watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
06:14:4226/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 9 - Anh Hùng Đông A - Dựng Cờ Bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Chương 16-30
Chỉ mục bài viết
Tập 9 - Anh Hùng Đông A - Dựng Cờ Bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Chương 16-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 36

Chương 16a

Mông-Cổ Lập Quốc

Mông-cổ lập quốc
Niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ sáu 0, đời vua Lý Anh-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên là niên hiệu Càn-Đạo thứ tư , đời vua Hiếu-tông nhà Nam-Tống. 
Mùa Thu tháng 8.

Đại-Việt thiết đại triều tại điện Uy-viễn. Nhạc tấu bản Nguyên-thọ, nhà vua cùng Tuyên-phi Từ Thụy-Hương ra. Nhà vua ngồi trên ngai vàng. Bên trái là một long ỷ, Tuyên-phi Thụy-Hương ngồi đây. Bên phải là một long ỷ khác, dành cho thái-tử Long-Xưởng và ba hoàng tử là Kiến-Ninh vương Long-Minh, Kiến-An vương Long-Đức, Kiến-Tĩnh vương Long-Hòa.
Lễ nghi tất.
Tể tướng Đỗ An-Di bước ra tâu :
- Thần Kiểm-hiệu Thiếu-sư, Đồng-bình-chương sự, Uy-viễn đại học sĩ, Kinh-Bắc tiết độ sứ kính tâu.
Thái-tử Long-Xưởng tuyên chỉ :
- Xin tể tướng bình thân.
- Chương trình nghị sự hôm nay gồm có ba phần. Phần thứ nhất, để nghe tâu về việc đi sứ Kim.
Nghe Đỗ An-Di tâu, bách quan đều kinh ngạc vô cùng, vì họ chưa từng nghe nói đến việc triều đình cử sứ giả sang Kim-quốc bao giờ, thế mà nay họ lại nghe tâu sứ đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Thế chánh sứ là ai ? Lên đường bao giờ ? Sứ sang Kim với nhiệm vụ gì ?
Họ cùng đưa mắt nhìn Lễ-bộ thượng thư Ngô Lý-Tín như để dò hỏi, thì ông này cũng ngơ ngơ ngác ngác. Họ lại nhìn nhà vua, thì thấy đôi mắt nhà vua lờ đờ, tỏ vẻ mệt mỏi, không mấy chú ý đến việc này. Họ nhìn thái-tử Long-Xưởng, thì thấy ông vua con mắt sáng long lanh, da tươi hồng. Như vậy rõ ràng vụ này do thái-tử chủ xướng.
Long-Xưởng biết phụ hoàng mình hoàn toàn u mê, ù ù, cạc cạc về việc liên kết với Kim, vương nhắc lại để cho ngài nhớ, và cũng để cho quần thần biết :
- Tâu phụ hoàng, cách đây hơn năm, trong lần mật nghị quốc sự với thần nhi, phụ hoàng ban chỉ rằng : Cái thế Đại-Việt ta an hay nguy là do Tống với Chiêm. Nay Chiêm đã hoàn toàn quy phục, chỉ có Tống là đáng chú ý. Nhưng tình hình Tống lại tùy thuộc vào Kim với Hạ. Vậy cần cử người sang Kim quốc, tặng phương vật, kết hiếu, để thăm dò tình hình.
Nghe Long-Xưởng tâu, nhà vua mới chợt nhớ :
- Hôm ấy, trẫm trao toàn quyền cho hoàng nhi. Nay sự ấy ra sao ?
- Sau một tháng chuẩn bị, thần nhi đã tâu rằng : Sứ Việt sang Kim-quốc, phải qua lãnh thổ Tống, vì vậy nên giữ kín. Vì thế, vụ này không đem ra triều nghị, cũng không làm lễ tiễn sứ. Phụ-hoàng ban chỉ cử phò mã Trần Thủ-Huy với công chúa Đoan-Nghi làm chánh phó sứ, lại nhờ hai trong Đại-Việt ngũ tuyệt là y-sư Phạm Tử-Tuệ, thần-tiễn Trần Tử-Giác xung vào sứ đoàn. Ngoài ra còn có Vỵ-xuyên ngũ tiên giả làm tỳ nữ đi theo nữa.
Nghe Long-Xưởng tâu, nhóm quần thần chủ yên phận hưởng thụ nghĩ thầm :
- Cái vụ này ắt là thái-tử chủ xướng, chứ ông vua nào có thiết tha gì đến quốc sự đâu. Hèn gì, cách nay hơn năm, sau lễ cưới của công chúa Đoan-Nghi với quốc-công Thủ-Huy, thì thái-tử loan báo rằng cử phò mã với công chúa làm khâm sai đại thần, mang Thượng-phương bảo kiếm đi kinh lý khắp Đại-Việt. Khâm-sai đặc mệnh được toàn quyền xử tử, cách chức bọn tham quan, bọn cường hào ác bá. Hồi ấy ai cũng nghi ngờ rằng Thủ-Huy đang giữ trọng trách tổng-lĩnh Thiên-tử binh, là cánh tay mặt của thái-tử, mà sao thái-tử lại cho rời Thăng-long ? Bây giờ mình mới hiểu ! Hà, nay mai ông vua con này lên ngôi, ắt có nhiều cải cách, ta khó mà ngồi yên hưởng thụ được.
