watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
13:58:0026/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 9 - Anh Hùng Đông A - Dựng Cờ Bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Chương 16-30 - Trang 7
Chỉ mục bài viết
Tập 9 - Anh Hùng Đông A - Dựng Cờ Bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Chương 16-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Tất cả các trang
Trang 7 trong tổng số 36



Chương 19a

Giai Nhân Tô, Hàng

Hôm ấy, sau một ngày duyệt binh về, Long-Xưởng họp các em với Thủ-Huy tại ngự thiện đường để cùng ăn cơm trưa. Mục đích, sau bữa ăn, anh em cùng vào cung vấn an phụ hoàng, mẫu hậu, rồi lên đường tiến quân.
Cơm xong, anh em đang vui đùa với nhau thì Thủ-Huy ghé miệng vào tai công chúa Đoan-Nghi nói nhỏ :
- Trên nóc điện có hai gian nhân nghe trộm.
- Muội khám phá ra từ lâu rồi. Trong hai tên, thì một tên già, một tên trẻ. Hai tên này nội công rất cao thâm. Chúng thở ra nhỏ như tơ. Không biết chúng thuộc môn phái nào ?
- Nội công chúng hơi giống nội công nhà mình. Để anh bảo Tăng Khoa lôi cổ chúng xuống.
Long-Xưởng cũng đã khám phá ra hai người nghe trộm. Vương để chung rượu xuống bàn rồi nói lớn :
- Cao nhân phương nào giá lâm Đông-cung, sao không xuống đây cùng anh em tiểu vương đồng ẩm, đàm văn, luận võ, mà núp trên nóc điện chi cho nhẹ thể ?
Nói rồi vương cầm chung rượu tung lên nóc nhà. Chung rượu xuyên thủng mái ngói ra ngoài.
Tăng Khoa lạng người một cái, y đã ra ngoài sân. Trên nóc điện bốn thị vệ đang bao vây hai người bịt mặt. Một người đàn ông to lớn, uy nghi mặc áo vàng, một người đàn bà nhỏ bé mặc áo xanh. Chỉ hai chiêu, người áo xanh đã đánh bay bốn thị vệ rơi xuống sân. Lối đánh rất đặc biệt, tuy dũng mãnh, nhưng nhẹ nhàng, giống như hai sư huynh sư đệ đồng môn tập luyện vậy.
Tăng Khoa thấy hai người không có ác ý, hầu tung mình lên nóc cung, chắp tay hướng người hai người:
- Thái-tử có lời thỉnh nhị vị xuống uống chung rượu.
Trong khi vái, Tăng vận kình lực ra hai tay. Người áo vàng lơ đãng nhìn trời. Trong khi người áo xanh phất tay một cái, kình lực phát ra như sóng vỗ. Bình một tiếng, Tăng Khoa cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra những tiếng vo vo không ngừng. Hầu phải lùi liền ba bước để hóa giải kình lực.
Long-Xưởng kinh ngạc không ít, vì suốt mấy năm qua Tăng Khoa được Thủ-Huy chỉ dạy không ngừng cùng với Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa. Hơn nữa Tăng luyện tập rất cần cù. Có thể nói, bản lĩnh của Tăng hiện không thua vương làm bao. Trong các võ tướng của triều đình, rất hiếm người đấu ngang tay được với Tăng.
Long-Xưởng đưa mắt ra hiệu cho Thủ-Huy, rồi cả hai cùng tung mình lên nóc điện. Long-Xưởng cung tay :
- Cao nhân giá lâm, không biết có gì dạy bảo ?
Người áo xanh hất hàm hỏi :
- Phải chăng người là Lý Long-Xưởng, được phong tước Hiển-Trung vương ?
- Quả đúng như cao nhân nói.
Người áo xanh lại nhìn Thủ-Huy :
- Phải chăng người là cháu nội của đại hiệp Trần Tự-Kinh ?
Thấy người này có vẻ coi thường Long-Xưởng, mà lại tỏ ra kính trọng ông nội mình. Thủ-Huy cung tay :
- Dường như cao nhân có quen biết với ông nội vãn bối ?
Người áo xanh không trả lởi, y phát một chiêu chưởng đánh thẳng vào mặt Thủ-Huy. Kình lực chưa ra hết mà Thủ-Huy đã cảm thấy ngộp thở. Công kinh hãi, vội xuất chiêu Đông-hải lưu phong đỡ. Ầm một tiếng, người áo xanh bật lui liền ba bước, hai tay xoa vào nhau tỏ vẻ đau đớn . Còn Thủ-Huy bật tung người lên cao, ngói trên nóc điện bay khắp bốn phía. Tiếng chưởng chạm nhau, tiếng ngói rơi, còn có mấy tiếng la hoảng của Đoan-Nghi, Trang-Hòa và anh em Long-Xưởng. Bởi hiện công lực Thủ-Huy có thể nói là cao thâm nhất trong các võ quan của triều đình, thế mà dường như ngang sức với người áo xanh.
Thủ-Huy lộn hai vòng trên không, rồi đáp xuống nóc điện. Công cung tay hướng người áo xanh :
- Xin cao nhân cho biết cao danh quý tính.
Người áo xanh không trả lời Thủ-Huy mà nói một mình :
- Chiêu Đông-hải lưu phong sao đang dương, lại chuyển sang âm được nhỉ ?
Bà ta gật gật đầu :
- Người quả thực là cháu của một vĩ nhân nổi danh nhân nghĩa nhất Đại-Việt.
Người áo xanh hướng người áo vàng :
- Chủ nhân ! Y là con giòng cháu giống, mình có thể đối thoại được.
