Thủ-Lý hỏi :
- Có phải thái sư bá của cô nương là Thiên-Hư đạo nhân không ?
Bảo-Bảo mở to mắt kinh ngạc :
- Thì ra người đã biết rồi ư ?
- Tại hạ đoán ra mà thôi.
Thủ-Lý giảng giải :
- Cô nương gọi ông là thái sư bá, thì ông ta là chưởng môn phái Hoa-sơn tức Trung-Nhạc Tung-Sơn tiền nhiệm của Ngô Giới. Mà chưởng môn tiền nhiệm Ngô Giới thì là Thiên-Hư đạo nhân. Ông ta sang Đại-Việt ngay từ những ngày đầu của triều đại Nam Tống để tìm bộ Vô Trung kinh. Ông ta thấy, nếu một mình phái Hoa-sơn mà muốn đoạt lại Vô Trung kinh thì e còn khó hơn bắc thang lên trời. Vì vậy ông mới nghiên cứu kế hoạch kéo triều Tống vào cùng làm. Bấy giờ là lúc thịnh thời của Ngô Giới, Ngô Lân, Hàn Thế-Trung, Lưu Kỳ, nên Khu-mật viện Tống chấp nhận liền. Anh em họ Ngô tuyển hai giai nhân tuổi còn nhỏ, rồi trao cho Vân-Đài, Công-Chúa thu làm đệ tử, còn Khu-mật viện thì dạy tiếng Việt, văn hóa Việt, rồi gửi sang cho Thiên-Hư...Thôi cô nương tiếp cho.
Thấy Bảo-Bảo khi thì gọi Thủ-Lý bằng người, xưng ta, khi thì gọi bằng đại ca xưng muội, thì Đoan-Nghi nghĩ thầm :
- Cô này say mê ông anh chồng mình rồi đây. Khu-mật viện Tống cài người thì hay thực, nhưng họ cài những thiếu nữ quá non nớt, thành ra thiếu bản lĩnh trong tình trường, rút cuộc kết quả bị đảo ngược. Cái nàng Công-Chúa khi xưa thì say mê ông bố chồng mình, Thúy-Thúy thì say mê Thủ-Huy. Còn nàng Bảo-Bảo thì cảm anh Thủ-Lý rồi.
Bảo-Bảo kể bằng giọng tha thiết :
- Bấy giờ sư phụ đã được trao cho đạo cô Mao-Nữ nuôi dạy, định sẽ gửi sang Đại-Việt. Thái-sư bá yêu cầu Khu-mật viện khẩn dạy sư phụ tiếng Chàm, cùng âm nhạc. Rồi đưa sang Chiêm giả làm công chúa nước này. Chiêm dâng sư phụ cho Đại-Định hoàng đế. Đúng ra với tài sắc của sư phụ, thì người có thể làm cho nhà vua say đắm, rồi chuyên quyền. Nhưng thái sư bá không cho, vì làm như vậy dễ bị lộ lắm, dẫu sao sư phụ cũng là công chúa Chiêm. Cho nên sư phụ luôn tỏ ra là một bà phi hiền hậu.
- Có phải tên thực của sư phụ cô nương là Hàn Dũ-Linh không ?
Bảo-Bảo kinh hoảng :
- Người...Người... Đại ca cái gì đại ca cũng biết cả rồi, thế mà đại ca còn hỏi.
Thủ-Lý cười :
- Có điều tại hạ biết, có điều không. Nhạc cô nương ơi ! Thế hai sư bá Vân-Đài, Công-Chúa của cô nương là ai ?
Bảo-Bảo quát lên :
- Ta không khai nữa !
Nàng bưng mặt khóc nức nở :
- Hu...hu.. Ta không khai nữa, ta muốn chết đi cho rảnh, vì người đã rạch mặt ta rồi. Trên mặt ta đã có thẹo hình con cua với con ếch, xấu chết đi được.
Thủ-Lý an ủi :
- Nếu như tại hạ có cách làm cho mặt cô nương hết thẹo, thì cô nương có khai tiếp không ?
Bảo-Bảo tươi nét mặt :
- Nếu như người...à đại ca có cách làm cho mặt muội không có thẹo, thì muội nguyện làm nô tỳ cho đại ca cả đời.
- Cô nương nhớ lấy nhé.
- Muội xin hứa.
Thủ-Lý móc trong bọc ra hộp cao, rồi dùng hai ngón tay móc lấy một cục, sau đó bôi lên mặt Bảo-Bảo. Chàng thoa đi, thoa lại trên mặt cho nàng. Một cảm giác kỳ lạ chạy rần rật khắp người, làm Bảo-Bảo đê mê, cơ thể nóng bừng lên. Nàng nhắm mắt lại , trong lòng ước mơ Thủ-Lý cứ thoa mãi. Vô tình hai tay nàng để lên đùi Thủ-Lý, hơi thở dồn dập... Nhưng Thủ-Lý đã ngừng lại, chàng giải huyệt cho Thúy-Thúy với Bảo-Bảo :
- Xong rồi, bao nhiêu vết dao làm rách thịt đã liền lại rồi.
Bảo-Bảo không tin :
- Thực ư ? Sao lại có thể có loại cao thần diệu đến vậy ư ?
Thủ-Lý bảo Đoan-Nghi :
- Em lấy cái gương cho Nhạc cô nương soi thử.
Đoan-Nghi cầm gương trao cho Bảo-Bảo :
- Khỏi rồi ! Đại ca của tôi là người chính nhân quân tử, không nói dối phu nhân đâu.
Bảo-Bảo cầm gương soi, thì quả nhiên mặt mình nhẵn như xưa, da mịn màng, chỉ còn vết hồng hồng lờ mờ trên da mà thôi. Nàng run run quỳ gối rập đầu trước Thủ-Lý :
- Tiểu tỳ xin tham kiến chủ nhân.
Thủ-Lý phất tay một cái, kình lực nhu hòa đỡ nàng dậy :
- Chúng ta chỉ nói đùa với nhau, chứ đâu phải là sự thực mà cô nương lại hành đại lễ như vậy ?
- Thần-nông sứ.
Bảo-Bảo nói bằng giọng thiết tha :
- Con gái người Hoa của em đã nguyện dâng hiến thân mình cho một đấng quân tử, thì dù Ngọc-Hoàng đại đế, Diêm-la lão tử bảo thôi, bọn chúng em cũng không đổi ý.
Thủ-Lý xua tay :
- Vừa rồi tại hạ đánh lừa cô nương đấy. Khi tại hạ cầm dao rạch mặt cô nương thì chỉ cho dao chạm vào da mà thôi . Còn sở dĩ có máu là tại hạ vận Cổ-loa tâm pháp của bản phái, cho máu của tại hạ rỉ ra ở đầu ngón tay. Chứ mặt cô nương không hề bị thương. Ngay hai em của tại hạ nhìn mà cũng tưởng là thực. Như vậy là tại hạ nói dối cô nương, thì cô nương không phải giữ lới hứa.
Thúy-Thúy can thiệp :
- Thần-nông sứ ơi ! Đúng ra, khi gập người tại Đông-cung, thì Bảo-Bảo nguyện hiến thân cho Thần-Nông sứ, để nâng khăn sửa túi kia đấy. Tiếc rằng hồi ấy Thần-Nông sứ không biết mối nhu tình của sư muội. Nay sứ đã có người chủ trương ở trong là chị Phương-Lan rồi, nên sư muội xin làm tỳ thiếp. Làm tỳ thiếp cho sứ thì sư muội sẽ thành người họ Trần. Khi là người họ Trần thì dù phái Hoa-sơn có truy lùng trả thù, họ cũng đành nuốt hận mà thôi.