Long-Xưởng tuyên chỉ :
- Thỉnh phò mã, công chúa vào.
Thủ-Huy, Đoan-Nghi vào điện, trong khi hơn trăm nhạc công tấu, ca bản Viễn-hành quy triều (đi xa về chầu vua).
Tự Thiên-tử sở,
Thiên-tử mệnh chi.
Chấp sự hữu khác,
Đức-âm mạc vi.
Chưng tai ! Mao sĩ,
Bạc ngôn hữu chi.
Duy kì hữu chi,
Bi nhiên lai ti.
Bảo hữu quyết thổ,
Bang gia chi ki.

Dịch:
Tựnơiđứcvua,
Càn-nguyên điện đại học sĩ Trần Thủ-Huy tâu :
- Thần Thiếu-bảo, Trung-nghĩa thượng tướng quân, lĩnh Càn-nguyên điện đại học sĩ, kiêm Thượng-thư lệnh, tổng-lĩnh Thiên-tử binh, tước Côi-sơn công kính tâu.
Nhà vua tuyên chỉ :
- Phò mã bình thân .
Long-Xưởng kéo ghế cho Thủ-Huy, Đoan-Nghi ngồi. Vừa ngồi xuống, đôi mắt Thủ-Huy chạm ngay phải nhãn quang Tuyên-phi Thụy-Hương. Cả hai cùng ngỡ ngàng, cùng bồi hồi, cùng rung động thực mạnh. Nhưng mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Thủ-Huy thì nghĩ thầm:« Mình với Thụy-Hương đã qua biết bao nhiêu hạnh phúc, biết bao nhiêu kỷ niệm mặn nồng. Vì mình không chủ trương được, mà ví dù có chủ trương được, thì cũng không có quyền chủ trương ; thành ra mình phụ nàng. Nhưng thôi, may mắn cho nàng, đã trở thành Tuyên-phi » .
Trong khi đó Thụy-Hương nghĩ :« Người tình của mình ngồi ngay trước mắt mình, mà hóa ra nghìn trùng cách biệt. Cái tình là cái chi chi, thực khó hiểu. Chính mình chăng lưới bắt con nai Long-Xưởng, con nai Chính-long Bảo-ứng, mà sao mình vẫn không quên được Thủ-Huy ».
Trong khi đó, tiếng Thủ-Huy vẫn đều đều :
- Tuân chỉ phụ-hoàng, thần nhi dẫn sứ đoàn, giả làm khách thương vượt biển sang Kim-quốc. Nay sứ mệnh đã hoàn thành, xin tấu trình. Kim chúa có gửi quốc thư, và phương vật tặng phụ hoàng và mẫu hậu. Thần nhi kính cẩn dâng lên.
Thủ-Huy dâng quốc thư. Nhà vua liếc qua, rồi trao cho Long-Xưởng. Công chúa lại dâng lên hai cái áo ngự hàn bằng da điêu, cúc bằng vàng. Nhà vua tiếp lấy mặc thử, lông điêu bóng mượt thực đẹp. Còn một chiếc, ngài truyền mang vào nội cung cho hoàng-hậu.
Liếc mắt nhìn ngang, thấy Thụy-Hương ngồi trên chiếc ghế ở phía trái ngai vàng, tim Thủ-Huy đập đến bình một cái.
- Sứ đoàn dùng đường biển.
Thủ-Huy kể : Tất cả xuống một chiếc thuyền buôn của Tống, tại bến Vỵ-hoàng thuộc trấn Thiên-trường. Đây là một thương thuyền mà thủy quân tịch thu của bọn gian thương Tống. Phải nửa tháng, thuyền mới ra khỏi lãnh hải Việt. Khi thuyền qua eo biển đảo Hải-Nam thì gặp thủy quân Tống. Họ kiểm soát, thấy thuyền là thuyền Tống, dưới thuyền chở nhiều hương liệu, cá khô, tôm khô, đồ đồng, đồ gỗ, thì họ tin ngay. Nhất là họ thấy trong đoàn ai cũng biết nói tiếng Hoa bằng giọng Hàng-châu, họ càng tin hơn. Thuyền tiếp tục hướng Bắc mà đi. Hơn hai tháng sau, thì tới Liêu-Đông. Thuyền gặp thủy quân của Kim. Sứ đoàn nói cho họ biết rõ nhiệm vụ. Họ hộ tống, đổ bộ lên bờ, rồi quan trấn thủ Liêu-Đông cấp xe, ngựa, sai thiết kỵ hộ tống về Yên-kinh. Tới Yên-kinh, sứ đoàn được quan Lễ-bộ tham tri Gia-luật Sử-tri tiếp đón, cho ở Nam-thanh cung. Gia-luật Sử-tri tiết lộ cho thần nhi biết, triều đình Kim-quốc đang nghị về việc gửi sứ sang Đại-Việt, Đại-Lý. Mục đích việc gửi sứ, là bàn kế liên binh đánh Tống. Kim sẽ cho quân đánh từ Bắc xuống, Đại-lý đem quân vượt Kim-sa giang tiến đánh Tứ-xuyên, rồi chiếm Đông-xuyên, Tây-xuyên. Còn Đại-Việt thì đem quân tiến chiếm Quảng-Đông, Quảng-Tây, Kinh-Hồ 0.
