Triều đình cử Kiến-Tĩnh vương, Dao-thụ thái phó Ngô Lý-Tín lĩnh Lễ-bộ thượng thư, Thái-tử Thiếu-bảo , Công-bộ thượng thư Bùi Kinh-An lên Bắc-cương nghênh đón sứ đoàn, rước về Thăng-long, chờ chỉ dụ của triều đình.
Tể tướng Đỗ An-Di thỉnh nhà vua thiết Tinh-triều, nghị về việc đón sứ đoàn. Nhưng nhà vua se mình, vì vậy Thái-tử Long-Xưởng sẽ nhiếp chính, thiết triều thay thế vào ngày hôm sau để nghị về việc này.
Giữa lúc triều đình bận rộn như vậy, thì ngay chiều hôm ấy, phò mã Trần Thủ-Huy với công chúa Đoan-Nghi sai tiểu đồng đạt thư tới Thái-tử Long-Xưởng, vương phi Trang-Hòa, hoàng thúc Nghĩa-Thành vương ; tam vương Kiến-Ninh, Kiến-An, Kiến-Tĩnh ; Trung-thư lệnh Tăng Khoa với phu nhân Đào Như-Như hiện lĩnh chức Lễ-nghi học sĩ ... tới du thuyền đậu trên bến Cổ-ngư để thưởng thức món gỏi cá mè, món chim sẻ quay cùng chuối hương là thổ sản của Thiên-trường.
Khi mọi người tới chồ du thuyền đậu, họ đều ngẩn người ra vì thấy phò mã mặc quần áo nâu như nông dân. Còn công chúa thì mặc quần nái đen, áo cánh lụa mầu hoa cà. Khách xuống thuyền. Thuyền phu nhổ neo, chèo ra giữa hồ.
Công-chúa Đoan-Nghi cười rất tươi :
- Kính thưa chú, kính các anh, các chị, hôm nay chúng ta hội nhau ở đây để thưởng thức trăng thanh, gió mát. Vì vậy xin thúc phụ cho chúng cháu được dùng lối xưng hô dân dã.
Nghĩa-Thành vương cười lớn :
- Dân dã họ gọi em của bố mình là gì nhỉ ?
- Thưa thúc phụ là chú ạ.
Nói xong câu này, Đoan-Nghi biết mình hố to, vì dân dã họ đâu có gọi chú là thúc phụ. Mà vừa rồi nàng đã gọi vương là thúc phụ. Xấu hổ, tay nàng chỉ vào một thanh niên dáng người hùng vĩ, phong tư tiêu sái như câ ngọc trước gió:
- Trước hết cháu xin giới thiệu với chú, ông chủ thuyền, và cũng là đầu bếp hôm nay. Ông chủ thuyền này là Hải-hà sứ Phùng Tá-Chu.
Mọi người cùng bật lên tiếng ồ. Vì Tá-Chu là đệ tử của ông bà Trần Tự-Hấp. Tuy tuổi ngang với Thủ-Huy mà đã nức tiếng trong nước về việc tổ chức các đoàn nông dân tự vét lạch, khơi ngòi, dẫn nước vào ruộng ; lại tổ chức được đội thuyền đánh cá hàng nghìn chiếc.
Vừa vào tiệc, Kiến-Ninh vương đã hỏi Thủ-Huy :
- Nhị ca ! Dường như tiệc này bầy ra để bàn về việc tiếp sứ Tống, hơn là hưởng trăng thanh, gió mát thì phải.
Thủ-Huy cười :
- Ông anh vợ được bố đặt tên là Long-Minh có khác, thông minh thực. Dân chúng Thăng-long đồn rằng Kiến-Ninh vương thông minh nhất thiên hạ, sợ vợ nhì Đại-Việt, ăn nhiều thứ ba Thăng-long. Cái gì anh cũng đoán ra được.
- Thế người sợ vợ nhất Đại-Việt là ai vậy nhỉ ?
Mọi người cùng nhìn Long-Xưởng cười. Long-Xưởng vui vẻ :
- Tại sao người ta lại đồn như thế ?
Đào Như-Như liếc ngang, rồi cười :
- Người ta nói rằng anh cả sợ chị cả quá, thành ra chỉ biết mình chị mà thôi, đến nhìn người đẹp khác cũng sợ tội. Rồi anh cả bắt người xung quanh cũng chỉ biết có vợ. Nay mai anh cả lên ngôi vua, sẽ ban luật một vợ, một chồng như thời vua Trưng !