Thủ-Lý chỉ vào trong nhà, chàng dùng ngôn từ bình dân:
- Tôi đã có vợ rồi. Vợ tôi do ông nội cưới cho tôi. Tuy nàng không đẹp bằng hai cô, nhưng tôi vừa kính vừa yêu nàng. Vả chúng tôi là bạn thời thơ ấu, tính tình hợp nhau. Tôi không muốn có người đàn bà khác xen vào làm mờ những gì mà chúng tôi có với nhau. Tôi nhắc lại, dù cho sông Vỵ có cạn, núi Côi có mòn, tình tôi dành cho Phương-Lan cũng không đổi.
Thúy-Thúy thở dài :
- Thì ra Thần-Nông sứ là người gan bằng sắt, tim bằng đồng, dù sư muội có đẹp đến đâu người cũng rửng rưng. Bây giờ sư muội xin Thần-Nông sứ nhận làm nô tỳ cho người, thì người chẳng hẹp gì mà từ chối.
Thủ-Lý hướng ra ngoài, hú lên một tiếng dài. Phương-Lan vào hỏi :
- Anh cần em ?
Thủ-Lý thuật cho vợ nghe những gì đã xẩy ra. Phương-Lan cầm tay Bảo-Bảo :
- Thực xinh đẹp, thực thông minh, thực tài hoa, mà không may bị bọn Tống vô lương tâm đưa vào con đường cùng này. Chị Bảo-Bảo này, tôi xin nhận chị vào trong gia đình tôi, rồi tôi sẽ tìm một đấng nam nhi tài hoa để kết mối lương duyên với chị . Kể từ lúc này, chị là người họ Trần. Cũng kể từ lúc này, cho dù chưởng môn phái Hoa-sơn, cho dù Tống đế cũng không được động đến sợi tóc của chị.
Nhạc Bảo-Bảo hướng Phương-Lan lạy ba lạy. Để cho Bảo-Bảo lạy xong, Phương-Lan tháo chuỗi ngọc trai dài ba vòng trên cổ đeo cho nàng rồi an ủi :
- Chị Bảo-Bảo, gọi là chút quà mọn làm lễ diện kiến.
- Tín-Hương phu nhân.
Đoan-Nghi hỏi :
- Thế Vân-Đài tiên tử, sư phụ của Vương cô nương là ai vậy ?
- Là phu nhân của tể tướng Đỗ An-Di tên Trịnh Nam-Phương.
Trong khi Thủ-Lý thản nhiên, thì Thủ-Huy, Đoan-Nghi cùng bật lên tiếng ái chà. Vì hai người từng nghe nhiều người nói rằng : Cách đây mười mấy năm, bấy giờ Đỗ An-Di còn là một chức thị lang bộ Lại (Tương đương với ngày nay là tổng giám đốc). Ông có bỏ tiền ra mua một người con gái nhà nghèo tên Trịnh Nam-Phương về làm tỳ thiếp. Vì Nam-Phương đàn ngọt, hát hay, lại thông Thi, Thư, nên Di nâng lên làm thứ thiếp, cực kỳ sủng ái. Được hơn năm thì chính thiếp của Di du ngoạn đền thờ vua Hùng, bị trượùt chân chết. Di tâu xin triều đình phong cho Trịnh Nam-Phương lên làm chính thất, tước nhất phẩm phu nhân. Nam-Phương thường giúp Di trong công việc đọc các bản tấu chương khắp nơi gửi về triều, hoặc các chỉ dụ của nhà vua gửi đi. Như vậy thì tình hình Đại-Việt thế nào, Khu-mật viện Tống biết hết rồi !
Đoan-Nghi phát run hỏi :
- Còn Công-Chúa tiên tử, sư bá của phu nhân với Công-Chúa tiên tử là sư tỷ của phu nhân là ai vậy ?
- Thưa điện hạ, điều này cực mật, chính thần cũng không biết là ai. Nếu công chúa hỏi sư phụ thì biết.
Đoan-Nghi biết Bảo-Bảo nói thực, vì lối tổ chức tế tác của Tống, thì trong ba người Giáp, Ất, Bính thì Giáp phải theo dõi Ất, Ất phải theo dõi Bính, Bính phải theo dõi Giáp... để khi bị lộ thì còn một người có thể trốn thoát.
Thủ-Lý hỏi Thúy-Thúy :
- Vương cô nương ! Cái gì cô nương cũng chối là không biết. Nhưng có một điều cô nương phải biết rất rõ, đó là cái ông Lạc-Nhạn cùng trốn đi với cô nương bây giờ hiện ở đâu ? Y là ai ?
Thình lình hai tiếng véo xé gió, rồi hai mũi phi tiễn bay vào trong phòng. Một mũi hướng Thúy-Thúy, một mũi hướng Bảo-Bảo. Đoan-Nghi vung tay bắt một mũi, Thủ-Huy bắt một mũi.
Thủ-Lý, Thủ-Huy, Đoan-Nghi cùng phóng ra ngoài, thì chỉ còn thấy một người đàn ông chạy ra phía bờ hồ đã khá xa. Phương-Lan, Kim-Ngân đang đuổi theo.
Ba người vào trong nhà, thì Thúy-Thúy, Bảo-Bảo không còn đó nữa. Đoan-Nghi than :
- Chúng ta bị mắc kế diệu hổ ly sơn rồi.
Thủ-Lý nhìn Thủ-Huy, rồi mỉm cười bí hiểm :
- Người ta đem hai nàng Vương, Nhạc đi là hay. Bằng không thì Giai-phi Chế-bì La-bút sẽ ỏn thót xin nhà vua ban chỉ giết hai tế tác Tống là Vương Thúy-Thúy, Nhạc Bảo-Bảo để bịt miệng thiên hạ. Bấy giờ chú em tôi phải đem hai nàng đi thắt cổ thì sẽ tiếc đến đứt ruột ra mà chết.
Nghe anh nói, Thủ-Huy đỏ mặt lên, công nói lảng :
- Hai nàng được đồng bọn cứu ra, không biết em sẽ phải trả lời sao với anh Long-Xưởng ?
Thủ-Lý lại ngửa mặt nhìn lên nóc nhà, tủm tỉm cười.
Trong phủ phò mã của Thủ-Huy, hầu hết bọn mã phu, thân binh, tỳ nữ đều do bà Tự-Hấp tuyển từ Thiên-trường mang về, người duy nhất của Đoan-Nghi là con Nhài, tức Tín-Hương phu nhân. Vì vậy bây giờ khám phá ra Tín-Hương là Mao-Nữ tiên tử, Thủ-Huy không cần thẩm vấn bất cứ người nào. Chàng tập họp người trong phủ lại, thông báo, giảng giải cho họ biết mọi sự, rồi dặn bà Ty :
- Kể từ lúc này, vú phải dặn mọi người hết sức giữ kín mọi chuyện, không để bất cứ tin nào lọt ra ngoài.
Bà Ty đã sai dọn cơm lên. Bà nói với Đoan-Nghi :
- Khải điện hạ, hôm nay nhà có món ăn lạ, món ăn này, cậu Lý nấu từ hồi chiều.
Đoan-Nghi cảm động :
- Ông anh của tôi vẫn vậy, cứ mỗi lần về Thăng-long, là y như người lại cho cô em dâu tham ăn này ăn những món đồng quê.
Nàng liếc nhìn trên bàn : Một đĩa chả rươi bốc khói nghi ngút, hương vị ngào ngạt, một bát ốc nhồi nấu giả ba ba, một bát cá chép nấu ám.
