Câu đối ở đền thờ Quốc-tổ Đại-Việt tại núi Thiên-đài, tỉnh Hồ-Nam Trung-quốc do Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn soạn.
0
Bốn hôm sau, triều đình thiết đại triều để tiếp sứ Tống. Vì Chính-long Bảo-ứng hoàng đế se mình, nên Thái-tử Long-Xưởng, cùng các vị thân vương Nghĩa-Thành, Kiến-Ninh, Kiến-An, Kiến-Tĩnh nhiếp chính.
Lễ nghi tất.
Tể-tướng Đỗ An-Di bước ra tâu :
- Khải điện hạ, buổi thiết đại triều hôm nay để tiếp sứ thần Tống. Kể từ khi Tống công nhận quốc danh của ta, đây là lần đầu tiên sứ Tống sang. Trước kia sứ Tống sang ta nếu không vì việc hiếu, hỷ, thì cũng để phong chức tước. Cho nên sứ thần hầu hết là viên chuyển vận sứ Quảng-Tây hay Quảng-Đông. Trừ một lần, mật sứ Ngô Giới, Lưu Kỳ là các đại thần tại Khu-mật viện. Lần này chánh cũng như phó sứ đều có tước quốc công. Chánh sứ là Ngu Doãn Văn, ngoài võ công ra, ông ta còn là một danh sĩ vang danh Hoa-hạ về văn chương, về bút pháp. Hơn nữa chức của ông ta tới tới Thái-phó. Phó sứ là Tần Hy, con trai cố tể tướng Tần Cối, một đại cường thần, chức tới Thiếu-sư. Như vậy đủ tỏ cuộc đi sứ này mang một tầm mức quan trọng. Không biết điện hạ có chỉ dụ đặc biệt gì không ?
- Có.
Vương giảng giải :
- Trước nay, ta vẫn có hai lễ dành để tiếp sứ. Một là tiếp các sứ thần Chiêm, Chân, Lào, Xiêm tiến cống. Hai là tiếp sứ Trung-quốc. Hai là lễ nghi, bên khinh, bên trọng khác nhau. Gần đây, ta tiếp sứ Mông-cổ, lễ nghi thân mật, không khinh, không trọng. Lần tiếp sứ Tống này, ta vẫn áp dụng như các lần trước. Có điều lời lẽ mềm mỏng hơn. Bất cứ họ đòi hỏi gì, ta cũng liệu lời cho họ vui lòng. Từ hôm họ tới Bắc-biên, cô gia đã cử Kiến-An vương cùng Dao-thụ Thái-phó Ngô Lý-Tín, Thái-tử Thái-bảo lĩnh Lại-bộ thượng thư Bùi Kinh-An lên đón. Việc đãi sứ đoàn, cô gia đã chỉ dụ các phủ huyện phải tăng phần lễ vật, yến tiệc thực thịnh soạn.
Các quan phe chủ hòa đều kinh ngạc đến đờ người ra. Vì từ trước đến giờ, Long-Xưởng với các em, thêm Thủ-Huy và các đại thần trẻ luôn tỏ ra cứng rắn với Tống, lúc nào cũng lăm le chỉ ngọn cờ lên Bắc đòi lại cố thổ, thế mà lần này rõ ràng sứ Tống sang gây sự, thì Long-Xưởng lại tỏ ra mềm mỏng. Mềm mỏng quá đáng.
Đặc-tiến Thái-bảo Phí Công-Tín lĩnh Binh-bộ thượng thư khải :
- Như họ loan báo trước, Tống sứ sang với ba sự việc. Một là cải táng hài cốt Hoa-sơn tứ đại thần kiếm. Hai là xin bộ Vô song vô đối Trung-nguyên võ kinh. Ba là tìm tung tích đạo sư Lạc-Nhạn, đạo cô Vân-Đài. Xin điện hạ ban chỉ dụ về ba việc này.
- Về việc thứ nhất.
Long-Xưởng ban chỉ :
- Tống đòi cải táng hài cốt người quá cố, không những ta không cản trở, mà còn giúp đỡ phương tiện, nhất là làm lễ tiễn hài cốt thực long trọng. Cô gia đã ban chỉ cho bộ Lễ rồi. Bởi hài cốt đây là của những võ lâm đồng đạo, họ đem thân ra giúp xã tắc. Ta vinh danh họ để nêu cao lòng trung nghĩa của kẻ sĩ.