Nhóm đại thần chủ chiến đưa mắt nhìn nhau, trong cái nhìn, ngụ ý :
- Thì ra Kim cũng nghĩ như Đại-Việt. Vụ này có cơ thành công đây.
- Hai ngày sau sứ đoàn được triều kiến.
Lễ-bộ thượng thư Ngô Lý-Tín hỏi :
- Thưa Thiếu-bảo, triều đình Kim họ nói tiếng gì ? Về lễ nghi có giống Đại-Việt không ?
- Các đại thần lớn tuổi, thì họ nói hai thứ tiếng, một thứ tiếng của bộ lạc Nữ-chân, và tiếng Hoa vùng Yên-kinh. Còn các đại thần trẻ, thì họ chỉ nói tiếng Hoa. Lễ nghi của họ rất giản dị. Khi thiết triều, các quan đều được ngồi ghế. Sau khi thiết triều, thì vua, hoàng hậu , phi tần, công chúa với các quan, vợ các quan cùng ngồi ăn yến. Họ không ngồi trên sập như mình, mà ngồi ghế, còn thực vật thì để trên bàn tròn. Họ cũng không ngồi theo thứ bậc, mà ai thích ngồi đâu thì ngồi. Sau khi ăn yến, lại cùng nhau xem hát.
Long-Xưởng vẫy tay cho Thủ-Huy ngừng lại, rồi hỏi quần thần :
- Không biết các vị có cao kiến gì không ?
Tể-tướng Đỗ An-Di hỏi :
- Thưa phò mã, nghe nói người Nữ-chân theo chế độ mẫu hệ, không biết sự thực ra sao ?
- Không phải thế ! Họ trọng đàn bà, cho nên khi nhà vua thiết triều, thì thái-hậu, hoàng-hậu cũng tham dự. Trên toàn quốc, nam, nữ cũng phải luyện tập võ nghệ, học xung phong hãm trận, tổ chức hơi giống thời Lĩnh-Nam của ta. Có điều hơi khác là thời Lĩnh-Nam thì cả nam binh, nữ binh đều ra trận. Còn Kim thì nữ binh giữ nhiệm trấn thủ canh phòng, bảo vệ. Khi nghe nói trong sứ đoàn Đại-Việt có công chúa, với Vỵ-xuyên ngũ tiên nên hoàng hậu truyền mời vào hậu cung khoản đãi, và đàm đạo.
- Tổ chức nội cung của Kim ra sao ?
Long-Xưởng hỏi Đoan-Nghi : Nghi muội tâu lên để phụ hoàng cùng triều đình biết.
- Tâu phụ hoàng, nội cung Kim có tổ chức hơi khác nội cung Tống, cái khác ấy lại giống nội cung Đại-Việt thời đức Thái-tổ, Thái-tông. Vua có ba bà hoàng-hậu, hoàng hậu có toàn quyền trong nội cung như tuyển các vương phi cho hoàng tử, tuyển cung nga, tuyển thái giám, ban chế bổ nhiệm nữ quan. Một điều hơi khác Đại-Việt ta, là các hoàng hậu, phi tần đều luyện võ, học binh pháp, hành binh, xung phong hãm trận. Ngay khi thần nhi vào cung, thì Chính-Đức, Nhất-Đức, Nguyên-Đức hoàng hậu cùng họp lại khoản đãi. Các bà hỏi thăm rất kỹ tình hình Đại-Việt.
Tuyên-phi Từ Thụy-Hương gật đầu tỏ vẻ hài lòng :
- Trước đây tôi cứ phân vân mãi về việc Kim chỉ là một bộ tộc kém văn minh, so với tộc Tống với Liêu, thế mà họ thắng Tống, thắng Liêu. Bây giờ tôi mới hiểu rằng họ biết trọng phụ nữ, như thời vua Trưng của ta. Ta phải học lấy cái hay của họ.
Thụy-Hương vừa dứt lời, thì bọn chủ hòa như Tô Hiến-Thành, Ngô Lý-Tín, Lý Kính-Tu, Trần Trung-Tá mỗi người một câu tỏ vẻ phụ họa theo nàng, làm Thủ-Huy, Đoan-Nghi kinh ngạc không ít.