Nàng tỏ vẻ sốt ruột :
- Chị Lan với cô Ngân sao mãi chưa về ? Ủa, cả anh Trung-Từ với cô Phương-Liên nữa ? Họ đi đâu ?
Thủ-Lý để tay lên miệng, tỏ ý bí mật :
- Tối họ sẽ về.
Ăn cơm xong, Thủ-Lý đứng dậy vươn vai :
- Anh mới luyện được một pho kiếm đánh nhau dưới nước. Vậy hai em hãy mặc võ phục, mang kiếm cùng anh ra bờ hồ, anh sẽ dạy cho.
Thủ-Huy, Đoan-Nghi líu ríu tuân hành.
Dinh của Thủ-Huy nằm trên bờ hồ Tây, trước dinh lúc nào cũng có sẵn ba chiếc thuyền. Chiếc thứ nhất là một chiến thuyền. Vì Thủ-Huy giữ chức Phụ-quốc Thái-úy, nên hạm đội Âu-Cơ phái cho công chiếc soái thuyền với đầy đủ thủy thủ đoàn thường trực. Chiếc thuyền thứ nhì là chiếc du thuyền, mà ông nội công ban cho công hôm cưới vợ. Thủy thủ đoàn toàn là đệ tử phái Đông-A. Chiếc thứ ba thì của Vỵ-xuyên ngũ tiên tặng cậu em, đây chỉ là chiếc thuyền nhỏ, mà năm bà tiên dùng để đánh cá.
Đoan-Nghi hỏi :
- Thưa anh, chúng ta dùng thuyền nào ?
Thủ-Lý chỉ vào chiếc thuyền đinh của mình đậu ngoài khơi :
- Chúng ta dùng thuyền của nhà mình.
Nói rồi chàng hú lên một tiếng dài, lập tức con thuyền đinh của phái Đông-A đậu ngoài khơi nhổ sào, chèo vào bờ. Ba người tung mình đáp xuống sàn thuyền. Thủy thủ nhổ neo, kéo buồm cho thuyền hướng ra phía bờ sông Hồng. Dưới ánh trăng rằm, gió hiu hiu thổi, mặt nước hồ Tây như muôn ngàn con rắn vàng bơi lội. Đoan-Nghi tuy không kinh nghiệm, nhưng nàng cực kỳ thông minh. Những biến cố xẩy ra, làm nàng thắc mắc :
- Anh cả ! Có phải anh dẫn chúng em đi bắt gian tế không ?
- Đúng vậy ! Sao em biết ?
- Thứ nhất, cách đây mấy năm, khi đối đáp với sứ đoàn Ngu Doãn-Văn, khi y đòi Lạc-Nhạn với Vân-Đài, anh nói úp mở rằng anh sẽ đem tám người của họ cho quạ rỉa thịt, rồi nộp xương cho y, khiến y bở vía, không dám đòi người nữa. Rồi hồi nãy, anh nói rằng chúng em có sự. Sau đó anh bắt Tín-Hương phu nhân xuất hiện nguyên hình là Mao-Nữ. Hai sự kiện đó cho em biết rằng bao nhiêu âm mưu của gian tế Tống phái Đông-A đã biết hết. Khi ông nội gửi anh về đây để bắt gian, thì nhất định ông sẽ phái theo nhiều người phụ giúp. Cho nên khi có người ném phi tiễn, dụ hổ ly sơn, để cứu Thúy-Thúy, Bảo-Bảo, anh tỏ ra bình tĩnh như không có gì, mục đích qua mắt bọn gian tế còn ẩn núp trong dinh bọn em. Chứ thực ra anh đem hai nàng ấy về trang ấp nhà ta, mà triều đình không thể đòi đem hai nàng ra tra khảo, chém giết. Bây giờ thì chúng ta đi bắt bọn gian tế Tống còn lại. Có đúng thế không ?
- Em thông minh thực.
- Sao anh không cho bọn em biết trước đôi chút, để có thể dùng thị-vệ hay Thiên-tử binh vây bắt bọn chúng ?
- Em nói ! Bọn gian tế này không tầm thường đâu, ngay cả em, lẫn Thủ-Huy thấy chúng, đều bó tay, thì thị-vệ với Thiên-tử binh mà làm gì ?
- Thế chúng ở đâu ?
Thủ-Lý chỉ lên trời : Hai con chim ưng đang bay lượn, dẫn đường cho thủy thủy.
Thuyền ra đến giữa hồ thì Thủ-Lý mới hỏi :
- Chú Huy này ? Chú có được phúc trình đầy đủ về việc Đỗ Thục-phi, Từ Tuyên-phi sinh con chưa ?
- Chưa.
- Để anh giảng cho chú biết, bằng không, chú cứ như người mơ ngủ mãi thì sao cuộc ra quân thành công được ! Nào chúng ta cùng vào khoang thuyền bàn luận cho nghiêm cẩn, hơn là ngồi ngoài này. Tường có mạch, bức vách có tai.
Miệng nói, Thủ-Lý mở cửa khoang thuyền, cánh cửa vừa hé, thì ánh sáng bên trong cũng tỏa ra sáng chưng. Thủ-Huy giật mình, ngơ ngác nhìn anh, vì trong khoang thuyền có Nghĩa-Thành vương, Long-Xưởng, và ba vương Kiến- Ninh, Kiến-An, Kiến-Tĩnh ngồi đó từ bao giờ.
Long-Xưởng lên tiếng trước :
- Từ hơn mười năm nay, chúng ta cứ nghĩ rằng trong Đông-cung chỉ có một con rắn. Hồi đầu thì chúng ta tưởng nó là người của thái hậu. Nhưng khi cái triều đình gà mái gáy bị dẹp rồi, mà con rắn cũng vẫn còn, thì chúng ta mới biết rằng nó là người của Khu-mật viện Tống, song không tìm ra manh mối. Hồi sáng với sự xuất hiện của Côi-sơn song ưng, chúng ta đã bật ngửa ra rằng Á-nương là Vân-Đài, rồi nhờ Thần-nông sứ chúng ta lại tìm ra con Nhài chính là Mao-Nữ. Vì biết rằng tế tác trong Đông-cung, trong phủ phò mã có thể còn nhiều tên nữa, nên chúng ta phải họp nhau ở đây để nghị kế phá tan hệ thống này của Tống. Rất may mắn chúng ta được Trần lão đại hiệp quan tâm giúp đỡ, nên Khu-mật viện đã tìm ra hết những tên gian tế quan trọng.
Vương liếc nhìn Nghĩa-Thành vương :
- Xin chú trình bày cho cử tọa nghe.
- Năm năm trước, khi sứ đoàn Ngu Doãn-Văn sang Đại-Việt, chúng ta đã khống chế được hai chân tay của Tần Hy là vợ chồng Ngô Tá-Quốc, Ngô Phụ-Gia. Đáng lẽ ra Khu-mật viện sẽ trực tiếp điều động hai người này để lấy tin tức. Song vì sợ con rắn độc trong Đông-cung nên Long-Xưởng đã nhờ phái Đông-A làm dùm, hầu bảo toàn cơ mật. Chính nhờ hai người họ Ngô đâm bị thóc, chọc bị gạo mà phe Tần Hy với phe Ngu Doãn-Văn trong bốn năm qua, ngày càng mâu thuẫn. Theo như suy đoán của chú, thì sau cuộc đi sứ phe Doãn-Văn bị bại hẳn. Nhưng chỉ một thời gian sau, họ lại phục hồi, nguyên do chỉ vì người của Hoa-sơn không ngớt đưa tin về cho Khu-mật viện Tống. Mà tin này quá chính xác nên phe Doãn Văn vẫn đứng vững trong năm năm qu a.Việc này làm Tần Hy tức điên lên được. Y bàn với hai người họ Ngô rằng, có cách nhờ Đại-Việt diệt dùm bọn chân tay của Hoa-sơn tiềm ẩn không ? Họ Ngô đưa ra ý kiến : Thực quá dễ dàng, chỉ cần Hy trao cho họ danh sách bọn gian tế Hoa-sơn, họ báo cho Đại-Việt là xong.