Từ trước đến giờ các đại thần phe chủ hòa cho rằng việc chỉnh bị binh mã, nêu cao quốc thống, cứng rắn với Tống của Long-Xưởng, Thủ-Huy và ba hoàng tử xuất phát từ lòng thù hận Tống mà nảy sinh. Khi họ nghĩ thế, thì họ cho rằng đối với Long-Xưởng thì cái gì của Tống cũng xấu, cũng chống cả. Bây giờ họ thấy Long-Xưởng tỏ ra có độ lượng biết chiêu hiền, đãi sĩ, đề cao lòng trung nghĩa, thì mừng chi xiết kể.
- Vấn đề thứ nhì...
Long-Xưởng chỉ vào một thiếu niên, trang phục theo lối nông dân, quần áo nâu, thân thể hùng vĩ, uy nghi : Vấn đề Vô Trung kinh là việc riêng của phái Hoa-sơn với phái Đông-a. Cô gia đã sai sứ về Thiên-trường thỉnh đại hiệp Tự-Kinh, chưởng môn nhân phái Đông-a tới để nói chuyện trực tiếp với Ngu Doãn-Văn. Đại hiệp Tự-Kinh cử cháu nội là Thần-nông sứ Thủ-Lý về tiếp sứ. Lát nữa đây Thần-nông sứ sẽ biện luận với Ngu Doãn Văn.
Thái-tử Thái-phó Lý Kính-Tu nhìn Thủ-Lý, rồi tỏ vẻ không hài lòng :
- Khải điện hạ, theo như thần biết thì Thần-Nông sứ tuy đức mãn Nam-thiên, nhưng chưa quá cái tuổi ba chục, như vậy... như vậy e không đủ vai vế nói chuyện với một danh sĩ như Ngu Doãn Văn đã trên năm chục tuổi.
Long-Xưởng đưa mắt cho Chinh-viễn thượng tướng quân, lĩnh Trung-thư lệnh Tăng Khoa. Tăng Khoa bước ra trả lời :
- Thưa quan Thượng-thư, sứ của triều đình cũng đã bầy tỏ y ùnày với đại hiệp Tự-Kinh. Đại-hiệp trả lời : Trong quá khứ giữa phái Hoa-sơn với phái Đông-a có tình thông gia. Vương phi Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai là công chúa Huệ-Nhu ngang vai với Tứ-đại thần kiếm. Từ Tứ đại thần kiếm đến Ngu Doãn Văn là bốn đời, thì đại hiệp cũng cử Thần-nông sứ Trần Thủ-Lý là cháu bốn đời của Kinh-Nam vương, cho vai vế ngang nhau, hầu dễ nói chuyện. Vả Thần-nông sứ nói chuyện với Ngu là nói chuyện về võ công, chứ không phải chính sự, càng không phải luận văn. Bàn về võ công, thì Ngu không thể bằng phò mã Thủ-Huy, trong khi võ công Thần-nông sứ cao hơn phò mã mấy bậc.
- Còn vấn đề thứ ba.
Long-Xưởng mỉm cười :
- Họ biết rõ người của họ đang trốn đâu đó ở Đại-Việt, làm tế tác, thế mà họ vẫn đòi. Cô gia đã có biện pháp.
Đến đó lễ quan báo :
- Sứ đoàn Tống do Kiến-An vương và Thái-phó Ngô Lý-Tín hướng dẫn đã tới.
Nhạc công cử bản Động-đình ca thời Lĩnh-Nam. Chánh sứ đi trước ngang với Kiến-An vương. Phó sứ đi sau, ngang với Thái-phó Ngô Lý-Tín. Phía sau là ba bồi sứ đi ngang với ba vị Tham-tri bộ Lễ, Lại, Binh của Đại-Việt. Sứ vào đến giữa điện Càn-nguyên thì bản nhạc dứt. Chánh sứ nói lớn :
- Thần, Dao-thụ Thái-phó, Tham-tri chính sự, lĩnh Đoan-minh điện đại học sĩ, Khu-mật viện sứ, Ninh-quốc công Ngu Doãn Văn, vâng chỉ Càn-Đạo hoàng đế, đến An-Nam quốc, xin triều kiến quốc vương.