Nguyên khi nhà vua ban chỉ phong cho Từ Thụy-Hương làm Tuyên phi, thì từ triều đình đến hậu cung đều nổi lên những chống đối mãnh liệt. Hoàng-hậu gặp nhà vua, tâu cho ngài biết rất chi tiết những gì diễn ra ở Đông-cung giữa Thụy-Hương với Thủ-Huy, Long-Xưởng. Bà kết luận : Về danh nghĩa thì Thụy-Hương là cung nữ của Long-Xưởng, tức con dâu của nhà vua. Nhà vua không thể làm chuyện trái luân thường. Còn triều đình thì chống đối về tư cách của vú Mai, về việc vú Mai mang thai mà không biết cha của Thụy-Hương đích thực là ai. Lập tức Thụy-Hương soạn ngay một bài dụ trả lời các quan, trao cho nhà vua ký, rằng trước đây vua Thánh-tông từng đem một thôn nữ về cung, sau thành Linh-Nhân hoàng thái hậu. Thì nay, sao lại chống đối nhà vua phong quận chúa Thụy-Hương làm Tuyên-phi ? Nàng từng lập rất nhiều công với triều đình. Rằng võ công của nàng rất cao, văn chương cùng kiến thức mênh mông ! Nàng lại tâu với nhà vua rằng việc nàng với Thủ-Huy, Long-Xưởng là sự thực. Trước khi trao thân cho ngài, nàng đã từng tâu hết ngọn nguồn, xin ngài đừng ép nàng. Nay sự đã ra thế này, thì chỉ mình nhà vua có thể dập tắt dư luận mà thôi. Việc dập tắt đó rất dễ, chỉ cần trong một buổi thiết đại triều, nhà vua khẳng định rằng : khi Tuyên-phi Thụy-Hương dâng hiến cho ngài, ngài thấy rõ ràng rằng Tuyên-phi còn là một xử nữ. Ai còn nói ra, nói vào về đức hạnh của nàng, sẽ bị giết cả nhà.
Thế là không ai dám chống đối nữa. Hoàng-hậu, quần thần đều phải ngậm tăm, vì có tâu gì chăng nữa, nhà vua cũng không nghe, trong khi sự đã rồi. Nàng lại soạn chế, tuyển quận chúa Bùi Trang-Hòa làm chính phi cho Long-Xưởng. Lễ cưới được tổ chức ngay sau đó. Nàng còn tâu xin nhà vua cho mẹ nàng giữ chức trưởng ty Thượng-thiện, một chức vụ rất nhỏ, nhưng cực quan trọng, trông coi việc nấu nướng cho nhà vua ăn hằng ngày, làm yến ban cho các quan, sứ thần. v.v. Thế là vú Mai đương nhiên dọn vào ở trong cung của con. Ngày đêm bà bầy mưu thiết kế cho nàng.
Cũng kể từ khi Thụy-Hương được phong làm Tuyên-phi, hằng ngày nàng làm việc cạnh nhà vua như một đại học sĩ. Đấy là bề ngoài, chứ thực ra, mọi tấu chương đều do nàng đọc, phê chuẩn. Còn nhà vua thì chỉ duyệt rồi ký mà thôi. Mọi quyền hành của nhà vua trước đây chuyển sang Đông-cung, thì nay lại trở về với nhà vua.
Long-Xưởng, với Đông-cung triều chỉ còn là cái bóng mờ. Nhân đó phe chủ hòa lại xúm vào mà xu phụ Thụy-Hương. Những ông đại thần phe này đa số là nho gia già nua, mũ cao, áo rộng. Chính các ông, trước đây từng chống đối vú Mai với Thụy-Hương, thì bây giờ lại ra luồn vào cúi với nàng, để giữ được cái chức, cái tước. Họ luôn dâng biểu, làm thơ làm từ ca tụng nàng : Nào là tài trí không thua tể tướng thời Lĩnh-Nam Nguyễn Phương-Dung. Nào Tuyên-phi có phong cách mẫu nghi thiên hạ như Linh-Nhân hoàng thái hậu.v.v.
Những khi nhà vua thiết triều, quần thần nghị sự có rất nhiều điều trái với châu phê của Thụy-Hương, nhà vua cũng ừ hự cho qua ; thành ra cùng một việc mà có hai lối giải quyết khác nhau. Thụy-Hương rất bực mình về việc này, nàng trách cứ nhà vua. Nhà vua đề nghị nàng nên dự các buổi thiết triều, để đối đáp với các đại thần. Nàng bèn soạn một chỉ dụ, căn cứ vào tích xưa, vua Thánh-tông cho Ỷ-Lan thần phi dự các buổi thiết triều, nghị quốc sự, nay ngài cũng cho Tuyên-phi Thụy-Hương cái quyền ấy.
Sau khi chỉ dụ ban ra, Thụy-Hương đường đường, chính chính tham dự các buổi thiết triều cạnh nhà vua. Thế là, trong cung bao nhiêu tấu chương, nàng giải quyết hết. Khi thiết triều nàng ban chỉ, quyết định chính sách. Trong triều, ngoài dã bàn tán thì thầm rằng Tuyên-phi làm vua, chứ không phải Chính-long Bảo-ứng hoàng đế làm vua. Bọn nho thần chủ hòa càng được dịp nịnh hót, tâng bốc nàng hết lời.