Vương ngừng lại một lát rồi tiếp :
- Hơn tuần sau hồ sơ đó đã được chuyển về Thiên-trường. Lập tức đại hiệp Tự-Hấp, Đại-Việt ngũ tuyệt cho đệ tử theo dõi, điều tra, tìm hiểu chi tiết, rồi mới sai Thần-nông sứ về đây giúp chúng ta trừ cả đàn rắn độc.
Long-Xưởng nghĩ thầm :
- Thế lực phái Đông-A quả thực lớn hơn triều đình. Người của họ lại đồng tâm nhất trí. Hôm trước mẫu hậu dặn ta phải tỉa bớt thế lực của họ đi, ta phải liệu làm ngay thì vừa.
Kiến-Ninh vương hỏi :
- Thưa chú, thế ông bà Tự-Hấp là Côi-sơn song ưng hay sao, mà ông bà ấy đã cảnh cáo ta trong lúc họp ?
Thủ-Lý cười :
- Không phải ! Chính em gái tôi là Kim-Ngân đã giả danh Song-ưng để báo cho các vị biết, như vậy các vị sẽ bắt Vân-Đài Thúy-Thúy phải xuất hiện trước công chúng, rồi từ Vân-Đài Thúy-Thúy, sẽ lôi Mao-Nữ Bảo-Bảo ra. Lôi Mao-Nữ Bảo-Bảo ra thì lôi được Vân-Đài Trịnh Nam-Phương, Mao-Nữ Hàn Dũ-Linh. Như thế dễ cho Khu-mật viện. Chứ Khu-mật viện không thể câu lưu Giai-phi Chế-bì La-bút, và phu nhân của Đỗ tể tướng mà thẩm vấn.
Long-Xưởng công nhận Thủ-Lý nhìn xa, trông rộng. Vương hỏi :
- Thế cái gã tế tác đầu tiên sang Đại-Việt tên Trung-nhạc Tung-sơn tức Thiên-Hư đạo nhân là ai ? Hiện y ở đâu ? Lại còn cái mụ Công-Chúa sư muội của Trịnh Nam-Phương với đệ tử của y là ai ?
- Thiên-Hư đạo nhân chết lâu rồi. Cho nên sau này Ngô Giới mới cho gã Lạc-Nhạn sang thay thế. Tất cả hệ thống tế tác Tống tại nước ta đều do gã này chỉ huy. Võ công Lạc-Nhạn cao nhất trong bọn ngang vai như Ngô Giới, Ngô Lân, Lưu Kỳ. Ngoài võ công cao cường, y lại là tiến sĩ xuất thân, mưu cơ không biết đâu mà lường. Khi y vừa sang tới Đại-Việt, thì cũng đúng là lúc một trong Hoa-nhạc tam nương là Công-Chúa, nức danh là đệ nhất danh kỹ Thăng-long. Không những nàng được hầu hết các thân vương, đại thần, khanh tướng, tao nhân, mặc khách, cao thủ võ lâm say mê, mà chính cái gã Lạc-Nhạn mới gặp nàng cũng bị hồn phiêu, phách tán. Khi y ngỏ lời cầu hôn với nàng, thì mới biết nàng âm thầm yêu say đắm một nho sinh. Y tìm cách chia rẽ nàng với nho sinh, mà vô ích. Y tìm cách giết nho sinh, không ngờ khi y ra tay, mới bật ngửa ra rằng nho sinh là một danh nhân Đại-Việt, võ công cao thâm hơn y nhiều. Y bị đánh trọng thương, may khôngchết. Từ hồi ấy đến giờ, y nuôi chí phục hận, ra sức luyện võ. Hiện bản lĩnh y cao thâm khôn lường. Biết bản lĩnh y cao hơn tôi với Thủ-Huy nhiều. Nên hôm trước bố mẹ tôi với Đại-Việt ngũ tuyệt phải rời Thiên-trường về Thăng-long, âm thầm đến tổng đàn của y, bắt y cùng đồng bọn. Bố tôi phải đánh đến hiệp thứ một trăm tám mươi, y mới bị bại. Lát nữa tôi sẽ cho y xuất hiện... Còn Công-Chúa ? Y thị là vợ Lạc-Nhạn, con gái y lại chính là đệ tử của vợ chồng y, kế ngôi Công-Chúa của vợ y.
Nghe Thủ-Lý nói, Long-Xưởng nghĩ thầm :
- Tự-Kinh, Tự-Hấp cũng như đệ tử phái Đông-A, toàn những nhân tài kiệt hiệt. Thế mà họ làm việc không công cho triều đình, thì hẳn phải có âm mưu lớn lắm. May mà mẫu hậu đã nhìn ra. Nguy thực.
Thủ-Lý nhìn Long-Xưởng, Thủ-Huy rồi mỉm cười :
- Thái-tử, nhị đệ ! Cái cô Công-Chúa mẹ, Công-Chúa con mà bị lôi ra ánh sáng, thì Thái-tử với nhị đệ đều không hay đâu ! Ngay Thần-phi Bùi Chiêu-Dương cũng bị vạ lây.
Thủ-Huy kinh hãi :
- Họ là ai ?
- Họ là ai thì liệu thái-tử với chú có dám bắt giam không mà hỏi ?
Long-Xưởng cương quyết :
- Huynh cứ nói ra đi. Xưởng này quyết vì sự nghiệp của tiên đế mà thẳng tay với chúng.
- Vậy thì được.
Thủ-Lý hô lớn :
- Đem đạo sư Lạc-Nhạn lên hội kiến với chư vị vương gia.
Cánh cửa sàn thuyền bật mở tung, Phương-Lan, Kim-Ngân cùng dắt một người bị trùm kín đầu, từ tầng dưới lên. Cứ nhìn dáng đi, ai cũng biết y bị điểm huyệt.
Thủ-Lý ra lệnh :
- Mở khăn ra.
Khăn trùm đầu kéo lên, hiện ra một người tầm thước, rất uy vũ, da trắng, ba chòm râu dài tới rốn, trông giống như một tiên ông.
Nghĩa-Thành vương bật lên tiếng kêu hoảng :
- Từ Nam ! Thì ra người ! Muôn ngàn lần không bao giờ ta ngờ người là Lạc-Nhạn. Người chưa chết ư ?
Lạc-Nhạn, tức Từ Nam cười nhạt :
- Nghĩa-Thành vương hỏi vậy thì thực là ngu. Nếu ta chết rồi thì đâu có còn đứng đây cho người cật vấn ?
- Để chú giảng cho các cháu nghe.