Nội lực Doãn Văn rất cao, nên tiếng nói làm nhiều người ù tai. Ai cũng tưởng Long-Xưởng sẽ vận nội lực để đối lại với Tống sứ. Không ngờ Long-Xưởng khoan thai bước xuống ngai vái Doãn Văn, nói bằng giọng Hàng-châu, nhẹ nhàng, như một quan văn :
- Thái-tử Long-Xưởng, lĩnh Hiển-Trung vương xin bái kiến Ngu quốc công, thần xin kính chúc Càn-Đạo hoàng đế thọ t ỷ Nam-sơn. Vì phụ vương không được khỏe, nên thần cùng các quan xin kính cẩn tiếp thiên-sứ đại nhân.
Những sứ đoàn trước sang Đại-Việt, thường phải có thông dịch đi theo. Họ sẽ dịch tiếng Việt sang tiếng Trung-quốc cho sứ thần Tống, còn thông dịch của triều đình thì dịch từ tiếng Trung-quốc sang tiếng Việt cho triều đình Đại-Việt. Bây giờ Long-Xưởng nói thẳng tiếng Trung-quốc, hơn nữa là giọng Hàng-châu tức kinh đô Lâm-an nhà Nam-tống. Sứ đoàn Tống cũng như các đại thần Việt đều kinh ngạc.
Lễ nghi tất.
Long-Xưởng hỏi thăm sức khỏe của Càn-Đạo hoàng đế, của hoàng-hậu, của các vị tể thần thuộc phe chủ chiến một lượt, coi như không nghe, không biết gì về đám văn quan chủ hòa của phe Tần Hy cả. Mặt Tần Hy cau lại, tỏ ý bất mãn. Lời lẽ của Long-Xưởng hết sức khiêm cung, nhún nhường như một văn gia. Trong khi đối đáp vương vờ như không biết Tần Hy là ai, khiến mặt y trông càng khó coi hơn. Tiếp theo vương hỏi thăm các danh sĩ Tống, và không hết lời ca tụng văn tài cùng bút pháp của Ngu Doãn Văn. Cuộc đàm thoại sơ bộ hóa ra cuộc luận về văn học đương thời của Tống.
Vương-phi Trang-Hòa, phò mã Thủ-Huy, công chúa Đoan-Nghi, Trung-thư lệnh Tăng Khoa, Lễ-nghi học sĩ Như-Như cùng nhập cuộc. Hầu hết các văn quan chủ hòa, quỳ lụy với Tống lại chỉ nói được tiếng Hoa vùng Quảng mà không biết nói tiếng Hoa vùng Tô-châu, Hàng-châu. Họ chỉ biết đứng ngây người ra nghe phe chủ chiến đàm luận vơí sứ đoàn. Thế rồi nhạc quan Đào Duy với phu nhân Như-Yên, con gái là Như-Như điều khiển nhạc công tấu nhạc để ba người ngâm những bài từ, bài ca của Ngu Doãn Văn, của các quan trong sứ đoàn cùng những danh tác mới nhất của danh sĩ hiện đại vùng Giang-Nam.
Trước đây, tế tác Tống tâu về triều rằng : Trừ quân Đại-Việt là thái tử Long-Xưởng một người hiếu động. Chính sách cứng rắn của Đại-Việt với Tống là do thái-tử chủ động. Nào thái-tử là người bài Hoa, đang chỉnh bị binh mã để Bắc-tiến như thời vua Nhân-Tông. Bây giờ sứ đoàn chỉ thấy ở Long-Xưởng một thiếu niên anh tuấn, phong lưu tiêu sái, nhất là lầu thông Kinh, Sử, Tử, Tập của Trung-quốc. Những sách cổ không nói làm gì, mà dĩ chí những sách mới viết ra gần đây, Long-Xưởng cũng biết. Quanh Long-Xưởng là ba vị hoàng tử, cho tới công chúa, vương phi đều hết sức nhún nhường, nói năng khiêm cung và yêu văn học, văn hóa Trung-quốc. Sứ đoàn không hề tìm thấy một chút ác cảm của Long-Xưởng vơí Trung-quốc. Trong lòng Tần Hy và các văn quan trong sứ đoàn nghĩ thầm :
- Có lẽ những tin tức ác độc trên do bọn biên thần hiếu chiến bịa đặt ra. Còn cái bọn tế tác, thì không có gì để tâu về, chúng nặn ra các tin trên để tự đề cao công trạng.
Cuộc đàm luận văn chương sơ bộ chấm dứt. Ngu Doãn Văn vào đề bằng ngôn từ của một văn nhân :
- Càn-Đạo hoàng đế sai thần sang để xin với Quốc-vương ba việc.