Đến đó Nghĩa-Thành vương vừa đến. Vương đưa mắt nhìn người áo vàng : Từ tướng đi, từ hai vai, từ cái lưng đều rất quen thuộc, rất thân ái, mà vương không đoán ra là ai. Người áo vàng đang bước đi, khi nhìn thấy vương, ông ta cũng dừng lại. Bốn mắt nhìn nhau, tay ông run run, dường như súc động.
Dù bị coi thường, nhưng Long-Xưởng vẫn tỏ ra lễ độ. Vương kéo ghế mời hai người ngồi trên, ngang với Nghĩa-Thành vương. Còn mình thì ở ngôi chủ vị tiếp khách. Nhưng chỉ người áo vàng ngồi, còn người áo xanh thì khoanh tay đứng hầu phía sau.
Người áo vàng xuất hồn nhìn khắp ngự-thiện đường một lượt, rồi nói một mình, nhưng để cho Thủ-Huy nghe :
- Ta có một thắc mắc là từ xưa đến giờ, đại hiệp Tự-Kinh nổi tiếng nhân từ, hiệp nghĩa nhất Đại-Việt, thường dạy con cháu nên đứng ngoài vòng danh lợi để giữ cho thân thể thơm tho. Cớ sao người lại cho cháu nội lăn mình vào chốn hôi tanh này nhỉ ?
Thủ-Huy thấy phong thái của hai người, công chắp tay :
- Thưa tiền bối, thời vua Trưng, các anh hùng cùng cắp gươm phò tá ngài, có ai vì mấy đấu gạo đâu ?
Người áo vàng phẩy tay một cái, tỏ ra cử chỉ tát yêu Thủ-Huy :
- Khá lắm, người ứng đối nhanh như vậy thì hẳn là con trai của Bùi Anh-Hoa? Người là Thủ-Huy hay Thủ-Lý ?
- Thưa, cháu là Thủ-Huy.
- Hồi người đầy năm, ta có gửi tặng cho người một món quà. Món quà đó là cái khánh ngọc đỏ khắc hình con rồng với con chim âu quấn lấy nhau. Món quà đó đâu rồi ?
Thủ-Huy giật bắn người lên, công mở to mắt nhìn người áo vàng. Vì ông chính là người ấy, mà ông nội, bố mẹ cùng các sư thúc muốn đưa lên ngôi vua, thay cho Chính-long Bảo-ứng hoàng đế . Suốt từ thời thơ ấu, Thủ-Huy cũng như một số các đệ tử phái Đông-a đều nghe các bậc trưởng thượng nhắc đến, mà không biết người ấy là ai. Một lần Thủ-Huy hỏi mẹ : Cái khánh ngọc đeo trên cổ từ đâu mà có ? Bà Anh-Hoa trả lời : Do người ấy tặng cho con lúc đầy năm. Thủ-Huy hỏi người ấy là ai, thì bà Anh-Hoa lắc đầu không muốn nói. Bây giờ nghe người áo vàng xưng là nhân vật đã tặng khánh ngọc cho mình, thì công biết ông chính là người ấy.
Nghe câu nói đó, Thủ-Huy vội lậy phục xuống đất :
- Cháu...cháu... xin kính cẩn ra mắt sư bá.
Nói rồi công kéo chiếc khánh đeo trên cổ trao cho người áo vàng. Người áo vàng vẫy tay tỏ ý không cần coi. Ông phát một chiêu nhẹ nhàng, kình lực đỡ Thủ-Huy đứng dậy. Ông cười :
- Cháu gọi ta là sư thúc chứ đừng gọi là sư bá, mà sau này bà chị Anh-Hoa lại mắng ta. Vừa rồi cháu tự ví việc ra làm quan của cháu với các anh hùng thời Lĩnh-Nam. Như vậy cũng được đi. Song quần hùng Lĩnh-Nam theo phò vua Trưng là phò cái chí của ngài. Đức của vua Trưng cao vòi vọi. Còn ngày nay cháu theo phò cái cục bột Thiên-Tộ 0 chỉ biết có gái, thì thực là gánh vàng đi đổ sông Ngô, bán bò tậu ễnh ương mất rồi.
Kiến-Ninh vương vốn nóng tính. Vương thấy người áo vàng nhục mạ phụ hoàng thì quát lớn :
- Im cái mồm. Người có biết đây là đâu không mà nói lời vô phép như vậy ? Hay người ỷ có võ công cao, rồi muốn nói gì thì nói ư ? Người hãy nhìn xung quanh mà xem, thị vệ đã vây kín Đông-cung. Ta chỉ hô lên một tiếng, là thị vệ sẽ băm người ra như băm chả ngay.
Mọi người chỉ thấy hoa mắt một cái, tiếp theo hai tiếng bốp. Người áo xanh đã tát Kiến-Ninh vương hai cái, rồi lùi trở về chỗ, tay chỉ vào mặt vương :
- Bây giờ chính ta bảo mi im cái mồm, bằng không ta lấy tính mệnh mi.
Người áo vàng vẫn nói bằng giọng kẻ cả :
- Ta tiếc cho cháu ! Tài trí không thua gì Kinh-Nam vương xưa. Kinh-Nam vương tuy đem tài ra giúp Tống, nhưng Tống Nhân-tông là người biết tài vương, lại thương dân, thực xứng đáng là đấng quân phụ. Còn Thiên-Tộ, thì hỡi ơi !
Thủ-Huy chỉ vào Long-Xưởng :
- Thưa sư thúc, nếu nhìn bề ngoài thì thế. Nhưng sự thực lại khác. Xưa kia, ông Cổ-Tẩu là người ương gàn, thế mà lại sinh ra bậc thánh là vua Thuấn. Cha của Tăng Tử là người ác, thế mà con lại là người hiền. Đệ tử tuân lệnh nội tổ ra giúp nghĩa huynh, khi vận nước chông chênh như trứng trồng, chứ đâu có vì bổng lộc !