Vương phi Trang-Hòa hỏi Như-Như :
- Em có biết kiếp trước chị là ai không ?
- ? ? ?
- Mười tám kiếp liền, chị là hòa thượng. Mỗi kiếp chị gõ thủng mười tám cái mõ, công đức thực là dầy. Vì vậy kiếp này chị mới được làm vợ một người chí lớn nhất trời Nam.
Thủ-Huy dơ tay lên cao, ngụ ý xin yên lặng, rồi công nói :
- Anh cả mời chúng ta họp ở đây để bàn về việc tiếp sứ Tống. Anh không muốn họp Đông-cung triều nghị sự, vì lâu nay, trong triều, tại Đông-cung đều có con rắn độc, mà không biết hình tích chúng.
Mọi người đều gật đầu, tỏ ý tán thành.
Nghĩa-Thành vương Lý Long-Căn lên tiếng trước :
- Cái vụ sứ đoàn Mông-cổ, tới Đaiï-Việt thì có ước định trước. Như vậy đây là một sự bình thường. Còn sứ đoàn Tống thì vấn đề đặt ra là : Họ không sang về việc hiếu như điếu tang. Hỷ như mừng lên ngôi. Họ cũng không sang để phong chức tước. Vậy họ sang với mục đích gì ? Chú có cảm tưởng như Tốngï biết việc sứ Mông-cổ đang ở bên ta, nên họ sai sứ sang dò xét tình hình, vì vậy họ mới kiếm cớ bằng cách đòi di thư, đòi người.
Thủ-Huy phân tích :
- Ngu Doãn Văn là một đại danh sĩ Tống, y nổi tiếng về văn hay, về bút tự. Võ công y rất cao, y là sư đệ của Ngô Lân, Ngô Giới, hai trong Trường-giang ngũ hùng. Cả ba đều là khai quốc công thần triều Nam Tống. Ngô Lân, Ngô Giới, Nhạc Phi, Trương Tuấn, Hàn Thế Trung là những tướng thắng Kim nhiều trận, quyết đánh lên Bắc đem hai vua Huy-tông, Khâm-tông về. Sau khi Tống Cao-tông dùng Tể-tướng Tần Cối nghị hòa với Kim, thì Nhạc Phi bị giết, Ngô Giới sợ quá bỏ đi tu. Còn Ngô Lân, Trương Tuấn, Hàn Thế-Trung bị gọi về triều ngồi chơi xơi nước. Tuy vậy triều Nam Tống vẫn chia làm hai phe. Phe Tần Cối chủ hòa, được nhà vua tin dùng, mà dân chúng, võ lâm khinh khi. Còn phe Ngô Lân chủ chiến, nhưng nhà vua không ưa, tuy vậy vẫn phải dùng, nhưng họ được lòng dân chúng, võ lâm. Lân là nhân vật thứ nhì của phái Hoa-sơn, sau Ngô Giới. Lân mới chết năm trước, Tống triều truy phong là Tín Vương. Nay nhà vua 0 lui về làm Thái-thượng hoàng, nhường ngôi cho cháu đã sáu năm. Không biết sự tranh quyền giữa hai phe có gì thay đổi không ?
Không ai trả lời được câu hỏi này của Thủ-Huy.
Kiến-Ninh vương bàn :
- Ta không nên cho hai sứ đoàn gặp nhau. Vì họ gặp nhau, thì e lộ ra việc ta kết thân với Kim, như vậy Tống biết trước việc ta ra quân. Vả ngày mai, sứ Mông-cổ đã lên đường về nước rồi.
Ghi chú của thuật giả:
Việc hai sứ đoàn Tống, Mông-cổ cùng sang một lúc, ĐVSKTT chép rất sơ lược :
Chính-long Bảo-ứng thứ 6 (Mậu Tý, DL.1168), Tống Càn-Đạo năm thứ 4, mà Thu, tháng 8, sứ nhà Tống sang. Sứ Thát-đát cũng sang. Đều thưởng hậu để dụ, ngầm lấy lễ tiếp đãi hai sứ, không cho họ gặp nhau.