- Xin đại nhân cứ dạy.
Long-Xưởng nói : Tuy phụ hoàng không được khỏe, nhưng cô gia cùng các đại thần đây xin hết sức để thi hành chỉ dụ của Thiên-triều.
- Điều thứ nhất là xin thái-tử cho cải táng hài cốt bốn vị Hoa-sơn tứ đại thần kiếm đem về cố hương.
Long-Xưởng chắp tay lại, tỏ một cử chỉ khiêm cung :
- Thời đức Thần-tông bên Trung-nguyên, đức Nhân-tông bên Đại-Việt có sự hiểu lầm do cường thần Vương An-Thạch tạo ra mà thành chiến tranh. Do vậy rất nhiều tướng Tống vị quốc vong thân, mồ mả không ai hương khói, hài cốt lạnh lẽo, âm hồn phiêu bạt. Cô gia đã sai nghĩa đệ là Trung-thư lệnh Tăng Khoa đảm trách việc làm mộ chí, bảo quản, để một mai đưa về Trung-thổ. Còn Hoa-sơn tứ đại thần kiếm, thì có tình sư huynh sư muội với Kinh-Nam vương vương phi là Trưởng-đại công chúa Huệ-Nhu, nên sau khi bốn vị vãng du tiên cảnh, phái Đông-a đã cho xây mộ, xây miếu thờ, một tháng đôi lần ngày sóc, ngày vọng, hương khói không ngừng. Bây giờ Thiên-triều muốn cải táng đem về cố thổ, thì tiểu-vương xin tuân chỉ. Không biết Ngu đại nhân chỉ muốn cải táng Tứ đại thần kiếm hay của tất cả chư tướng ?
Cuộc đi sứ của Doãn Văn bề ngoài là đòi ba sự việc, với mục đích dò la thái độ của thái-tử Long-Xưởng hơn là triều đình Đại-Việt : Long-Xưởng có thù hận Tống, định đem quân Băc-tiến không ? Nếu không, thì Tống có thể dồn quân lên Bắc đối phó với Kim, vì Kim đang chuẩn bị vượt sông Trường-giang đánh Tống. Còn như Long-Xưởng quả có ý đó thì Tống sẽ chịu lụy với Kim, đem quân xuống Nam-thùy, đánh chiếm Đại-Việt, đặt làm quận huyện.
Bây giờ Doãn Văn vừa đưa ra điều thứ nhất, không những Long-Xưởng vui vẻ chấp nhận, mà lại còn cho cải táng tất cả di cốt các tướng Tống nữa, điều mà cả sứ đoàn không ai ngờ tới. Doãn Văn chắp tay tạ Long-Xưởng :
- Đa tạ quốc-vương, đa tạ thái-tử.
Long-Xưởng hỏi Tăng Khoa cũng vẫn bằng tiếng Hàng-châu:
- Lục đệ ! Hiện có bao nhiêu mộ tướng Tống mà lục đệ đang bảo quản ?
Tăng Khoa bước ra :
- Khải điện hạ có 72 mộ tất cả. Hôm trước được chỉ dụ của Hoàng-thượng, thần đã cho chuẩn bị các di vật của bốn vị Hoa-sơn thần kiếm cùng chư tướng để gửi chư vị đại nhân đây mang về trao cho gia đình.
Nói rồi Tăng Khoa trao cho Ngu Doãn Văn một tập sách nhỏ, trên ghi tên họ, chức tước, ngày, giờ tử trận của 72 tướng Tống. Trong sách còn ghi luôn di vật của họ như đoản kiếm, đoản đao, vàng bạc, thẻ bài, y phục.
Tăng Khoa nói với Doãn Văn :
- Thưa Ngu đại nhân, tiểu nhân đã chuẩn bị sẵn ngõ tác (người chuyên cải mộ), tiểu bằng sứ Bát-tràng để đợi sự chứng kiến của đại nhân là cho cải táng.
Long-Xưởng hỏi Doãn-Văn :
- Khoản thứ nhất cô gia đã làm tròn chỉ dụ của Thiên-triều. Vậy khoản thứ nhì là gì ?