- Cái gì mà trứng chồng ?
Thủ-Huy tóm lược việc Tống sai mật sứ sang mưu chiếm ngôi vua, biến Đại-Việt thành quận huyện. Rồi các đại tôn sư họp nhau phá vỡ. Tiếp theo đến việc bắt Tống công nhận quốc danh, khi phong, phải phong làm An-Nam quốc vương, chứ không được phong làm Giao-chỉ quận vương. Cuối cùng, là viêc đi sứ Kim.
Người áo vàng gật đầu :
- Lâu nay ta ẩn thân, nên không biết rõ tình hình. À thì ra thế. Ta có nghe nhiều người ca tụng cái đức của thằng bé con Long-Xưởng. Ta không tin. Bây giờ nghe cháu nói, ta cũng tin một phần.
Ông nhìn Long-Xưởng :
- Này bé con ! Ta nghe con nhỏ Từ Thụy-Hương trước đây là tỳ thiếp của người, rồi tại sao y thị lại trở thành Tuyên-phi ? Sự việc ra sao ?
Long-Xưởng chưa kịp trả lời, thì Kiến-Tĩnh vương đã lên tiếng :
- Việc phụ hoàng ta phong cho ai làm phi, làm thiếp, người không có quyền hỏi. Người là ai mà dám có giọng điệu đại bất kính như vậy ?
Người áo xanh búng tay một cái, một hạt vàng bay ra, bay thực chậm, nhưng quay tròn với tốc độ cực nhanh kêu lên tiếng vi vu, rồi thình lình véo một tiếng , hột vàng bay vòng cầu trúng vào huyệt Á-môn của Kiến-Tĩnh vương. Lập tức toàn thân vương bị tê liệt, mở miệng không ra.
Công chúa Đoan-Nghi thấy anh bị áp chế, thì chịu không được. Nàng rút kiếm, rồi chuyển thân mình một cái, kiếm đã dí vào cổ người áo xanh.
Người áo xanh kinh hoàng, bà lộn liền ba vòng về sau để tranh mũi kiếm. Sau ba vòng, bà lại đáp xuống giữa ngự-thiện đường. Nhưng khi bà đáp xuống, thì mũi kiếm vẫn dí vào cổ bà. Thì ra Đoan-Nghi đã dùng một chiêu võ trấn môn của Long-biên kiếm pháp, nàng chuyển thân theo bà như bóng với hình. Lòng nguội như tro tàn bà lên tiếng :
- Mi đánh trộm ta mà thành công. Ta không phục.
Bấy giờ bà mới nhìn kẻ khống chế mình, đó là một thiếu phụ tuổi khoảng hai mươi, nhan sắc diễm lệ. Chợt bà kêu lên :
- Mi... Mi là công chúa Đoan-Nghi. Nếu mi là anh hùng, thì hãy đường đường chính chính đấu với ta mà thắng ta, ta mới phục.
Công chúa Đoan-Nghi thu kiếm về :
- Được ! Người hãy rút kiếm ra. Nếu người thắng được ta, thì ta sẽ tha cho người rời khỏi nơi đây.
Người áo xanh rút kiếm, rồi gật đầu :
- Nào chúng ta qua lại mấy chiêu với nhau.
Thấp thoáng ánh thép, Đoan-Nghi đã ra một chiêu, cắt đứt giải buộc khiến chiếc khăn bị mặt của người áo xanh rơi xuống đất. Tất cả mọi người hiện diện đều bật lên tiếng ái chà. Vì bộ mặt người áo xanh cực đẹp. Thực là một giai nhân tuyệt thế.
Người áo xanh hét lên một tiếng, rồi vung kiếm tấn công. Chiêu số của bà rất quái dị, khi thì giống Mê-linh kiếm pháp. Khi thì giống Đông-a kiếm pháp. Khi thì giống Hoa-sơn kiếm pháp. Trong khi Đoan-Nghi dùng kiếm chiêu, thì người kia dùng kiếm khí, kình lực phát ra kêu vo vo. Đoan-Nghi khoan thai trả đòn. Đấu được trên trăm hiệp, Đoan-Nghi đã tìm ra nguyên tắc kiếm thuật của người áo xanh : Bà ta khéo phối hợp kiếm pháp Mê-linh, Đông-a và Hoa-sơn làm một, mà không một chút sơ hở.
Từ đầu đến cuối, người áo vàng không nói một câu, ông lơ đãng nhìn trận đấu giữa người áo xanh với Đoan-Nghi, thình lình ông nhổm người dậy, tay ông phóng ra hai chỉ. Choang, choang hai tiếng kiếm của Đoan-Nghi với người áo xanh bị vuột khỏi tay, bay lên trần nhà, cắm vào cây xà. Đoan-Nghi kinh hãi lùi lại ba bước.
Người áo vàng nói một mình :
- Hà ! Con nhỏ này học ở đâu được kiếm pháp của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Khá lắm.
Thủ-Huy giật mình hỏi :
- Thưa sư thúc, cháu tưởng đó là Mê-linh kiếm pháp chứ ...
- Cháu biết một mà không biết hai. Dĩ nhiên căn bản là Mê-linh kiếm pháp. Nhưng, cháu nên nhớ, Linh-Nhân hoàng thái hậu đã học võ công Hoa-sơn, Đông-a, Hồng-thiết, trước khi học Mê-linh kiếm, vì vậy khi ngài xử dụng Mê-linh kiếm pháp, thì không còn là kiếm pháp nguyên thủy nữa. Cho nên, sau này, ngài truyền kiếm pháp ấy lại cho hậu thế, thì kiếm pháp đó là thứ kiếm pháp bị ngài pha trộn thành một loại kiếm pháp mới. Cũng như cháu, cháu học võ công Đông-a, Hoa-sơn một lúc, thành ra dù cháu xử dụng võ công nào, thì cũng không còn thuần túy nữa.