Nghĩa-Thành vương thuật :
« ... Cách đây hơn hai mươi lăm năm, triều đình mở khoa thi võ tuyển thị vệ. Thể lệ ban ra cho thí sinh là, muốn được ứng tuyển thì phải là đệ tử của các đại môn phái Đông-A, Tản-viên, Mê-linh, Tiêu-sơn, Sài-sơn, hoặc các đại bang. Nếu thí sinh không thuộc thành phần trên, nhưng là thân binh các thân vương, thượng thư thì cũng được thu nhận. Từ Nam được Đỗ Anh-Vũ giới thiệu. Khi tuyển võ, y chỉ dùng những chiêu hỗn tạp của phái Đông-A, Tiêu-sơn, nhưng vì công lực cao, nên được trúng cách. Từ đấy y phụ trách canh phòng Khu-mật viện. Y thuộc loại người thâm trầm, lại khéo hòa hợp với đồng đội, nên tiến trình của y rất mau. Chỉ trong ba năm y được thăng lên làm trưởng toán canh phòng cung Cảm-Thánh.
Thời ấy, tại Thăng-long có một danh kỹ nức tiếng tài sắc tên Trần Lệ-Mai. Hầu hết các vương công, đại thần, các danh sĩ trong nước đều say mê nàng, nhưng không ai lọt mắt xanh của nàng. Thế rồi, một ngày kia, có người khách viễn phương xa nghe tiếng nàng tìm đến chỉ để được thưởng thức câu ca, khúc nhạc của nàng. Sau lần gặp gỡ đó, nàng đã cảm tấm lòng của khách, xin theo để nâng khăn sửa túi. Nàng bỏ ca hát, cùng khách ngao du thắng cảnh ; khi thì Côi-sơn, khi thì Tản-viên, suốt mấy năm liền. Rồi không hiểu sao, một đêm khách không từ biệt, bỏ đi mất. Lệ-Mai khóc hết nước mắt, nghiến răng kết hôn với thị vệ Từ Nam. Tin này làm rúng động thành Thăng-long, vì tuy người khách kia ra đi, nhưng còn không biết bao nhiêu danh sĩ, không biết bao nhiêu vương công, chầu chực để cầu hôn với nàng.
Lấy nhau được hai năm, thì một đêm Từ Nam canh gác cung Cảm-Thánh, bị một kẻ vô danh đánh vào đầu, Từ Nam mê man, trở thành tê liệt. Tuy chồng thành tàn tật, nhưng Trần Lệ-Mai vẫn an phận nuôi chồng. Bốn tháng sau đó nàng có thai, sinh ra một gái đặt tên là Từ Thụy-Hương. Thụy-Hương sinh ra được hai ngày thì Từ-Nam chết. Mẹ con bơ vơ giữa kinh thành Thăng-long.
Bấy giờ trong cung, Thần-phi Bùi Chiêu-Dương sinh ra công chúa Đoan-Nghi. Người ta tiến Lệ-Mai làm nhũ mẫu cho Đoan-Nghi. Trần Lệ-Mai mượn người nuôi con rồi vào cung. Khi công chúa Đoan-Nghi được ba tuổi, không còn bú nữa, hoàng-hậu ban thưởng vàng bạc cho Lệ-Mai, rồi bắt rời Hoàng-thành. Lệ-Mai khóc lóc xin được ở lại trong cung hầu hạ công chúa Đoan-Nghi. Nhưng Ngự-sử đại phu dâng biểu đàn hặc rằng : Theo như ngự y Trần-thị Phương-Thanh, thì Từ-Nam bị đánh tổn thương xương sống, khiến nửa dưới cơ thể bị tê liệt, thì không thể có con. Thế mà Lệ-Mai lại mang thai, thì cái thai đó là con hoang. Với một người đàn bà bất trinh như vậy, không thể cho ở trong Hoàng-thành. Lệ-Mai khóc hết nước mắt, giã biệt Thăng-long, về ẩn tại Đăng-châu.
Hồi thái-tử Long-Xưởng ra Đông-cung, theo lời cầu xin của công chúa Đoan-Nghi, thái-tử cho tìm vú Lệ-Mai với con gái là Thụy-Hương về, cho ở trong Đông-cung, lại phong tước Thạc-hòa Anh-văn phu nhân, truyền giữ chức Kim-ốc bảo khố.
Rồi...Thụy-Hương trở thành một trong Đại-Việt thất tiên, thành người tình của Thủ-Huy, của Long-Xưởng ; nàng tham gia vào tất cả những việc trọng đại của triều đình. Nhất là nàng phụ tá cho Long-Xưởng giải quyết tất cả những tấu chương, chỉ dụ của nhà vua. Cuối cùng thành Tuyên-phi, và trợ giúp nhà vua trong mọi sự lớn nhỏ. Các đại thần dù phe chủ hòa, dù phe chủ chiến đều rạp người xuống mà khuất phục nàng. Mới đây, nàng sinh hoàng-nữ, song được mấy giờ thì hoăng... ».
Nghĩa-Thành vương kết luận :
- Bây giờ nảy ra việc Từ-Nam lại là Lạc-Nhạn, thì thực ta không thể nào hiểu nổi.
Kim-Ngân chỉ ghế nói với Lạc-Nhạn :
- Xin Thái-bảo an tọa.
Lạc-Nhạn thản nhiên ngồi xuống.
Thủ-Huy kinh ngạc hỏi em :
- Cái gì là Thái-bảo ?
- Em xin giới thiệu với anh.
Kim-Ngân chỉ Lạc-Nhạn :
- Từ Nam là tên giả. Tên thực của đạo sư Lạc-Nhạn đây là Vương Cương-Trung, một đại thần Tống triều. Chức tước của người là Hiệp-tán thái bảo, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Khu-mật viện phó sứ, Nam-phương trung nghĩa công thần, An-Nam quốc công. Tức là Tống triều phong cho người làm vua Đại-Việt ta khi họ chiếm được. Còn Trần Lệ-Mai cũng là tên giả, tên thực của người là Triệu Mai-Hương, vốn người Dương-châu. Vì những công trạng to lớn, Mai-Hương được Tống triều phong tước công chúa. Còn trong phái Hoa-sơn, thì bà là đạo cô chưởng quản ngọn núi Công-chúa.
Nói rồi nàng đưa ra một trục giấy trao cho Long-Xưởng. Long-Xương nhìn qua, thì đó là sắc chỉ Tống triều phong chức tước cho Lạc-Nhạn.
Cả khoang thuyền có đến gần chục người, mà đều chết lặng, không ai nói lên được một lời. Chỉ cần biết Lạc-Nhạn là thị vệ Từ Nam chồng của vú Mai, thì ai cũng phải biết rằng vú Mai chính là đạo cô Công-Chúa và Tuyên-phi Từ Thụy-Hương là Công-Chúa kế vị mẹ.
Nghĩa-Thành vương hỏi :
- Vương Thái-bảo, mong Thái-bảo khai cho cô gia biết về cái bí ẩn tại sao người phải giả chết.
Vương Cương-Trung hừ một tiếng, rồi nói ngang :
- Ta không khai ! Người muốn giết ta thì giết đi.
Thủ-Lý đứng dậy nói với Long-Xưởng :
- Lạc-Nhạn đạo sư ! Vụ này không có gì lạ cả. Đạo sư khỏi cần khai, để tôi nói ra đây, xem có chỗ nào sai, xin đạo sư chỉ cho. Thế này ! Đạo sư đang là thị vệ Từ Nam, thì có chiếu chỉ Tống triều gọi về tâu trình tình hình Đại-Việt. Vì vậy, người phải giả bị thương, rồi kiếm một thanh niên hơi giống người, điểm huyệt cho liệt nửa người, cho câm, rồi đặt nằm đó. Còn người, thì người lên đường về Tống. Từ Tống trở về được hơn tháng thì Mai-Hương có thai. Đạo-sư phải cho cái người thanh niên giả mình kia được chết.