- Nói dấu gì điện hạ, hầu hết các võ tướng Tống đều xuất thân từ phái Hoa-sơn, bản sứ cũng là đệ tử phái Hoa-sơn, cũng có chút ít hư danh... Nguyên phái Hoa-sơn có bốn pho võ công trấn môn. Song từ khi Tứ đại thần kiếm bị cầm tù ở Nam-phương thì các tuyệt kỹ này thất truyền. Trong khi bị cầm tù, Tứ đại thần kiếm đã nhân tuyệt kỹ Hoa-sơn, mà viết ra pho võ kinh, mang tên Vô song vô đối, Trung-nguyên võ kinh. Nghe nói bộ võ kinh này hiện phái Đông-a lưu giữ. Các tướng Tống có làm biểu tâu lên hoàng-thượng, xin hoàng-thượng ngỏ một lời với quốc vương. Nếu như quốc vương tuyên chỉ cho phái Đông-a trao trả pho sách tâm huyết của bốn vị thần kiếm đem về Trung-nguyên, thì toàn phái Hoa-sơn từ trên xuống dưới đều thâm cảm.
Long-Xưởng bưng chung trà trao cho Doãn-Văn, rồi nói :
- Từ trước đến nay, các môn phái thuộc võ lâm An-Nam vẫn tiêu dao tự tại đứng ngoài vòng cương tỏa của triều đình. Các gia, các phái Hoa Việt giao hảo với nhau ân oán thế nào, triều đình không can thiệp vào. Phái Hoa-sơn với phái Đông-a trong quá khứ vốn có tình thông gia. Cái vụ Tứ đạiï thần kiếm soạn võ kinh này, cô gia không biết gì cả. Vì vậy, cô gia đã gửi sứ về Thiên-trường thỉnh đại hiệp Tự-Kinh việc này. Đại hiệp có sai Thần-nông sứ Trần Thủ-Lý lai triều. Cô gia xin đại nhân hỏi thẳng Thần-Nông sứ thì hơn.
Vương hô lớn :
- Kính thỉnh Thần-nông sứ !
Thủ Lý từ trong bước ra.
Lễ nghi tất.
Long-Xưởng thân kéo ghế mời Thủ-Lý ngồi, rồi nói với Ngu Doãn-Văn :
- Xin đại nhân đối thọai với Trần huynh.
Doãn-Văn phóng con mắt nhìn Thủ-Lý để tìm hiểu người đối thoại với mình. Thấy Thủ-Lý mặc quần áo theo kiểu nông dân, nhất là cái quần có hai miếng vá, cái áo thì bạc mầu. Bất giác Doãn nảy ra ý khinh khi. Doãn nói :
- Cứ theo như thế phả hành trạng, thì huynh đài đây với bản sứ ngang vai với nhau có phải thế không ?
Thủ-Lý lạnh lùng đáp bằng tiếng Hoa, giọng Hàng-châu:
- Thưa ngài Thiên-sứ, giữa ngài với tên thôn phu này không thể ngang vai được! Hoàn toàn không thể ngang vai. Thân phận chúng ta khác nhau xa lắm.
- Huynh đệ nói sao nghe lạ tai quá ! Cứ như kiến thức của bản sứ thì, huynh đệ là cháu bốn đời của thái công chúa Huệ-Nhu, mà công chúa với Tứ đại thần kiếm ngang vai. Còn bản sứ thì là đệ tử đời thứ tư của Tứ đại thần kiếm. Rõ ràng như vậy là chúng ta ngang vai với nhau, mà sao huynh đệ lại bảo rằng không phải ?
- Kính thưa ngài Thiên-sứ ! Nói với gã thôn phu này, câu đầu tiên ngài xưng là bản sứ, tức sứ thần của Tống triều sang Đại-Việt. Trong khi tôi chỉ là tên vai u thịt bắp, cầy sâu, cuốc bẫm. Danh phận cách nhau xa lắm.
Doãn-Văn ngắt lời :
- An-Nam chứ không phải Đại-Việt.
- Tôi là tên thôn phu Đại-Việt chứ không phải An-Nam. Cái tên An-Nam là do Tống triều nặn ra, chứ trước sau chúng tôi vẫn là Đại-Việt. Tôi nhắc lại Đại-Việt là Đại-Việt, chứ không phải là An-Nam. Nếu ngài muốn nói chuyện với tên thôn phu Đại-Việt thì tôi xin ngồi hầu chuyện ngài. Còn như ngài nhất định bảo tôi là tên thôn phu An-Nam thì ngài cứ ngồi mà nói chuyện một mình. Tôi xin kiếu từ.