Những biến cố này xẩy ra trong khi Thủ-Huy đi sứ, thành ra quốc công với công chúa Đoan-Nghi không biết gì. Nay, sau hơn năm trở về, hai người thấy Thụy-Hương hành xử như ... một ông vua đầy quyền hành, thì ngạc nhiên không ít.
Thái-tử Thái-phó, lĩnh Lại-bộ thượng thư Lý Kính-Tu hỏi công chúa Đoan-Nghi về việc đối đáp trong cuộc nghị sự với các bà hoàng hậu Kim :
- Khải điện hạ, không biết điện hạ trả lời thế nào ?
- Thượng-thư sợ tôi tiết lộ cơ mật của Đại-Việt chăng ?
- Thần sợ điện hạ không quen đối đáp với những mánh lới trong phép dụng gián...
- Này Thượng-thư ơi ! Ta đi sứ Kim với mục đích gì ? Ta cầu họ hay họ cầu ta ? Dĩ nhiên ta cầu họ. Khi ta cầu họ thì trước hết ta phải mua lòng tin của họ trước. Vì vậy ta phải thực thà. Tại sao ? Các bà hoàng hậu Kim đều tham dự chính sự. Khi Kim triều chuẩn bị gửi sứ sang ta, thì tế tác của họ đã biết hết tình hình ta ; bọn tế tác đó đã tâu về triều, thì các bà hậu đương nhiên biết hết rồi. Ta dấu làm gì ? Vô ích.
Công chúa tâu tiếp :
- Ngay chiều hôm ấy , nhà vua, tể tướng, Binh-bộ thượng thư, ba bà hoàng hậu đãi yến thần nhi với phò mã trong cung. Sau yến là cuộc nghị sự mật. Hai bên bàn với nhau tới canh ba mới chấm dứt. Các khoản hai bên đồng ý với nhau gồm :« Đại-Việt, Đại-lý, Đại-Kim cùng ra quân đánh Tống. Đại-Kim sẽ giữ nhiệm vụ thuyết phục Đại-lý hợp tung, liên binh với nhau. Sau khi Tống bị diệt, thì giang sơn Tống chia làm ba.
Vì vậy :
- Phía Đại-lý đem quân vượt Độ-khẩu tiến chiếm Thành-đô, rồi thuận thế đánh Đông-xuyên, Tây-xuyên. Ba vùng này vĩnh viễn thuộc Đại-lý.
- Phía Kim, đem quân vượt sông đánh xuống Nam-kinh, rồi tỏa ra chiếm tất cả châu quận còn lại.
- Phía Đại-Việt đem quân vượt biên tiến chiếm Quảng-Đông, Quảng-Tây, Hồ-Nam rồi Trường-sa. Tất cả các vùng này đều thuộc Đại-Việt.
Ranh giới Đại-Kim với Đại-Việt lấy sông Trường-giang làm giới hạn. Đại-Kim, Đại-Việt là hai nước bạn với nhau. Hằng năm, hai bên gửi sứ sang thông hiếu, và tặng phương vật.
Về thời gian ra binh, ấn định là ngày mười rằm tháng tám, năm Nhâm-Thìn (1172) ».
Đối với vấn đề liên binh Đại-Kim, Đại-lý đánh Tống, nhà vua không có một ý niệm gì. Trong thâm tâm ngài thì: Phía Bắc cứ để nguyên tình trạng như vậy, ba năm tiến cống một lần. Phía Nam, Chiêm-thành ; phía Tây, Lão-qua muốn làm gì cũng bỏ qua, miễn sao họ không xâm phạm mình, để cho mình yên ổn là được rồi. Tuy vậy, thấy Long-Xưởng, Đoan-Nghi, Thủ-Huy định làm những việc mà ngài coi như vá trời, không ngờ lại thành công. Ngài hỏi quần thần :
- Chư khanh nghĩ sao ?
Đám quan lại thuộc phe ù lì chỉ chờ có thế, người nào cũng muốn lên tiếng chống đối vụ này, nhưng không ai có can đảm. Họ đưa mắt nhìn người cầm đầu là Tô Hiến-Thành. Bất đắc dĩ Tô phải bước ra :
- Thần Tô Hiến-Thành, Kiểm-hiệu Thái-úy, Đồng-bình chương-sự, Trung-vũ quân tiết độ sứ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Chiêu-văn quan đại học sĩ, Giám-tu quốc sử, Đăng-châu quốc công kính tâu.
Long-Xưởng tuyên chỉ :
- Quốc công bình thân.