Thủ-Huy cau mày suy nghĩ, công chợt nhớ ra, có rất nhiều chiêu công dạy cho Đoan-Nghi phảng phất võ công Đông-a, Hoa-sơn. Bất giác công đưa mắt nhìn người áo vàng, và nghĩ thầm : Ông là bạn của bố ta có khác. Bác học đến thế là cùng.
Nguời áo vàng hỏi Long-Xưởng :
- Người đã biết ta là ai chưa ? Chắc là chưa, vì vậy khi ta mắng gã Thiên-Tộ thì người bực mình.
Ông mở khăn bịt mặt ra, mọi người cùng ồ lên một tiếng, vì ông giống Chính-long Bảo-ứng hoàng đế như hai giọt nước. Có điều đôi mắt ông sáng long lanh, da hồng hào, chứng tỏ nội công của ông cao thâm khôn lường.
Nghĩa-Thành vương rưng rưng nước mắt, bật kêu lên :
- Đại huynh ! Thì ra đại huynh vẫn còn tại dương thế ! Hỡi ơi, gần hai chục năm qua, đệ cứ tưởng đại huynh bị Cảm-Thánh với Đỗ Anh-Vũ hại rồi. Tạ ơn trời phật, đại huynh vẫn cơn sống, mà võ công cao đến dường này.
Người áo vàng ôm lấy Nghĩa-Thành vương :
- Anh thoát cả trăm lần chết, ngày nay mới được thấy em.
Ông hỏi Long-Xưởng :
- Người đã biết ta là ai rồi mà sao không quỳ gối ra mắt ?
Long-Xưởng cẩn thận hơn :
- Tiểu bối ở địa vị cầm đại quyền quốc gia, không thể chỉ vì gương mặt tiền bối mà nhẹ dạ tin ngay được. Vãn bối phải dè dặt.
Người áo vàng móc trong bọc ra một con nai bằng ngọc xanh biếc trao cho Long-Xưởng :
- Người cẩn thận như vậy là phải. Người hãy coi xem vật này là gì đây ?
Long-Xưởng khúm núm cầm lấy con nai, trên có khắc « Thiên-Thuận ngũ niên, ngũ nguyệt, sóc nhật, Sửu thì, Thiên-Lộc ». Nghĩa là niên hiệu Thiên-Thuận thứ năm 0, tháng năm, ngày 1, giờ Sửu, Thiên-Lộc sinh.
Long-Xưởng chợt nhớ lại, trong tập Thần-tông thực lục có chép :
« ... Khi Thần-tông được 12 tuổi, thì mẹ là Chiêu-Hiếu hoàng thái hậu 0 đã tuyển cho hàng chục phi tần. Nhưng nhà vua không sủng ái người nào. Cho đến năm ngài 16 tuổi, thì có sự thay đổi lớn. Một ngày, nhà vua trốn khỏi Hoàng-thành đạo chơi phường bán hoa ngoài thành Thăng-long, thì ngài gặp thiếu nữ bán hoa tên Hồng-Hạnh. Ngay từ lúc mới gặp nàng, ngài đã say mê. Từ đấy, đêm nào ngài cũng trốn ra gặp nàng, khi thì mua hoa, khi thì làm thơ tặng. Nhưng nàng là một thiếu nữ được giáo dục rất kỹ về tam tòng, tứ đức, nên dù ngài đeo đuổi cả tháng trời, mà nàng vẫn tỏ ra lạnh nhạt. Việc này đến tai mẫu thân Hồng-Hạnh, bà đùa với ngài rằng :
- Nếu cậu muốn hỏi con gái tôi, thì cậu hãy về làm một bông hồng hạnh bằng vàng đem đến đây dẫn lễ.
Lập tức ngài trở về cung, sai làm một bông hồng hạnh bằng vàng thực lớn, rồi hôm sau đem ra cho bà mẹ nàng. Bà mẹ giật mình, nhưng vẫn đùa :
- Được rồi, tôi gả nó cho cậu. Vậy giờ Thìn ngày mai, cậu phải đem kiệu rồng đến đây rước dâu.
Kiệu rồng là kiệu dành cho vua ngự. Bà nói câu đó, có ý nhắn nhủ rằng bà không gả Hồng-Hạnh cho ngài. Ngài trở về truyền lễ quan, cung nga, thái giám, hôm sau đem kiệu rồng ra đón Hồng-Hạnh nhập cung, phong làm Tu-dung. Bấy giờ cha mẹ nàng mới biết ngài là vua. Ngài cực kỳ sủng ái Hồng-Hạnh. Nhưng Chiêu-Hiếu thái hậu, cùng Cảm-Thánh hoàng-hậu và hai bà Thục-phi, Tuyên-phi cực kỳ ghét nàng.
Nhập cung được hai tháng thì Tu-dung Hồng-Hạnh có thai. Niên hiệu Thiên-Thuận thứ 5, tháng 5, ngày mùng một, giờ Sửu, thì Tu-dung sinh ra một hoàng nam. Vua đặt tên là Thiên-Lộc, lập làm thái tử, truyền lấy viên ngọc xanh lớn nhất khắc hình con nai, với hai sừng, ban cho. Tu-dung Hồng-Hạnh được thăng lên Thần-phi.
Niên hiệu Thiên-chương Bảo-tự thứ tư (Bính Thìn, DL. 1136), Cảm-Thánh hoàng-hậu lại sinh ra hoàng tử Thiên-Tộ. Niên hiệu Thiên-chương Bảo-tự thứ 6 (Mậu Ngọ, DL.1138) vua Thần-tông bệnh nặng, truyền gọi Tham-tri chính sự (Phó tể tướng) Từ Văn-Thông vào để viết di chiếu.