KHĐVSTGCM lại chép là sứ Tống, sứ Kim cùng sang, chứ không phải sứ Mông-cổ.
Một vài sử gia xưa cho rằng Mông-cổ lập quốc vào niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ 2 (Bính Dần, DL.1206) đời vua Lý Cao-tông, thì không thể có việc sứ Mông-cổ sang Đại-Việt vào lúc này được. Lý luận ấy vào thời trước thì có thể có lý. Ngày nay, tham khảo hàng trăm bộ sử viết về Mông-cổ của Trung-quốc, Nhật-bản, Đại-hàn, Trung-Đông, châu Âu tôi thấy rõ : Cái năm 1206 là năm mà Thành Cát Tư Hãn thành lập một đế quốc thống nhất, chứ nước Mông-cổ đã được thành lập từ lâu.
Chỉ độc giả Anh-hùng Đông-a mới biết rõ chi tiết việc này mà thôi.
Kiến-Hòa vương vốn là người mưu trí, thâm trầm. Vương góp ý :
- Từ mấy năm nay, Tống chỉ đòi Lạc-Nhạn với Vân-Đài mà thôi. Lần này họ đòi cải táng xương Tứ đại thần kiếm với bộ Vô Trung kinh, đó là điều khác lạ ta cần chú ý. Trước hết, cái vụ đòi cải táng người quá cố, thì ta cũng không tiếc gì mà không cho họ làm. Việc thứ nhì là họ đòi bộ Vô Trung kinh, ta cứ trả lời rằng họ muốn thì tìm đến phái Đông-a mà hỏi, triều đình không biết đến. Còn đòi người, thì rõ ràng là họ gây sự. Bởi họ dư biết hai người này trốn đi, có khi tiềm ẩn ở Đại-Việt, có khi đã về Trung-quốc rồi. Trước đây sứ ta đã trả lời như vậy, mà nay họ còn đòi nữa. Im xem họ định gây sự với mục đích gì?
Kiến-Ninh vương Long-Minh, vốn là người cương quyết, nóng nảy. Vương góp ý với Nghĩa-Thành vương :
- Thưa chú, theo cháu nghĩ , ta đang ở thế mạnh, Tống đang ở thế yếu. Ví dù Tống có gửi sứ sang hoạnh họe, ta há sợ sao ? Có điều khi họ tuyên chỉ của Tống đế, thì phụ hoàng phải trả lời ngay. Mà phụ hoàng thì không nắm được tình hình. Cháu nghĩ, ta nên khuyên phụ hoàng cáo bệnh, rồi anh cả nhiếp chính, thay thế phụ hoàng đối đáp với sứ thần.
Thủ-Huy hỏi :
- Trong cuộc tiếp sứ, ta phải có thái độ nào ? Ngang tàng ? Nhũn nhặn ? Hay khiếp nhươc quỳ lụy như mấy lão nho thần già nua ?
Chưa ai kịp trả lời thì Như-Như chỉ ra phía mũi thuyền :
- Chả biết có sự gì lạ không, mà từ lúc thuyền chúng ta rời bến đến giờ, có năm con thuyền nhỏ, dương buồm chạy như bay, vòng vòng quanh thuyền ta, giống như đèn kéo quân vậy.
Mọi người cùng nhìn theo tay Như-Như chỉ : Năm con thuyền, dương năm cánh buồm giống hệt nhau, nhưng mầu sắc khác nhau vàng, trắng, đen, anh, đỏ. Long-Xưởng chợt nhớ lại chuyện cũ cách nay gần mười năm. Bấy giờ vương cùng Thủ-Huy bị bọn Hoa-sơn bắt cầm tù trên con thuyền đinh lớn. Rồi năm chiếc thuyền câu cánh buồm năm mầu khác nhau của Vỵ-xuyên ngũ tiên xuất hiện giải cứu vương với Thủ-Huy. Bất giác vương quay lại nhìn Thủ-Huy như hỏi ý kiến. Thủ-Huy mỉm cười gật đầu. Vương phì cười :
- Thì ra nhị đệ đã dàn Vỵ-uyên ngũ tiên để canh chừng cho cuộc mật nghị này.
Long-Xưởng vẫy tay cho mọi người ngồi xuống :
- Người nhà cả đấy. Đừng ái ngại.