- Khổng-tử nói rằng : Di bất khả loạn Hoa. Nghĩa là các sắc dân di địch không thể nào xâm chiếm nổi Trung-nguyên. Từ sau khi nhà Tấn bị suy vong, thì xẩy ra cái vạ Ngũ-hồ loạn Hoa. Năm sắc dân phía Bắc vượt Vạn-lý trường thành vào chiếm Trung-nguyên. Họ có sức mạnh, thì họ chiếm được. Nhưng chiếm được rồi, họ bị người Hoa đồng hóa, rút cuộc năm tộc Hồ bị mất giống. Nay Kim cũng như Liêu, nguyên là những bọn rợ sống ở Quan-ngoại 0, xâm lấn Trung-nguyên. Liêu gốc là rợ Khất-đan, Kim gốc là rợ Nữ-chân. Chúng không có phong hóa, chẳng có văn hiến, vì vậy khi dùng sức mạnh chiếm được Trung-nguyên, thì bị Trung-nguyên đồng hóa. Trước đây Liêu cai trị Hoa-Bắc, nhưng trải hơn trăm năm thì tộc Khất-đan không còn nữa, chúng hóa thành người Hoa hết. Kim dùng sức mạnh chiếm được Liêu và Hoa-Bắc, chúng cai trị Trung-nguyên mới có mấy chục năm, mà lớp trẻ đã bị đồng hóa rồi. Như phò mã nói : Các quan trẻ chỉ nói được tiếng Hoa, mà không nói được tiếng Nữ-chân. Đến đây thần thấy Đại-Việt mình có mấy cái may.
Hiến-Thành ngừng lại một lát rồi tiếp : Cái may thứ nhất là vào thời vua Trưng. Bấy giờ nếu như công chúa Gia-Hưng đánh chiếm được Trung-nguyên, hay dù không chiếm được Trung-nguyên, nhưng ta tái chiếm Nam-hải, Quế-lâm, Tượng-quận, rồi cai trị thì... giờ này chúng ta đều thành người Hoa, nói tiếng Hoa, chứ đâu có còn là người Việt, nói tiếng Việt nữa ? Cái may thứ nhì, là vào thời đức Thái-tôn, sau khi ta giúp Nùng Trí-Cao chiếm vùng Nam sông Trường-giang, lập nước Đại-Nam. Giả như Trí-Cao không bị Địch-Thanh đánh bại, Đại-Nam sát nhập vào Đại-Việt, thì giờ này Đại-Việt cũng chung số phận của Ngũ-hồ, trở thành châu quận của Trung-nguyên.
Nghe Hiến-Thành nói, quần thần đều đưa mắt nhìn Long-Xưởng. Vì từ gần mười năm qua, Long-Xưởng cùng một số đại thần trẻ, chủ trương liên binh với Kim, Hạ, Đại-lý đánh Tống, đòi lại vùng đất Lưỡng-Quảng, Hồ-Nam của tộc Việt. Việc sai Thủ-Huy đi sứ nằm trong sách lược đó. Nhưng nay Thủ-Huy vừa mới thuật sơ về Kim triều, mà Tô Hiến-Thành đã lên tiếng công kích. Long-Xưởng nổi giận cành hông, vương đưa mắt nhìn công chúa Đoan-Nghi, ngụ ý : Em trả lời ông già ù lỳ này đi.
Công-chúa Đoan-Nghi phóng tầm mắt nhìn Tô Hiến-Thành một cái. Hồi này nội công Âm-nhu của nàng đã tiến tới tuyệt đỉnh, hàn quang chiếu ra, làm Tô rùng mình thoái lui hai bước. Công chúa lắc đầu :
- Tô Thái-úy ơi ! Chết thực, Tô thái-úy hiện là lão thần số một, số hai của bản triều, mà người kiến giải như vậy thì thực tôi không biết phải phê phán như thế nào. Thái-úy đem một nước lớn như Đại-Việt ta, vốn có văn hiến, phong tục, tiếng nói riêng biệt, khác hẳn với Trung-nguyên ra, so sánh với một bộ tộc như Khất-đan, Nữ-chân thì còn trời đất nào nữa ?
Công-chúa nói chậm lại :
- Thái-úy nên biết rằng xa xưa là Ngũ-hồ, gần đây là Khất-Đan, là Nữ-chân ..., họ đều thuộc những bộ tộc thiểu số của Trung-quốc, họ là người Trung-quốc. Khi họ là người Trung-quốc, thì họ nói tiếng Hán, pha lẫn một số tiếng Khất-đan, Nữ-chân. Lúc họ chiếm được toàn thể Trung-nguyên, họ di cư về vùng có nhiều người Hán, thì họ nói tiếng Hán là lẽ thường. Tỷ như bên ta, tộc Thái, tộc Mèo, tộc Nùng, tộc Lô-lô, họ là các trang động Bắc-cương, nhưng họ đều là người Việt, họ nói tiếng Việt, hoặc tiếng Việt pha lẫn tiếng riêng của họ. Nếu như họ về vùng đồng bằng sinh sống, thì đương nhiên họ phải nói tiếng Việt, con cháu họ sẽ chỉ nói tiếng Việt, đó là lẽ thường.
Các quan nhìn nhau nghĩ thầm :
- Chí của cô công chúa này thực rộng, bỏ xa mấy ông già lo hưởng thụ, lười biếng.