Sợ Thủ-Lý bỏ đi, thì không hy vọng gì tìm lại võ kinh, Doãn-Văn đành nhượng bộ :
- Thôi được, Đại-Việt thì Đại-Việt.
Nói câu đó xong, Doãn-Văn tự chửi thầm :
- Thực là hỏng bét. Mình to đầu mà dại. Chỉ vì khinh khi thiếu niên này, mà qua câu câu đối thoại đầu tiên, mình đã bị thua rồi. Nhưng nhất định mình phải đưa y vào bẫy, rồi đòi cho bằng được bộ võ kinh.
Nghĩ vậy Doãn-Văn tiếp :
- Này Trần đệ đệ ! Đệ đệ với bản sứ vốn ngang hàng với nhau, mà sao đệ lại không mấy thân thiện với bản sứ là lý gì vậy ? Sở dĩ bản sứ phải nhắc lại quốc danh An-Nam, vì muốn chính danh mà thôi. Đệ đệ có đọc Luận-ngữ không ?
Thủ-Lý ngơ ngác hỏi :
- Luận-ngữ à ? Thế trong Luận-ngữ có chép cách nuôi cá mè, nuôi cá chép không ? À, tôi hiểu rồi, chắc trong Luận-ngữ dạy cách ủ phân, bón phân, gieo mạ hoặc làm thịt chó hẳn ?
Doãn-Văn phát cáu nhưng vẫn phải nín nhịn, y chửi thầm : Mình tưởng tên này có đôi chút học vấn, không ngờ y dốt quá. Như vậy càng dễ. Ngu giảng giải :
- Luận-ngữ là một sách trong Tứ-thư, chép những kỷ cương của đạo thánh.
- À thì ra Luận-ngữ chép mật quyết của đức thánh đấy. Thế thánh đây là thánh Gióng hay thánh Tản ?
- Không ! Thánh Khổng.
- Thánh Khổng à ? Oâng thánh này là ai vậy ? Tôi chưa từng nghe qua. Tôi không biết cái ông thánh này.
Ngu Doãn-Văn nghĩ thầm :
- Một tên nông dân ở sứ Nam-man không biết gì về đạo thánh thì cũng là sự thường. Ta phải bình tĩnh.
Doãn-Văn giảng giải :
- Thánh Khổng là một người đức mãn thiên địa, đạo quán cổ kim, quần thánh đại thành, vạn thế sư biểu. Trong Luận-ngữ có chép về cái lẽ chính danh như sau : Khi học trò hỏi rằng : Nếu thầy được nhà vua trao quyền, thì việc đầu tiên thầy làm gì ? Khổng-tử đáp : Phải chính danh. Hỏi : Sao phải chính danh trước ? Đáp : Danh có chính thì ngôn mới thuận, ngôn có thuận thì sự mới thành. Cho nên trước tiên, chúng ta phải chính danh : Huynh đệ với bản sứ ngang vai với nhau.
Ghi chú của thuật giả:
Đức mãn thiên địa, đạo quán cổ kim ,
Quần thánh đại thành, vạn thế sư biểu.
Có nghĩa là :
Đức đầy trời đất, đạo bao trùm cổ, kim. Trong các bậc thánh, thì ngài là người thành đạt nhất, ngài là người tiêu biểu cho ông thầy vạn thế.
Đây là câu đối thường viết ở hai bên những bức hình Khổng-tử.
Vào năm 1972 tại miền Nam Việt-Nam, anh em ký giả nhờ tôi là một đôi câu đối để nói về bốn ông tỉnh trưởng : Bạc-liêu nổi danh ác độc, An-xuyên nổi danh gian tham, Vĩnh-bình nổi danh ngu dốt, Kiến-phong nổi danh ăn bẩn. Tôi đã dùng câu này, biến đổi đi như sau :
Ác mãn thiên địa, gian quán cổ kim,
Quần cẩu đại thành, thực phẩn vạn thế.
Tôi chỉ muốn nói chung chung tính chất của bốn ông mà thôi. Song anh em ký giả sợ độc giả không hiểu rõ câu đó chỉ những ai, họ mới thêm thắt vào thành :
Ác mãn thiên địa Liêu vương Hoàng đại cẩu, để chỉ đại tá Hoàng Đức-Ninh, tham nhũng, đốt chợ, giết người. Gian quán cổ kim, U-minh vương Lê nhị cẩu, để chỉ đại tá Lê Chí-Cường, gian dối, cho em ruột đắc cử dân biểu.
