - Triều Dương huynh, anh vẫn còn gọi tôi là Tứ Đệ, nghĩa là anh chưa quên. Nhân Nghĩa Tứ Hiệp và anh cũng biết Hồ Thiên Lân này đã nói là phải làm. Về đi, anh hãy về Trảo Châu mà nghỉ, dù thế nào cũng phải tới Đôn Hoàng một chuyến, đệ phải nhìn cho tận nét thu ba của Tình Nhân nào đó xem sao... Và như tự nãy giờ tâm sự bằng cách yên lặng quá lâu, Hồ Thiên Lân xách yên quăng lên mình ngựa và tung mình thúc chân cho ngựa phi nước đại, sau khi ném về phía người họ Triều Dương một nụ cười giã biệt... Càng xa khu vục Trảo Châu, phong cảnh càng tiêu sơ hoang vắng, tuy là đại lộ dẫn đến Đôn Hoàng, nhưng con đường thật vắng vẻ đìu hiu. Vó ngựa cuốn từng đụn bụi vàng dại theo chiều gió, Hồ Thiên Lân chợt lòng cảm khái vô biên, hắn thúc mạnh đôi chân, con tuấn mã lướt nhanh như gió... Thôn xóm tuy rải rác lưa thưa, nhưng vẫn làm ấm áp được kẻ lữ hành khi họ phải trải qua một vùng sa mạc mênh mông nóng đốt. Hồ Thiên Lân bắt đầu cho ngựa chậm lại khi tới Nhất Thôn Hoàn, nơi đây nước tuy không ngọt, nhưng nó là vật hiếm có ở biên thùy sa mạc, nên vẫn được người đặt cho một cái tên thật ngọt là Điểm Thủy Tĩnh. Bất cứ ai, dù cho đó là một người lạc nẻo, vẫn coi Nhất Nhân Thôn là nơi quen thuộc thân yêu. Chỉ có nơi đó mới có nước giữa vùng khô cháy, mới có thấp thoáng ánh đèn giữa biên giới mông lung... Hồ Thiên Lân thở phào, hắn trút tất cả mệt nhọc nặng nề lại cho vùng cát bỏng. Hắn dừng ngựa lại, đưa mắt nhìn thôn xóm đìu hiu, nhưng ánh sáng đèn mờ hiện rõ vẻ hiền hòa êm dịu... Họ Hồ cho ngựa chậm rãi về phía trước, nơi có mấy cỗ xe thấp thoáng hiệu Tỳ Tiêu cuộc, hắn chuẩn bị đôi lời thân thiết tự nhiên của đồng bạn lữ hành sa mạc gặp nhau. Nhưng Hồ Thiên Lân giật nẩy mình, chung quanh mấy cổ xe, xác chết ngổn ngang, ánh đèn mà xa xa thấy dịu hiền ban nãy, bây giờ bỗng trở thành như đèn ma lửa quỷ! Bước nhẹ từ xác nầy qua xác nọ, cho dù gan góc, Hồ Thiên Lân vẫn thấy rờn rợn trước nét nhăn nhúm trên da mặt người chết, như để cho kẻ sống biết chuyện hãi hùng... Họ Hồ dừng lại trước xác một lão già và buộc miệng kêu lên: - Tây Bắc Khoái Đao Tống Hải Bình! A... võ lâm lại bị yếu thêm một lần nữa! Đôi mắt họ Hồ vụt sững lại dưới chân lão già bất hạnh: màu đỏ chói của cánh thiếp Tử Thần! Hồ Thiên Lân rúng động lui ra sau hai bước, và như đã sẵn đề phòng, hắn ngã nghiêng người lộn luôn mấy bận. Lộn một vòng đầu, đúng là tư thế của người nhanh nhẹn đề phòng ám khí, nhưng bắt đầu vòng thứ hai trở đi lại là cái lăn lộn của người giãy chết vì hai mũi tên một đen một đỏ đã cắm phập vào giữa tim của người kỵ mã họ Hồ! Nếu có người tới sau, chắc cũng sẽ nói như họ Hồ vừa nói: võ lâm lại yếu thêm một lần nữa!
* * *
Mùa thu chưa qua nửa, không khí mát mẻ đang chan xuống ngọn cỏ đầu cây... Ngoại thành Hàng Châu, ngọn suốt Tây Khê, một con suối vừa hẹp vừa cong co bỗng trở nên rạng rỡ. Khí tiết tấu hòa gió mát, một con suối gần như khô cạn hoang tàn trong mùa hạ vùng từng bừng rộn rã lúc thu về, cỏ xanh mướt như nhung làm nền cho rừng trúc, rừng dâu ngan ngát, tiếng ca tiếng sáo đã dặt dìu của những cô gái nuôi tằm hái lá, của những chàng trai ngư phủ lênh đênh phơi lưới thong dong... Trên một chiếc thuyền con dưới tay chèo của gã đại hán lực lưỡng, phăng phăng rẽ nước, một gã thanh niên áo gấm đứng trước mũi thuyền, chùm tơ màu hồng buộc trên đốc kiếm phất phơ trong gió, vừa thanh nhã vừa uy nghi đối cảnh... Y như một thi nhân đang tìm tứ, gã thanh niên đăm đăm ánh mắt nhìn cảnh vật hữu tình và lắng nghe giọng dân ca thảnh thót nên thơ... Bên kia khúc ngoặc của giòng suối êm đềm, một giọng oanh vàng vút cao lên trong gió: Nước xanh xanh Nước lộng mây chiều Cát lượn mình Cát trắng phẳng phiu Thoi thóp nắng vàng vờn miệng suối Ngàn lao ẩn ức tiếng quyên kêu... ............ Nước xanh xanh Nước ửng dáng hồng Suối uốn mình Suối chạy về đông Mòn mỏi Đỗ Quyên lơ lái đợi Thuyền trôi khỏi bến, bến mêng mông... (thơ NG) Dư âm tiếng hát còn reo trong gió và kéo dài lên tận ngàn dâu, gã thanh niên đeo kiếm như nhà thơ tìm thấy hứng mỉm cười quay lại, một chiếc thuyền đánh cá cũng vừa trờ tới, chiếc thuyền xuất phát giọng ca. Một gã đại hán ngồi lái sau thuyền như hứng chí cất giọng ồ ồ: - Đ...ỗ...Quyên, cô h...á...t khúc...gì mà...mà...có t...ê...n...cô trong đó... đó vậy? Vỏn vẹn một câu có mấy tiếng mà gã nói một cách hết sức khó khăn, gã cà lăm lặp cặp mãi mà vẫn không trọn vẹn. Đầu mũi thuyền đánh cá, một cô gái có mái tóc đen ngời buông phủ bờ vai, nàng ngừng chèo quay lại nhoẻn miệng cười, một nụ cười như đóa hoa vừa hé nở: - Anh không biết khúc hát đó à? Khúc... Người thiếu nữ có tên Đỗ Quyên vùng nín bặt, khi bắt gặp tia mắt như sao băng của gã thanh niên đeo kiếm từ thuyền bên kia nhìn lại. Nàng e thẹn cúi đầu thật thấp và hai gò má mịn như quả đào non của nàng vụt ửng hồng... Lão ngư phủ gầy gầy khoác chiếc áo tơi đang ngồi vá lưới trong khoang ngẩng mặt nhìn con gái mỉm cười: - Đỗ Quyên, con thật là vỗ lễ, không thấy Triển công tử đấy sao? Da mặt càng ửng thêm lên, Đỗ Quyên cúi đầu thấp hơn chút nữa: - Kính chào Triển công tử ạ!