- Còn như Thái-úy dẫn lời Khổng-tử Di bất khả loạn Hoa, rồi giải nghĩa rằng : Man di không thể chiếm nổi Trung-quốc, thì đó là Thái-úy nói chứ không phải Khổng-tử nói. Từ xưa đến giờ, các danh gia đều giải nghĩa câu này như sau : Tộc Hoa vốn là tộc có phong hóa, có văn hiến, có pháp độ. Những thứ đó giúp cho việc giáo hóa con người. Các sắc dân di, tức sắc dân thiếu văn minh không thể, không nên phá bỏ những thứ đó ; chứ Khổng-tử không chủ ý nói Di là sắc dân Khất-đan, Nữ-chân...vì đương thời Khổng -tử, các sắc dân Khất-đan, Nữ-chân chưa kết hợp thành. Chính ngay Khổng-tử cũng không hề dùng chữ di để chỉ tộc Việt mình.
Công chúa hỏi Tô Hiến-Thành :
- Tôi nói như vậy có đúng không ?
Hiến-Thành im lặng.
- Còn như, Tô thái-úy cho rằng ta đòi được cố thổ, rồi dân ta sẽ nói tiếng Hoa, và thành người Hoa. Điều này thực là một điều tự ty hết sức ! Thưa Tô thái úy, nếu ta đòi được các vùng tộc Việt, ta vẫn để cho dân chúng muốn nói tiếng gì thì nói. Nhưng tiếng chính thức vẫn là tiếng Việt. Bấy giờ những người Hoa gốc Việt sẽ nói tiếng Việt. Như vậy sao lại gọi là mất nước ?
Thái-tử thái-phó, lĩnh Lại-bộ thượng thư Lý Kính-Tu bước ra, xá Long-Xưởng :
- Khải điện hạ, Đại-Việt ta liên kết với Kim, như vậy là từ nay, ta không còn xưng thần với Tống nữa sao ? Một chư hầu, đã mấy đời được thánh Thiên-tử phong vương tước, ngồi tọa trấn Nam-phương, bây giờ bỏ đấng quân phụ, đi theo bọn rợ Nữ-chân thì sao có thể cai trị được nước? Từ đời Tam-hoàng, Ngũ-đế đến giờ chưa có vị vua nào bỏ một vị Thiên-tử, liên kết với một nước di địch. Thần mong điện hạ xét lại.
Bọn văn quan chủ hòa nghe Kính-Tu khải, đều sáng mắt ra, tỏ vẻ khoan khoái, đồng ý với những lời ông ta phát biểu. Nghĩa-Thành vương Lý Long-Căn, thái-tử Lý Long-Xưởng, thêm các hoàng tử Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa cùng bật lên tiếng hừ, rồi đưa mắt nhìn Thủ-Huy với Đoan-Nghi. Trong y muốn hai người này trả lời Lý Kính-Tu.
Trong khi đó Long-Xưởng mỉm cười. Cái cười của người thiếu niên này bầy tỏ mối cảm khái, thương xót cho một nho thần, chỉ biết sách vở, giống như con ngựa kéo xe, bị che mất hai bên mắt :
- Được rồi, trước đây vì muốn bảo mật, mà cô gia không đem ra triều nghị về việc kết hiếu với Kim. Chính sách đối ngoại của ta, từ trước đến giờ, triều đình vẫn chưa hoàn toàn đồng ý với nhau. Đây là một vấn đề sống còn của xã tắc. Các vị đều là đại thần, ai cũng có trách nhiệm. Vậy các vị có cao kiến gì, thì phát biểu. Sau đó, không ai có quyền bàn ra, nói vào nữa. Cô gia hoàn toàn không phát biểu ý kiến. Nào xin các vị phát biểu.
Gì chứ luận bàn về sách vở, thì đám nho thần chủ hòa chuyên nhai văn, nhấm chữ này rất giỏi. Nghe Long-Xưởng nói, họ cùng nhìn nhau, tỏ ý mừng rỡ, vì sẽ được xử dụng mớ kiến thức trong sách vở mà họ đọc được.Tô Hiến-Thành đưa mắt nhìn Dao-thụ Thái-phó Ngô Lý-Tín, lĩnh Lễ-bộ thượng thư, người mà cứ mở miệng ra là dẫn Tứ-thư, Ngũ-kinh.
Ngô bước ra, cung tay :
- Khải điện hạ ! Kinh-thư, thiên Thái-thệ viết : « Trời sinh ra dân, đặt ra vua, đặt ra thầy, đều là để giúp Thượng-đế, vỗ về yên dân bốn phương ». Sách Tả-truyện cũng viết : « Làm chủ thiên hạ là trời. Nối trời là vua ». Kinh Thư, thiên Vũ-cống gọi thế giới ta ở là Thiên-hạ. Thiên-hạ chia làm chín châu. Đất Thiên-hạ chia làm năm cõi, gọi là Ngũ-phục, ở giữa là kinh thành. Tiếp với bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc của kinh thành 500 dặm (250 km) là cõi Điện-phục.