Cảm-Thánh hoàng hậu, Tuyên-phi Nhật-Phụng, Thục-phị Phụng-Thánh đem vàng hối lộ cho Thông. Khi nhà vua truyền Thông viết chiếu truyền ngôi cho Thái-tử Thiên-Lộc, thì Thông cầm bút suy nghĩ. Một lát ba bà Cảm-Thánh Nhật-Phụng, Phụng-Thánh vào khóc rằng : « Bọn thiếp nghe rằng người xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên-Lộc là con của người thiếp được vua yêu. Nếu cho Thiên-Lộc nối ngôi, thì bà mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng ghen ghét làm hại, thì mẹ con bọn thiếp tránh sao cho khỏi bị tai vạ ? ». Vì thế vua xuống chiếu lập hoàng tử Thiên-Tộ kế vị, còn thái-tử Thiên-Lộc thì phong làm Minh-Đạo vương...
...Niên hiệu Đại-Định nguyên niên (Canh Thân. DL. 1140), phong Thần-phi Hồng-Hạnh làm Linh-chiếu Chiêu-hòa thái hậu và phong một vị sủng phi khác của vua Thần-tông là Đức-phi Quỳnh-Chi, một bà phi bác học đa năng, thường được vua dùng như một đại học sĩ phụ tá làm Linh-khang Chiêu-đức thái phi. »

Sau không thấy ai nhắc đến Minh-Đạo vương cùng bà phi Hồng-Hạnh ra sao. Một lần Long-Xưởng có hỏi Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền, thì ông nói rằng :
« Nhờ Từ Văn-Thông giúp mà hoàng thượng được lên ngôi vào lúc ba tuổi. Quyền hành do Chiêu-Hiếu hoàng thái hậu và em hậu là Đỗ Anh-Vũ. Trước đây Linh-chiếu Chiêu-hòa thái hậu có theo học với một đạo cô phái Tản-viên, nay ngài theo đạo cô này đi tu. Niên hiệu Đại-Định thứ 8 (DL1147), Chiêu-Hiếu thái hậu khám phá ra vụ Đỗ Anh-Vũ tư thông với Cảm-Thánh hoàng thái hậu. Anh-Vũ với Cảm-Thánh hoàng thái hậu ám hại Chiêu-Hiếu thoàng thái hậu. Quyền vào tay Anh-Vũ với Cảm-Thánh hoàng thái hậu. Một lần Minh-Đạo vương cùng với vương phi trên đường về Cổ-pháp viếng lăng mộ tiên đế, thì bị cướp giết cả nhà. Ai cũng bảo Cảm-Thánh hoàng thái hậu với Anh-Vũ ra tay ám toán .».
Bây giờ thấy người mặc áo vàng giống phụ hoàng như hai giọt nước, cùng di vật từ đời vua Thần-tông, nhất là Nghĩa-Thành vương đã nhận ra anh mình, Long-Xưởng không nghi ngờ gì nữa. Vương hô các em quỳ xuống, rồi khấu đầu :
- Bọn thần xin khấu đầu trước hoàng-thúc. Vì không biết rõ thân thế Hoàng-thúc, nên bọn thần có nhiều điều vô lễ. Mong Hoàng-thúc đại xá cho.
Minh-Đạo vương chỉ ghế :
- Các người không nên đa lễ. Các người ngồi đây đi. Đức Thái-tổ nhà ta xuất thân là đứa trẻ chăn trâu ở chùa Tiêu-sơn, Linh-Nhân hoàng thái hậu thủa hàn vi cũng từng chăn trâu. Ta muốn cùng các người dùng tình mà ở với nhau, chứ không muốn lễ nghi phiền phức.
Ông chỉ vào thiếu nữ áo xanh :
- Đây là đệ tử thứ ba của ta, tên Bạch-Phụng.
Ông ngửa mặt nhìn vào quãng xa xôi, rồi tiếp :
- À, để ta thuật cho các người nghe bằng cách nào ta sống sót cho tới ngày hôm nay? Hồi sáu tuổi ta đã bắt đầu luyện võ với một sư phụ phái Đông-a, năm mười ba tuổi, thân mẫu định tuyển phi tần cho ta. Song, ta xin khất lại, để có thời gian học văn luyện võ. Mãi đến năm mười sáu tuổi, thì ta gặp một thầy đồ nghèo khổ, vợ chết không có tiền chôn cất. Ông đến yết kiến, xin bán con gái với giá ba lượng bạc. Ta thương tình, ban cho ông mười lượng bạc, lại sai sắm quan quách, chôn cất vợ ông ta, mà không nhận con gái. Ông ta thâm cảm ơn nghĩa, xin ta nhận ông với con gái làm gia thuộc trong phủ. Ta nhận lời cho ông làm gia sư, phụ trách chức trưởng sử. Còn con gái ông, thì tuyển làm cung nga tại ngự thư phòng. Nhưng khi ta gặp con gái ông, thì hỡi ơi, nàng là một giai nhân tuyệt thế. Cho nên, chỉ hơn tháng sau, ta quyết định tuyển nàng làm vương phi. Việc này, khắp triều đình đều phản đối, duy mẫu thân ta thì lại vui vẻ. Nàng tên là Phạm-thị Thanh-Thủy.