Nghe anh nói, Đoan-Nghi chết điếng người đi. Bởi khi Bảo-Bảo khai rằng Trần Lệ-Mai chính là Triệu Mai-Hương, là người tình của ông bố chồng Tự-Hấp. Rồi hồi chiều Minh-Đạo vương dường như cũng là người tình của bà... Nàng không tin, cho rằng Bảo-Bảo muốn ly gián, gắp lửa bỏ bàn tay vú Mai với tuyên phi Thụy-Hương. Bây giờ thì là sự thực rồi, không chối cãi vào đâu được nữa.
Vương Cương-Trung tím mặt, không nói được lời nào nữa. Thủ-Lý lên tiếng gọi :
- Hiền đệ Trung-Từ !
Tô Trung-Từ to lớn như một hộ pháp, bụng như cái trống, bước ra :
- Thưa đại ca ! Em bé của đại ca đây.
Dù trong cái không khí cực căng thẳng, mà nghe Trung-Từ nói, ai cũng phải bật cười.
- Cái vụ Tuyên-phi, Thục-phi sinh con, hiền đệ đã điều tra ra rồi phải không ? Hiền đệ nói cho mọi người biết đi.
- Thưa các vị.
Trung-Từ thuật :
- Gần hai năm trước, được tin vụ tuyên-phi Từ Thụy-Hương, thục-phi Đỗ Thụy-Châu mang thai có nhiều điều đáng nghi ngờ ; thái sư phụ, ra lệnh cho tôi đem Tá-Chu, Kim-Ngân, Phương-Liên âm thầm về Thăng-long, để điều tra xem thực hư ra sao. Vốn đã biết Lạc-Nhạn đạo sư tiềm ẩn làm gia sư tại phủ tể tướng (ghi chú : Tức là người chỉ huy hệ thống hộ vệ), thì toàn bộ vệ sĩ thân binh đều là đệ tử của người. Vậy thì chỉ cần theo dõi người là ra hết mọi sự. Quả nhiên chỉ ba ngày là có kết quả. Nguyên do : Đạo sư tổ chức cuộc họp giữa người với ba tiên tử Vân-Đài Trịnh Nam-Phương, Công-Chúa Triệu Mai-Hương, Mao-Nữ Hàn Dũ-Linh tại tổng đàn của người trên con thuyền của bang Đường-lang đậu tại bờ sông Hồng về phía Bắc-ngạn. Trong cuộc họp này, các vị bàn nhiều chuyện, trong đó có chuyện liên quan đến vấn đề hai phi Thụy-Hương, Thụy-Châu mang thai như sau : « ... Vân-Đài Trịnh Nam-Phương than rằng, bà đã trên bốn chục tuổi, nhan sắc ngày một tàn phai. Trong khi tể tướng Đỗ An-Di vẫn còn sung sức. Ông mới tuyển thêm một mỹ nữ tuyệt đẹp, và cực kỳ sủng ái người thiếp này, nên mình bị hất hủi, không còn được vào thư phòng của tể tướng, thành ra không biết được những tin tức quan trọng. Vương Cương-Trung bàn với Vân-Đài Nam-Phương rằng phải nắm Đỗ tể tướng bằng cách, sao cho ông ta phạm một trọng tội với triều đình, mà chỉ mình Nam-Phương biết mà thôi. Như vậy, không bao giờ ông ta dám bỏ Nam-Phương cả.
Cũng trong dịp này Công-Chúa tiên tử Mai-Hương cho biết con là Công-Chúa Thụy-Hương mới mang thai. Nhưng cái thai đó không biết của nhà vua hay của đại đệ tử Vương Cương-Trung, vốn họ Triệu, tôn thất của Tống triều. Tính số Tử-vi của nhà vua, của Thụy-Hương, của tên đệ tử mình, Cương-Trung quả quyết rằng sau này Thụy-Hương sẽ sinh hoàng nam, và hoàng nam đó sẽ được nhà vua truyền ngôi. Ngặt vì nguồn gốc của Mai-Hương lờ mờ, việc sinh ra Thụy-Hương đã bị ngự sử đại phu đàn hặc, thì việc cho hài nhi lên làm vua, e sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Vậy, Nam-Phương phải nhập cung thuyết phục Đỗ Thục-phi cũng tuyên bố có thai. Ngày Thụy-Hương trở dạ sinh con, thì Đỗ Thục-phi cũng giả lâm bồn. Ngày ấy Cương-Trung sẽ sai đệ tử bắt con gái của dân dã nào đó, bóp cổ chết, rồi đem vào cung nói rằng con của Thụy-Hương. Ngược lại con của Thụy-Hương thì trao cho Đỗ Thục-phi, nói rằng mình sinh ra. Còn hai bà mụ của Hoàng-cung, thì Thụy-Hương, Thụy-Châu bắt phải thề độc giữ kín bằng không sẽ bị giết cả nhà.
Về việc nuôi hài nhi, thì Thụy-Châu giả khai rằng sau khi sinh hoàng nam, bị kiệt sức, không sữa. Thụy-Hương nhân đó tình nguyện nuôi sữa hoàng nam. Giai-phi Chế-bì La-bút nhận làm thầy dạy. Đứa trẻ sau này lớn lên, vừa được ông cậu hờ Đỗ An-Di làm tể tướng giúp sức bên ngoài. Trong cung, bà mẹ đẻ Thụy-Hương, bà mẹ hờ Thụy-Châu, bà thầy dạy Chế-bì La-bút...ngày đêm ỏn thót nói về những điều kỳ lạ đứa trẻ với với nhà vua, ắt nhà vua sẽ hài lòng.
Một mai khi nhà vua sắp băng hà, Giai-phi, Thục-phi, Tuyên-phi sẽ khóc lóc xin lập con mình lên làm vua. Đứa trẻ lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, thì Thụy-Châu, Thụy-Hương sẽ được tôn làm thái hậu buông rèm thính chính. Đỗ An-Di đương nhiên thành thái sư phụ chính.
Dĩ nhiên những việc làm cơ mật như thế, thì Đỗ Thụy-Châu phải bàn với Đỗ An-Di. Di sẽ nhờ Nam-Phương làm con thoi ra vào Hoàng-thành liên lạc với em gái. Vô tình Nam-Phương trở thành người thân tín của anh em họ Đỗ.
Làm việc này, Tống được ba điều lợi. Một là Nam-Phương có cớ ra vào thư phòng của tể tướng. Hai là liên kết được Đỗ An-Di với Tống. Ba là kết hợp ba bà giai-phi, thục-phi, tuyên-phi ».
Đoan-Nghi hỏi :
- Cái tên đại đệ tử của Vương Cương-Trung là ai ? Tại sao y lại thông dâm với Thụy-Hương ?