Quần cẩu đại thành, Trà-vương Chung tam cẩu, để chỉ đại tá Chung Văn-Bông, thất học, mà làm tỉnh trưởng.
Thực phẩn vạn thế, Đồng-tháp ma vương Trần tiểu cẩu, để chỉ đại tá Trần Thanh-Nhiên, thủ đoạn vặt, ăn bẩn.
Liêu là Bạc-liêu, U-minh để chỉ tỉnh An-xuyên, nơi có rừng U-minh thượng, U-minh hạ. Trà-vinh để chỉ tĩnh Vĩnh-bình, tên cũ của Vĩnh-bình là Trà-vinh. Đồng-tháp để chỉ Đồng-tháp mười, tức tỉnh Kiến-phong.
Thủ-Lý vẫn lạnh lùng :
- Tôi nhắc lại, ngài là Thiên-sứ. Còn tôi chỉ là một anh thôn phu, thì địa vị, vai vế khác nhau xa lắm. Ngang với nhau sao được ? Bởi ngay câu đầu, ngài đã xưng là bản sứ rồi tiếp theo, toàn là bản sứ trường, với bản sứ đoản. Thưa ngài, nói theo bộ sách Luận-ngữ dạy cách ủ phân, nuôi cá, làm thịt chó thì chúng ta phải chính danh. Chính danh thì ngài là Thiên-sứ, còn tôi là tên thôn phu, sao có thể ngang hàng với nhau nhỉ ?
Bây giờ Doãn-Văn mới hiểu : Chỉ vì câu đầu mình xưng là bản sứ, mà Thủ-Lý nắm ngay lấy từ ngữ đó, để gây rắc rối. Y nghĩ thầm :
- Ta nghe đại hiệp Tự-Kinh là người có tài dọc ngang trời đất, mà ông ta sai thiếu niên này về gặp ta thì y phải là đứa cháu kiệt hiệt. Chỉ vì ta khinh thường y, mà ta bị y làm cho mắc lưới hai phen. Ta phải cẩn thận.
Y đổi hẳn giọng :
- Xin lỗi tiểu huynh đệ. Xin tiểu huynh đệ cho phái Hoa-sơn gửi lời vấn an đến Trần lão đại hiệp, và toàn thể phái Đông-a. Bây giờ chúng ta hãy đi vào ngay vấn đề.
Thủ-Lý thấy mình bắt bẻ Ngu Doãn-Văn như vậy cũng đủ để y bỏ bớt cái kiêu căng của một danh sĩ đi rồi. Bây giờ y đưa ra lời vấn an ông nội mình, thì cũng nên tử tế với y cho đúng đạo lý tộc Việt. Chàng gật đầu :
- Được, nếu nói về tình nghĩa giữa Hoa-sơn với Đông-a thì không thể dùng cái tiếng bản sứ ở đây. Vậy xin sư huynh cứ dạy.
- Từ khi Tứ đại thần kiếm bị giữ ở Thiên-trường, phái Hoa-sơn chỉ nhận được những mẩu tin chắp nối, mâu thuẫn với nhau. Còn thực sự hành trạngï ra sao thì không biết. Tuy nhiên chúng tôi biết rõ ràng rằng Tứ vị thần kiếm có soạn ra bộ Vô-song vô đối Trung-nguyên võ kinh. Xin huynh đệ cho biết thực sự ra sao ?
- Sau khi bị Mộc-tồn, Viên-Chiếu bị bắt tại trận Như-nguyệt, triều đình Đại-Việt định đem bốn vị thần kiếm ra chém đầu. Nhưng cao tổ mẫu nghĩ tình đồng môn, người xin với cao tổ phụ vận động với triều đinh để xin ân xá. Triều đình tha cho tội chết, giảm uống thành khổ sai chung thân, rồi giao cho phái Đông-a quản thúc bốn vị. Cao tổ mẫu truyền cấp nhà, tỳ nữ, bộc phụ hầu hạ sớm tối. Thông thường ban ngày các vị ấy tiêu dao với sơn thủy, chiều về thì luyện công... đời sống rất nhàn nhã. Mười năm cuối đời, các vị ấy thu đệ tử, đem đạo Lão ra truyền bá. Bản phái, thấy vậy, thì xây cho bốn vị một cái điện lớn để thờ chư thánh. Không mấy chốc, bốn vị nổi danh là bốn phù thủy rất cao tay, có tài trị tà, bắt ma giúp dân, nên điện lúc nào cũng đầy người ra vào. Các vị ấy nhờ dân chúng giúp đỡ tự xây lấy một cái miếu, theo đúng kích thước, hình dạng tổ đường của phái Hoa-sơn, lại mua bốn khúc gỗ vàng tâm lớn, khoét thành bốn cỗ hậu sự (quan tài, hòm), xây sẵn bốn cái mộ ở sau miếu. Khi các vị ấy vãng du tiên cảnh, thì đệ tử chiếu di chúc tống táng theo đúng lễ nghi của quý phái. Hiện nay miếu đó vẫn còn, ngày sóc, ngày vọng, dân chúng hương khói tấp nập.