Vương ngước mắt nhìn lên trời :
- Thanh-Thủy vốn được cha dạy văn, ta cho nàng luyện võ. Chỉ ít lâu sau, võ công nàng trở thành cao thâm. Gia sư trong phủ đều bị nàng vượt qua. Còn ta...Tuy ta bị truất ngôi thái tử, nhưng trong lòng không một chút oán hờn, bởi đó là ý chỉ của phụ hoàng. Ta nghĩ : Mình không được làm vua, thì mình cũng có thể giúp em mình, như Khai-Quốc vương xưa đã giúp vua Thái-tông. Ta hết sức học văn, luyện võ, lại bỏ tiền bạc ra kết thân, chiêu mộ hào kiệt. Cho đến năm 17 tuổi, ta là một trong những đệ tử có võ công cao nhất của phái Đông-a. Bản lĩnh của ta ngang với hai người con của sư phụ là Tự-Hấp, Tự-Duy, với Đại-Việt ngũ tuyệt. Anh hùng Chiêm, Việt, Hoa ra vào cửa ta rầm rập, họ thấy Cảm-Thánh dâm loạn quá, Anh-Vũ lại cực kỳ ác độc. Họ đưa ý kiến rằng nên giết Cảm-Thánh, Anh-Vũ rồi đưa ta lên làm vua. Ta cực lực từ chối. Vì vậy Cảm-Thánh với Đỗ Anh-Vũ không yên tâm. Họ sợ ta hỏi cái tội dâm loạn, chuyên quyền của họ, nên họ bàn mưu với nhau trừ ta trước. Kể ta với lực lượng anh hùng theo ta, ta có thể giết Cảm-Thánh, Anh-Vũ dễ dàng. Nhưng dù sao Anh-Vũ cũng là ông cậu của phụ hoàng ta. Cảm-Thánh là hoàng-hậu thời tiên hoàng. Vì vậy ta khoanh tay, mặc cho hai người lộng hành. Thế nhưng, đùng một cái, ta được cung nga thân tín báo cho biết rằng Đỗ Anh-Vũ bàn với Cảm-Thánh hoàng thái hậu định vu cho ta cái tội mưu phản rồi đem đại quân làm cỏ trang ấp của ta. Quá kinh hoàng, ta nghĩ chỉ có cách giả chết ẩn thân mới thoát nạn. Một mặt ta phân tán tân khách, thủ hạ đi khắp nơi. Một mặt ta đem vương phi về Cổ-pháp lễ lăng mộ tiên đế, rồi trốn sang Trung-quốc. Không ngờ chuẩn bị của ta bị Anh-Vũ biết. Y sai một đội cao thủ sáu người, gồm ba nam, ba nữ đón đường giết ta. Ta với vương phi chống trả giết được 5 tên, còn một tên cuối cùng, võ công y cao thâm không biết đâu mà lường. Y chỉ đánh có hai chiêu, vương phi của ta bị táng mạng. Còn ta, y chỉ đánh có mười chiêu ta bị ngã. Gữa lúc chúng ta tuyệt vọng, thì sư-phụ Trần Tự-Kinh cùng hai người con là Trần Tự-Hấp và Trần Tự-Duy xuất hiện. Tên cao thủ của Cảm-Thánh thấy ba người thì bỏ trốn biệt. Sau đó ta quy ẩn, âm thầm luyện võ, thu đệ tử. Các hào kiệt nghe ta còn sống, thì lại tụ họp về với ta.
Thủ-Huy hỏi :
- Thưa sư thúc, cái tên cao thủ của Anh-Vũ ấy dùng võ công môn phái nào ?
- Y dùng võ công Đông-a.
Thủ-Huy bật lên tiếng than :
- Ái chà. Không lẽ là Mao Khiêm ?
- Đúng ! Chính là y.
Minh-Đao vương chỉ lên tường, nơi treo nhiều tranh và bút pháp :
- Đây là Đông-cung, nơi ta đã ở mấy năm. Khi phụ hoàng người lên ngôi, ta bị truất ngôi thái tử, trở thành Minh-Đạo vương, ta phải rời nơi này để trở về phủ đệ riêng. Từ ngày bị ám hại phải xa Thăng-long, lòng tưởng nhớ quê hương, mỗi năm ta lại âm thầm về thăm lại chốn cũ. Lần này, bị các người khám phá ra.
Ông chỉ vào Bạch-Phụng :
- Tuy xa Thăng-long, nhưng ta an trí mỗi châu, mỗi trấn, mỗi huyện một đệ tử để theo dõi tình hình đất nước. Bạch-Phụng là người phụ trách vùng Thăng-long.
Ông hỏi Bạch-Phụng :
- Ta trao cho con phụ trách vùng kinh thành. Thế sao cái vụ Thiên-Tộ cướp Từ Thụy-Hương của Long-Xưởng, mà con không biết ?
- Thưa sư phụ, tự đệ tử không muốn biết.
Bạch-Phụng thuật :
- Khi trao cho đệ tử coi vùng Thăng-long, sư phụ có dạy rằng « Chư sự lớn nhỏ đều phải biết, khi hành sự phải tôn trọng luật lệ. Duy có việc trong Hoàng-thành thì tuyệt đối không được tò mò vào, cũng không được can thiệp vào ». Chính vì vậy mà việc Chính-long Bảo-ứng hoàng đế đem Từ Thụy-Hương vào cung, rồi phong làm Tuyên-phi, đệ tử không theo dõi. Tuy nhiên nếu sư phụ muốn, đệ tử sẽ cho điều tra.
Minh-Đạo vương tỏ vẻ buồn rầu, ông hỏi Long-Xưởng :
- Ta nghe võ lâm anh hùng đàm tiếu về việc này quá nhiều, nên phải về đây điều tra cho rõ ngọn nguồn. Sự đã ra thế này thì còn dấu diếm làm gì ? Người hãy thuật cho ta rõ uyên nguyên ra sao !