Trung-Từ trả lời bằng cái gật đầu :
- Tôi biết rất rõ. Y tên Tích, là cháu nội của Khâm-tông. Bố y là thái-tử Kinh. Hồi Khâm-tông bị Kim bắt, thì thái-tử Kinh mới có sáu tuổi, được một phi tần họ Mạc bồng bế ẩn vào dân chúng chạy thoát lên núi Hoa-sơn xin Thiên-Hư đạo nhân cho tá túc. Y được thu làm đệ tử. Khi vua Cao-tông trung hưng lập ra triều Nam Tống, mà trong lòng sợ vua Khâm-tông trở về tranh ngôi, nên ông ta cho truy lùng thái-tử Kinh khắp nơi để trừ hậu hoạn. Phái Hoa-sơn không dám cho thái-tử Kinh mang họ Triệu, mà mang họ Mạc của người cung nga. Kinh kết hôn với một sư muội đồng môn đẻ ra Tích. Khi Tích mười tuổi thì cha chết. Tích được trao cho Vương Cương-Trung nuôi dạy. Khi Trung được cử sang Đại-Việt làm gian tế, y dẫn Tích vào yết kiến Cao-tông, và thú thực về nguồn gốc Tích. Cao-tông cũng chiếu luật phong cho Tích tước Kinh-Nam công, rồi cho Tích theo Cương-Trung sang Đại-Việt. Tích học văn, học võ đều thành. Khi Từ Thụy-Hương trở thành Tuyên-phi, Tích được sư phụ trao cho nhiệm vụ hằng đêm đột nhập Hoàng-thành luyện võ cho phi. Cuối cùng hai người thông dâm với nhau, mà có con. Hiện cái ông hoàng tử Long-Trát, mà nhà vua yêu thương cùng cực kia là cháu ba đời vua Khâm-tông. Y họ Triệu chứ không phải họ Lý.
Thủ-Huy lắc đầu :
- Tôi nghĩ Long-Trát là con của phụ hoàng. Vì y giống phụ hoàng như hai giọt nước vậy.
Cử tọa nghe Trung-Từ thuật đều rùng mình. Trung-Từ cười với Cương-Trung :
- Cho nên hôm con gái của thái bảo với Mai-Hương chuyển bụng, thì Đỗ thục phi cũng vờ đau bụng. Hai phi sai người khẩn báo với Đỗ An-Di. Di triệu hồi hai bà mụ Hoàng-cung tới căn dặn mọi sự, rồi hứa rằng sẽ thưởng cho mỗi bà mười lượng vàng , nếu biết giữ mồm, giữ miệng. Còn như chỉ cần hở ra một chút, thì sẽ bị giết cả nhà. Lạc-Nhạn đạo sư sai đệ tử giết một thiếu phụ mới ở cữ được hai ngày, bắt cóc đứa con bóp mũi chết, trao cho Trịnh Nam-Phương. Nam-Phương đem vào cung đưa cho Thụy-Hương. Mọi sự diễn ra như ý muốn của đạo sư. Tuy nhiên đạo sư quá tàn nhẫn, sai người điểm tâm huyệt hai bà mụ, khiến hai bà chết ngay.
Thủ-Lý vẫy tay, hai đệ tử Đông-A lại giải Vương Cương-Trung xuống khoang dưới.
- Vụ này không ngờ lớn quá !
Kiến-An vương than : Chúng ta phải giải quyết sao bây giờ ?
Kiến-Ninh vương đề nghị :
- Chúng ta khẩn thiết Tinh-triều, công bố nội vụ, rồi đem Lạc-Nhạn, Vân-Đài, Công-Chúa, Mao-Nữ cũng như đồng bọn ra xử tử tận số là xong.
Long-Xưởng trầm tư :
- Làm như vậy thì dễ quá rồi. Nhưng hiền đệ ơi ! Chúng ta phải gánh chịu ba cái khó khăn. Một là binh tướng đang trên đường ra trận, nay vỡ lở cái vụ ái thiếp của Tể tướng ; Tuyên-phi, Giai-phi của hoàng đế, cùng ba chức phu nhân của Đông-cung, của phủ phò mã, của Hoàng-cung là gian tế Tống, thì họ không còn tinh thần chiến đấu nữa. Hai là, liệu Tể tướng, cũng như phụ hoàng có tin chúng ta không ? Hoặc giả tin, nhưng người sẽ dùng luật Bát-nghị, mà ân xá cho chúng, thì càng làm cho sĩ dân, binh tướng bất mãn. Ba là, dù ta sắp đem quân Bắc tiến, nhưng ta không có quyền giết người của họ. Ta chỉ có thể giam giữ rồi đòi chuộc, hoặc trao đổi mà thôi.
Long-Xưởng nghĩ thầm :
- Ta thử hỏi Thủ-Lý xem y mưu đồ ra sao ? Trong nhất thời muốn phá mưu đồ của phái Đông-A, ta cứ làm ngược lại những gì y nói là tốt hơn hết.
Vương hỏi Thủ-Lý :
- Đại ca là người trí tuệ siêu phàm, xin đại ca chỉ cho đệ con đường phải đi.
- Thái tử xét xem, những người của Tống, cho chí anh em họ Đỗ, theo luật, có đáng xử tử không ?
- Theo bộ Hình-thư thì chúng đáng tội lăng trì, còn toàn gia cũng phải chết chém.
Trung-Từ nói gằn từng tiếng :
- Thế là thái tử đã tuyên án rồi. Vậy thì xin Nghĩa-Thành vương gửi chỉ dụ cho Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Tăng Quốc, hiện lĩnh điện tiền chỉ huy sứ, đem thị vệ bắt hết bọn tội phạm đưa ra bờ sông Hồng xử tử tận số, để các vị vương gia đây an lòng mà lên đường Bắc-tiến .
Trong khi Long-Xưởng trì nghi, tìm cách hành sự trái với đề nghị của Trung-Từ, thì Thủ-Lý nào biết rằng Long-Xưởng đã nghi phái Đông-A. Chàng nắm lấy tay vương :
- Nếu không thì thế này, xin Thái-tử nhắm mắt lờ đi, để chúng tôi nhân danh con dân Đại-Việt, nhân danh chủ đạo tộc Việt, chúng tôi thi hành bản án ?
Long-Xưởng nghĩ thầm :
- Cái tên Thủ-Lý này định giết người rồi đổ tội cho ta chăng ?
Vương lắc đầu :
- Khó quá !
Thủ-Lý bực mình :
- Cái nguy Tống, Chiêm như ghẻ ngoài da, cái họa bọn nội gián như bệnh trong tim trong gan. Nếu như vương gia không quyết đoán ngay, tôi e sự nghiệp mấy nghìn năm của vua Hùng, vua Trưng sẽ thành quận huyện của Tống một sớm một chiều. Mà dù không bị Tống chiếm, thì công nghiệp của năm vị tiên đế triều Lý sẽ rơi vào tay giòng họ khác. Người xưa nói : Họa nước như dầu sôi lửa cháy. Chỉ chậm một khắc là không kịp nữa. Tôi nhắc lại, chủ trương của ông nội tôi, của phái Đông-A là : Ngôi vua Đại-Việt là của người có đức, chứ không của riêng họ Lý. Nếu như Thái-tử không mau sửa đức cho phụ hoàng, không mau ra tay giết bọn gian tế Tống...thì cái gì sẽ xẩy ra, Thái-tử dư biết đấy.
Ý Thủ-Lý muốn nói : Nếu Long-Xưởng không giải quyết mau, thì ngôi vua sẽ rơi vào họ Triệu bên Trung-quốc. Trong khi Long-Xưởng lại nghĩ rằng : Phái Đông-A sẽ truất ngôi họ Lý. Mặt Long-Xưởng tái đi vì giận.
Long-Xưởng hỏi các em :
- Làm sao bây giờ ? Ta muốn ra tay, mà không động chạm gì tới phụ hoàng. Các em có ý kiến gì khác không ?
Kiến-Ninh vương lắc đầu :
- Chỉ có cách đó thôi. Tuy nhiên khi đem thị vệ vào cung bắt Giai-phi, Thục-phi, Tuyên phi không giản dị. Bởi Giai-phi là Mao-Nữ, mẹ con tuyên phi đều là Công-Chúa của Hoa-sơn, võ công họ thực đáng nể. Đệ lo sẽ có cuộc long tranh, hổ đấu. Thôi ta để đại ca Thủ-Lý nhân danh chủ đạo tộc Việt giết chúng là hay hơn cả.