Kiến-Ninh vương Long-Minh gật đầu, mỉa mai :
- Phải rồi, phía trong Điện-phục là Giao. Phía trong Giao 100 dặm là Quốc.Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nơi vua ở. Thưa Thái-phó có đúng thế không ?
Lời mỉa mai Ngô Lý-Tín của Long-Minh làm Long-Xưởng, Thủ-Huy suýt bật cười. Nhưng ông ta không biết. Trái lại ông ta còn vui vẻ vì được dịp xả ra những gì ông ta đã thuộc lòng. Ông ta tiếp :
- Quả như điện hạ phán. Trong Thiên-hạ, nước chính giữa là Trung-quốc. Vua của Trung-quốc là thiên-tử . Các nước chư hầu phải quy phục.
Kiến-An vương Long-Đức thấy ông quan văn này không hiểu ý nghĩa châm biếm của Long-Minh, trong ý nghĩ người thiếu niên nảy ra một cách châm biếm : Cứ hỏi cho ông ta nói, nói đến mệt hết hơi thì thôi. Vương cười :
- Thưa Thái-phó, Thái-phó nói Ngũ-phục, thế còn bốn phục kia là gì ?
- Cõi thứ nhì, ngoài Điện-phục là Hầu-phục, cách Điện-phục 500 dặm. Trong Hầu-phục thì cách Điện-phục 100 dặm là thái ấp phong cho các khanh đại phu ; xa hơn 200 dặm là thái ấp phong cho chư hầu tước Nam ; còn lại 300 dặm là thái ấp phong cho các chư hầu tước Công, Hầu, Bá, Tư û. Ngoài Hầu-phục là Tuy-phục. Ở cõi Tuy-phục, trong 300 dặm gần là nơi truyền bá văn chương, giáo hóa ; 200 dặm tiếp là nơi tổ chức võ bị bảo vệ nước. Ngoài cõi Tuy-phục là cõi Yêu-phục. Trong 300 dặm gần nhất cho dân rợ Đông-di. Còn 200 dặm là cõi đầy những kẻ có tội. Cõi cuối cùng là cõi Hoang-phục, cách Yêu-phục 500 dặm. Trong 300 dặm dành cho rợ Nam-man. Còn 200 dặm để dầy những kẻ có tội nặng. Như vậy khắp Thiên-hạ đều là Trung-quốc. Hay nói rõ hơn : Trung-quốc là cả Thiên-hạ.
Đến đây thấy Ngô Lý-Tín có vẻ mệt mỏi, Thủ-Huy biết, nếu ông ta nói nữa thì sẽ lẫn. Khi lẫn thì không làm chủ được ngôn ngữ. Vì vậy công hỏi tiep cho lão mệt :
- Thái-phó mới dẫn giải về Ngũ-phục trong kinh Thư. Vậy tiếp theo kinh Thư, cái lý về Trung-quốc với Thiên-hạ là một có chi khác lạ không ?
Quả nhiên Ngô mắc mưu. Ông vừa thở hổn hển vừa nói :
- Sách Thuyết-văn giải tự nói : « Xét cổ thời, bờ cõi thuộc nội canh, đô ở trong giao, chỗ chư hầu được thực ấp gọi là quốc ». Mạnh-tử, thiên Ly-lâu nói : « Thiên-hạ là quốc gia. Gốc của Thiên-hạ là ở quốc. Gốc của quốc là ở gia ». Cho nên suốt mấy nghìn năm qua, trải Tam-hoàng, Ngũ-đế, khắp thiên-hạ này đều lấy nằm lòng, trăm nước đều hướng về Trung-nguyên : « Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Xuất thổ chi tân, mạc phi vương thần ».Nghĩa là : Khắp dưới gầm trời, không đâu không là đất của vua. Tất cà dân trên mặt đất, không ai không là tôi tớ vua. Kinh Thư thiên Quán-thích từng thuật lời Chu-công Đán rằng : « Ta muốn hoàn thành công nghiệp của Văn vương mãi mà không nản. Công nghiệp đó là che chở khắp cho dân, đem đức tới góc biển hay chỗ mặt trời mọc, không đâu là không thần phục ». Trong Sử-ký, Tư Mã-Thiên thuật lời thừa tướng Lý Tư, nói với vua Thủy-Hoàng : « Ngày xưa đất Tần chẳng qua nghìn dặm, nay nhờ bệ hạ anh linh sáng suốt, nên bình định được bốn biển, đuổi được man di. Mặt trời mặt trăng chiếu tới đâu thì nơi ấy phải quy phục.»
Đến đây Ngô Lý-Tín vừa thở hổn hển vừa nói. Thủ-Huy dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Kiến-Tĩnh vương Long-Hòa : « Xin điện hạ đặt thêm câu hỏi Ngô Thái-phó về nguồn gốc chữ Hoa-Hạ, để ông có dịp trổ tài ».


HOMECHAT
1 | 1 | 558
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com