Long-Xưởng đành thuật lại từng chi tiết : Nguồn gốc ca kỹ của vú Mai, kẻ vô danh đánh chồng vú bị tê liệt, trong khi đó vú mang thai rồi sinh Thụy-Hương. Vú được tuyển làm nhũ mẫu cho Đoan-Nghi, sau ba năm vú muốn ở lại thì bị quan Ngự-sử đại phu đàn hặc về việc chồng vú bị liệt, mà vú mang thai. Ngự y cũng xác nhận rằng chồng vú bị tổn thương xương sống, không thể giao hợp với đàn bà, mà vú vẫn có thai, thì cái thai đó là con hoang. Sau nhờ Đoan-Nghi xin, Long-Xưởng cho vú vào ở trong Đông-cung. Thụy-Hương học văn, luyện võ đều thành, và Đại-Việt thất tiên kết thân với nhau, phá tan âm mưu chiếm Đại-Việt của Tống. Rồi mối tình Thụy-Hương với Thủ-Huy diễn ra mà Long-Xưởng không biết. Khi Thủ-Huy lấy vợ thì Thụy-Hương lại trở thành người tình của Long-Xưởng. Cuối cùng Thụy-Hương được phong Tuyên-phi và phụ chính cho nhà vua.
Nghe Long-Xưởng thuật, mặt Minh-Đạo vương tái đi, ông hỏi bằng giọng run run :
- Thế... Thế ...Triệu Mai-Hương hiện ở đâu ?
- Thưa hoàng-thúc, Triệu Mai-Hương là ai ?
- Là...là vú Mai đó. Triệu Mai-Hương là một giai nhân gốc người Dương-châu, bên Trung-nguyên.
Đoan-Nghi kinh ngạc :
- Không biết hoàng-thúc có lầm không ? Bởi vú Mai có khuê danh là Trần Lệ-Mai, khi đem vú vào nuôi sữa cho hài nhi, Khu-mật viện đã về quê vú ở Đăng-châu điều tra. Viên quan điều tra còn đến cả nhà từ tổ của vú xem xét gia phả. Như vậy thì sao vú là người Dương-châu được ? Suốt thời gian nuôi sữa hài nhi, cũng như trong mười năm ở Đông-cung, vú không biết nói tiếng Hoa, thì sao có thể là người Tống ? Theo hài nhi nghĩ, có lẽ hoàng-thúc đã lầm ca kỹ Triệu Mai-Hương với vú Mai thì phải.
Trán Minh-Đạo vương nhăn lại, ông hỏi :
- Có thể như thế. Không chừng trong thời gian Triệu Mai-Hương nức danh đế đô, thì vú Mai cũng nổi tiếng, nên có sự lầm lẫn chăng ? Thế vú Mai đâu ? Cứ cho ta gặp nàng là ta biết ngay.
Long-Xưởng đáp thay em :
- Từ khi Thụy-Hương trở thành Tuyên-phi thì vú vào ở trong cung với con gái.
- Ta sẽ thân vào Hoàng-cung điều tra vụ này.
Thủ-Huy nghĩ thầm :
- Cứ nghe ngôn từ của Minh-Đạo vương, thì dường như trước đây vú Mai là người tình của vương thì phải ? Bằng không tại sao ông biết bà có tên là Mai-Hương ?
Minh-Đạo vương thẫn thờ như người mất hồn. Ông nhìn Bạch-Phụng :
- Phải theo dõi vụ này thực chi tiết. Bạch-Phụng ơi ! Con cố tìm hiểu xem tại sao vú Mai đang là một ca kỹ tài sắc nhất Thăng-long, có biết bao nhiêu vương, hầu, khanh, tướng cầu hôn, mà thị không nhận lời ; mà lại nhận lời cầu hôn của một thị vệ võ công bình thường, tiền không, văn tài cũng không, cho đến cái dáng đẹp đẽ bên ngoài cũng không có. Vấn đề thứ nhì là liệu thủ phạm ám toán chồng vú Mai có phải là gian phu ăn nằm với vú Mai sinh ra Thụy-Hương không ? Cuối cùng, phải điều tra xem vú Mai có phải là Triệu Mai-Hương không. Việc này hơi khó đối với bất cứ người đàn ông nào. Nhưng con là nữ thì không khó. Bởi ngay trên nhũ hoa trái của Mai-Hương có một vết sẹo hình hoa mai.
Minh-Đạo vương nhìn Long-Xưởng, rồi lắc đầu :
- Ban nãy các cháu bàn nhau chuẩn bị ra quân thực mật, cho đến phút chót có phải thế không ?
- Quả như hoàng thúc dạy.
Ông hỏi Thủ-Huy :
- Phàm khi ra quân thì chúa tôi phải một lòng, thì mới thành công. Nay cháu tuổi còn trẻ, tước tới công, mà lại cầm binh quyền trong tay, liệu có tránh được miệng thế có dèm pha không ?
Nghe Minh-Đạo vương hỏi, Long-Xưởng rùng mình nghĩ thầm :
- Quả mẫu hậu, Giai-phi vơí ta cùng nghi ngờ Thủ-Huy ! Vị hoàng thúc này sao lại đoán ra được ? Ta im lặng, xem Thủ-Huy trả lời thế nào.
- Thưa sư thúc ! Đối với phụ hoàng, cháu là phò mã . Đối với anh Long-Xưởng cháu là nghĩa đệ, là em rể. Là phò mã, nếu cháu không làm được những việc nghiêng trời lệch đất như thánh Tản với vua Hùng, thì ít ra cháu cũng noi gương tổ là Kinh-Nam vương đối với vua Nhân-tông nhà Tống. Lòng cháu sáng như trăng, như sao. Vì vậy cháu nghĩ dù phụ hoàng, dù nghĩa huynh... đều tin vào lòng trung của cháu, chứ có đâu nghi ngờ ?
Long-Xưởng nghĩ thầm :
- Ta không tin người đâu.