- Ta thấy không ổn. Ta hiện cầm đại quyền, trong khi binh tướng đang ra trận, mà trong Hoàng-thành xẩy ra vụ ám sát ba bà phi, ngoài Kinh-thành xẩy ra cuộc ám sát Tể-tướng, cùng gia quyến, thì sao họ có thể an tâm ?
- Ta cứ đổ cho gian tế Tống.
Kiến-Tĩnh vương đưa ý kiến : Sau đó ta đem hết bọn chân tay của đám Hoa-sơn giết sạch, đổ cho chúng là sát nhân.
- Làm như vậy thì hóa ra mình nói dối dân. Sau đó chuyện này tiết lộ, thì triều đình mất hết uy tín.
Nghe Long-Xưởng nói, Kim-Ngân đứng dậy :
- Thưa Thái-tử ! Từ thời vua Lê, rồi trải qua năm vị tiên đế của bản triều, phái Đông-A nhà tôi biết bao lần tuốt gươm đứng dậy khi đất nước chông chênh. Máu đệ tử đã đổ ra cũng nhiều ; mà chúng tôi không hề nhận một chút chức tước của triều đình. Nay, cái nạn gian tế Tống tràn ngập khắp nơi, nào trong triều, nào nội cung, nào phủ tể tướng. Ông nội tôi vì cảm tình riêng với thái-tử, đã huy động toàn phái đứng ra phá vỡ cái dã tâm của chúng. Thế mà, Thái-tử vì tiểu tiết mà không chịu tự vệ, thì tội gì chúng tôi phải nài xin Thái-tử nhỉ ? Nếu nội ngày hôm nay, Thái-tử không giết bọn gian tế Tống, thì coi như vĩnh viễn không bao giờ chúng tôi ghé mắt vào việc của triều đình nữa !
Vốn đã nghi ngờ phái Đông-A, vì lời mẹ dặn. Rồi từ từ, mối nghi ngờ tích tụ. Lại ức vì Thủ-Lý vì câu nói ban nãy. Bây giờ nghe Kim-Ngân sẵng giọng, Long-Xưởng nổi lôi đình nghĩ thầm :
- Ta còn đợi gì mà không loại bọn Đông-A ra khỏi việc nước
Nghĩ vậy, Long-Xưởng chắp tay hướng Thủ-Lý, Trung-Từ, Tá-Chu, Kim-Ngân, Phương-Lan :
- Đa tạ Trần lão đại hiệp, đa tạ nhã lượng quân tử của chư vị. Đây là việc riêng của triều đình. Xưởng này không phải tượng gỗ trên bàn thờ để ai cũng sai bảo được. Xin chư vị để vụ này cho anh em cô gia tự giải quyết.
Ghi chú của thuật giả:
Tiếc thay ! Thái-tử Lý Long-Xưởng là người thông minh, tài trí, muốn tạo cho dân Việt đời sống ấm no. Muốn đưa Đại-Việt thành quốc gia hùng cường. Lại bỏ không biết bao nhiêu tâm huyết ra từ năm tám tuổi. Đến nay, thành công đã nằm trong tầm tay, mà chỉ vì nghe lời dèm pha của mẹ ; bây giờ lại vì một chút tiểu tiết, thiếu quyết đoán, để cho đại sự tan như mây ảo. Rút cuộc bị giết, rồi bị kết tội là phường trộm cướp. Thân xác mình, thân xác vợ con bị vùi dập ở bãi đất hoang, không người thắp cho nén hương. Đau hơn nữa, quốc sử chép Long-Xưởng là người tham dâm, hiếu sắc. Trong khi kẻ hại nước, đem thân già lôm lốp quỳ lạy con đàn bà điêu ngoa dâm đãng tên Đỗ Thụy-Châu, bắt trăm họ Đại-Việt khuất phục bọn Tống hèn hạ, hủ lậu... Lại được lập đền thờ, lại được dùng tên đặt cho trường học, cho những đường phố lớn.
Hồi đầu thế kỷ này, Ưu-thiên Bùi Kỷ đã khóc thi hào Nguyễn Du bằng câu :
Kiếp kim cổ tài tình là bận,
Hồn văn chương vơ vẩn non sông,
Tiếc hay nước đục bụi trong,
Nghìn thu biết ngỏ tấm lòng cùng ai.
Ý cụ Ưu-thiên muốn nói : Con người có tài, nhưng ôm gối ngồi cao, tiêu dao mây nước, hoặc ngồi kẻ lông mày cho người đẹp. Ai chết, ai sống không biết đến ; tình dân thế nước ra sao cũng nhắm mắt, thì được thanh nhàn. Thế nhưng kẻ có tài, lại có chút lòng với quê hương, với dân tộc, thì bận suốt đời, bận cho đến chết. Chết rồi con bận. Mà đau đớn thay, mình có lòng với nước, thì bị bọn lưu manh, bọn chồn cáo quy cho hàng trăm thứ xấu ; trong khi chúng, thì bao nhiêu cái hay, cái tốt chúng nhận cả. Muôn đời sau, rõ ràng mình là nước thì bị mang tiếng là đục. Bọn chúng là bụi thì lai được tiếng là trong.
Đoạn thơ trên cũng có thể dùng để khóc cho Thái-tử Long-Xưởng. Buồn thay, mà cũng đau đớn thay cho người anh hùng cuối cùng của triều Lý.
Hôm nay, ngày 13 tháng 8 năm Đinh Sửu nhằm tiết Bạch-lộ -2006 sau 823 năm, có một người vong quốc ngồi ở thành phố nhỏ Pontault Combault nước Pháp, tự biết tài trí mình không bằng ai, kiến thức mình hủ lậu, nhưng xót đấng anh hùng nghìn năm trước mà viết mấy giòng này minh oan cho người dưới suối vàng.
Thủ-Lý chắp tay hướng lên trời :
- Than ôi ! Tiếc thay ! Tiếc thay. Chúng ta mất biết bao nhiêu tâm huyết, công lao, mà lại lâm cảnh gánh vàng đi đổ sông Ngô.
Chàng quay lại, rơm rớm nước mắt nói với Thủ-Huy :
- Em ạ ! Anh đã làm hết sức mình rồi ! Đối với phái Đông-A nhà ta, thì ai có đức đều có thể lên làm vua Đại-Việt. Nay ta vì biết cái thất bại trước mắt mà giúp Thái-tử, nhưng Thái-tử không nghe ta, thì biết làm sao bây giờ ? Thái-tử lại coi giang sơn này như một món đồ của riêng họ Lý, thì chúng ta còn gì để nói nữa ? Là của riêng họ Lý thì tội gì chúng ta phải can thiệp vào ? Từ nay, nhà mình không giúp gì cho em được nữa. Tuy nhiên, em hiện là phò mã, hiện là thái-úy, thì em phải đem hết sức ra phò tá phụ hoàng của em, của triều Lý. Hãy bảo trọng lấy thân.
Câu nói của Thủ-Lý tuy nhẹ nhàng, nhưng nó như con dao cắt sợi dây khăng khít giữa Long-Xưởng với Thủ-Huy. Sau này vì nghi ngờ Thủ-Huy mà Long-Xưởng cách chức người em kết nghĩa, cuối cùng...
Nghe Thủ-Lý nói, trong lòng Long-Xưởng có hơi bất nhẫn, nhưng vương cảm thấy thoải mái :
- Thế là ta đã vĩnh viễn loại phái Đông-A ra, không cho tham dự vào quốc sự nữa.