Thủ-Lý ngừng lại, đưa mắt nhìn toàn thể sứ đoàn rồi tiếp :
- Cách đây ít năm, có bọn khách thương đột nhập miếu ăn cắp các di vật, họ bị dân chúng bắt nộp lên quan. Nghe đâu chúng xưng là mật sứ Thiên-triều tên Ngô Giới, Lưu Kỳ cùng cái gọi là Ngũ nhạc đại lĩnh, Hoa-nhạc tam phong, Hoa-nhạc tam nương. Điều này xin sư huynh cứ hỏi thái-tử thì rõ hơn.
Nghe Thủ-Lý nói, Long-Xưởng biết Thủ-Lý muốn cho sứ Tống biết rằng : Các môn phái Đại-Việt tuy tiêu dao tự tại, nhưng vẫn thượng tôn luật pháp.
- Thưa Thần-nông sứ.
Long-Xưởng nói dõng dạc : Những vị đó quả là mật sứ của Tống triều, họ cũng là những đệ nhất cao thủ của phái Hoa-sơn đấy !
- Cao thủ Hoa-sơn ư ? Tôi nghe nói, vua Thái-tổ, Thái-tông của Tống triều xuất thân từ phái này. Suốt bao năm qua, võ đạo Hoa-sơn lừng danh Thiên-hạ, mà sao những cao thủ bậc nhất lại đi ăn trộm ?
Doãn-Văn xấu hổ :
- Huynh đệ thông cảm, chỉ vì Ngô, Lưu sư huynh muốn tìm bộ Vô Trung kinh, mà hành sự có đôi chút hồ đồ.
- Tôi không tin, bởi nếu các vị ấy muốn tìm di thư của tiền nhân, sao không đường đường chính chính đến tổng đường phái Đông-a mà hỏi ? Thôi việc này xin trả lại cho Đỗ tể tướng phán quyết. Bây giờ tôi xin trở lại hành trạng của Tứ đại thần kiếm. Tứ vị thần kiếm qua đời, đã để lại khá nhiều di vật. Khi lên đường về đây, nội tổ truyền lệnh cho tôi mang theo nộp lên triều đình, tùy nghi triều đình quyết định. Còn cái gọi là Vô song vô đối Trung-nguyên võ kinh, thì Tứ đại thần kiếm đã dùng hết tâm huyết khắc vào mười tám cái thẻ đồng. Khi mai táng Tứ đại thần kiếm, cao tổ phụ 0 để di chúc truyền mai táng theo. Vậy các vị hãy về Thiên-trường cùng chúng tôi cải táng mộ Tứ đại thần kiếm, cùng tiếp nhận di thư một thể.
Long-Xưởng truyền thị vệ mang vào bốn cái hòm (rương) lớn trao cho Ngu Doãn-Văn. Doãn-Văn mở ra : Bên trong chứa bốn thanh kiếm, y phục, cùng các vật dụng hàng ngày như bút, nghiên, dày, dép ; lại có cả tiền vàng, bạc cùng một số sách vở.
Ngu Doãn-Văn chắp tay xá Long-Xưởng, Thủ-Lý :
- Đa tạ quốc-vương, đa tạ thái-tử, đa tạ Trần lão đại hiệp, đa tạ Thần-nông sứ.
Thủ-Lý cung tay :
- Thưa Ngu sư huynh, giữa những bậc tiền nhân của chúng ta vốn có tình thông gia, nên phái Đông-a đã dùng cái tình, cái nghĩa mà ở với phái Hoa-sơn. Vậy kể từ lúc này, đệ xin sư huynh cùng các vị trong sứ đoàn cũng lấy tình mà đối xử với triều đình Đại-Việt.