Minh-Đạo vương lắc đầu :
- Ừ thì ta cứ tạm tin như vậy. Còn việc ra quân, các cháu có giữ đươc bí mật không ?
- Dạ được ạ !
- Ta không tin ! Các cháu hành động như thế này thì không khác gì lậy ông tôi ở bụi này ! Cháu đã biết, xung quanh cháu có con rắn độc, mà cho đến giờ này cháu cũng chưa biết y là ai ? Y làm việc này thì được hưởng gì ? Ai sai y vào tiềm ẩn ở đây ? Khi chưa tìm ra căn cước y, mà lại họp nhau bàn tiến binh thì thực là nguy hiểm. Tỷ như y làm việc cho Tống thì sao ? Cháu nên nhớ, hiện mọi hoạt động trọng đại đều phát xuất từ Đông-cung cả. Cho nên dù Tống, dù Chiêm, dù phe chủ hòa, không ít thì nhiều đều cài người vào Đông-cung. Những cao thủ, những bộ mặt lớn ra vào Đông-cung, thì người của Tống biết hết.
Nghe Minh-Đạo vương nói, Long-Xưởng, Thủ-Huy đưa mắt nhìn nhau. Cả hai như cùng tự nhủ : Vị hoàng thúc này nói rằng ông ẩn thân từ lâu, thế sao ông biết rất chi tiết những bí mật ở Đông-cung như việc có con rắn độc chưa tìm ra ? Mọi quyền lực mưu kế đều phát ra từ Đông-cung?
Cung nga dâng trà. Minh-Đao vương bưng chung trà lên uống. Sau khi uống xong, ông chỉ cái chung hỏi Trang-Hòa :
- Cái chung này ai biếu cháu ?
Vương phi Trang-Hòa tiếp lấy chung, phi giật bắn người lên, vì đó chính là chung của Đông-cung, song ai đó đã khắc lên hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi, biểu hiệu của Côi-sơn song ưng. Cạnh hình, có mấy chữ «Hiển-Trung vương tài trí thì tài trí, nhưng bàn quốc sự lại để gian nhân nghe trộm, thì còn gọi là mẫn tiệp nữa chăng ? ».
Minh-Đạo vương, Nghĩa-Thành vương, Long-Xưởng cùng nhìn Thủ-Huy như hỏi : Có biết gian nhân ở đâu ? Thủ-Huy đưa mắt cho công chúa Đoan-Nghi. Công chúa hướng vào Trung-Tĩnh phu nhân tức Á-Nương :
- Vân-Đài tiên tử ! Người là người phái Hoa-sơn tiềm ẩn trong Đông-cung bấy lâu nay như vậy cũng đủ rồi. Chúng tôi nể tình công chúa Huệ-Nhu là cao tổ mẫu phái Đông-a, trước đây xuất từ quý phái, nên lờ đi cho người ẩn thân. Nhưng nay bị Côi-sơn song ưng mắng vốn, chúng tôi xin người hãy ra mặt để cho ai nấy đều biết một tiên tử Hoa-sơn đẹp như thế nào ?
Á-Nương vẫn cúi đầu lau chùi, như không nghe thấy gì. Như-Như là vợ của Tăng Khoa, hiện giữ nhiệm vụ cai quản nhân sự trong Đông-cung, nàng chắp tay :
- Khải công chúa điện hạ, bà này bị câm, trước đây bà là tỳ nữ của Thục-phi Đỗ. Hồi Thục-phi nhập cung thì mang theo. Vì bà có tài tẩm quất, nên Thục-phi dâng cho hoàng-hậu. Khi Thái-tử lập Đông-cung, hoàng-hậu ban cho thái-tử. Bà tuy câm nhưng cực kỳ trung thành. Ngay từ hồi Thái-tử chưa ra Đông-cung, bà hầu hạ thái-tử không một chút khiếm khuyết. Bà vốn bị ác tật, lưng gù có cái bướu to bằng quả dưa, mặt méo, nhưng bà rất chăm chỉ. Ngày Thái-tử dẹp triều đình gà mái gáy, hoàng-hậu sa thải hết cung nga do thái-hậu tuyển, chỉ giữ lại Á-Nương với con Nhài. Khi công chúa hạ giá với phò mã, thì Nhài được phong tước Tín-Hương phu nhân, theo công chúa. Còn Á-Nương được phong Trung-Tĩnh phu nhân. Á-Nương sao có thể là gian tế ?
Đoan-Nghi mỉm cười, nàng lạng người tới bắt Á-Nương. Á-Nương đứng trơ trơ, không có phản ứng gì, rõ ra người chưa luyện võ. Bị Đoan-Nghi bắt, bà ta kinh ngạc mở to mắt tỏ vẻ sợ hãi. Đoan-Nghi chĩa ngón tay trỏ ra nói bằng tiếng Hàng-châu:
- Đây là Lĩnh-Nam chỉ, ta mà điểm vào người bà, dù bà là cao thủ phái Hoa-sơn, thì bao nhiêu độc khí của Huyền-âm chưởng sẽ làm bà lạnh như băng mà chết. Bà hiểu không ?
Nói rồi nàng phóng chỉ đến véo một tiếng. Á-Nương lách mình nhanh không thể tưởng tượng nổi, tránh khỏi chiêu chỉ. Bấy giờ mọi người mới tin Á-Nương là người của phái Hoa-sơn. Á-Nương lộn người hai cái, bà ta đã ra khỏi ngự-thiện đường, đáp xuống giữa sân. Hơn mười thị vệ bao vây xung quanh bà ta. Bà ta lên tiếng :
- Các người đều là cao nhân Đại-Việt, mà lại dùng số đông người để thắng ta ư ?
Tiếng nói của bà rất thanh tao, nhẹ như gió thoảng, ngọt như cam thảo, âm rất trẻ.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 161
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com