Bỗng con thuyền có cánh buồm trắng rẽ sóng đâm vào hông du thuyền với tốc độ cực nhanh. Bấy giờ người ta mới thấy rõ trên con thuyền nhỏ có hai người. Một người đàn ông và một người đàn bà. Người đàn bà chính là một trong Vỵ-xuyên ngũ tiên tên Bạch-Hạc. Còn người đàn ông là Vũ Phòng-Phong chồng của Bạch-Hạc. Thủ-Huy vẫy cho mọi người chuẩn bị đón vợ chồng Phòng-Phong, thì ầm, ầm hai tiếng. Hai người từ phía dưới bánh lái du thuyền tung người lên như hai con cá. Còn ở trên không, hai người phóng chưởng tấn công vợ phòng Phòng-Phong. Bạch-Hạc giật dây buồm một cái, con thuyền đổi chiều vọt ra xa. Hai người kia rơi tòm xuống hồ. Vừa rơi xuống, hai người lại vọt mình lên cao, tà tà đáp xuống du thuyền. Vừa đáp xuống, hai người lạng một cái đã xuất chưởng tấn công Long-Xưởng với Thủ-Huy. Chưởng lực hùng hậu vô cùng. Cả hai cùng phát chiêu đỡ. Bùng, bùng hai tiếng, Long-Xưởng bị bật tung về sau, cánh tay vương cảm thấy ê ẩm, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Còn Thủ-Huy với người kia cùng lảo đảo lùi lại.
Năm con thuyền của Vỵ-xuyên ngũ tiên đã vây quanh du thuyền.
Bấy giờ Long-Xưởng mới nhìn đối thủ : Người đối chưởng với Long-Xưởng là đàn bà. Còn người đối chưởng với Thủ-Huy là đàn ông. Cả hai đều mang mặt nạ da người. Không hổ là một Thái-tử, Long-Xưởng chắp tay vái hai người :
- Xin nhị vị cho biết cao danh quý tính. Anh em chúng tôi đang uống rượu ngắm cảnh, hai vị giá lâm sao không lên đồng ẩm, mà lại ẩn dưới bánh lái như vậy e nhẹ thể chăng ?
Người đàn ông cười nhạt :
- Tưởng võ công Giao-chỉ thế nào hóa ra chỉ có hư danh mà thôi.
Thủ-Huy chắp tay :
- Tại hạ tuổi còn trẻ, lại xa phụ huynh từ lâu, rất thẹn không học được quá ba thành của ông cha... xin cao nhân cho biết cao danh, quý tính ?
Người đàn bà nói giọng the thé chói tai :
- Nếu trong các người có kẻ nào đỡ được của lão nương ba chưởng, thì mới đủ tư cách hỏi đại danh chúng ta. Còn không thì đừng hòng.
Long-Xưởng thấy vạn vạn lần mình không thể là đối thủ của người đàn bà này. Còn người đàn ông thì bản lĩnh ngang với Thủ-Huy. Vương chưa quyết định, thì thình lình cả hai thích khách cùng hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt rồi phóng chưởng tấn công Tăng Khoa với Như-Như. Hai người kinh hãi, vội tung người lên cao tránh đòn thì hai thích khách nhảy ùm xuống hồ, thoáng một cái đã lặn mất. Nhưng Hoàng-Anh, Bạch-Hạc còn nhanh hơn, hai nàng tung chài xuống nước, rồi giật mạnh một cái : Trong chài của Hoàng-Anh đã cuốn tròn người đàn ông, và chài của Bạch-Hạc đã cuốn tròn người đàn bà. Hai nàng chuyển tay, chài vung lên cao rồi mở ra. Hai người rơi xuống sàn du thuyền như hai quả mít rụng.
Năm con thuyền của Vỵ-xuyên ngũ tiên lại dương buồm vọt ra xa, tiếp tục lượn vòng tròn quanh du thuyền. Tiếng Hoàng-Anh vọng lại :
- Kỳ này về ta mách mẹ cho biết. Ai đời mang tiếng là con giòng, cháu giống, đệ tử danh môn, tuổi lại không còn nhỏ... Hơn nữa làm quan lớn, tước tới Quốc-công, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, được thọ ơn làm phò mã, mà mật nghị không đề phòng để gian nhân nghe trộm. Hãy chuẩn bị đít ra mà lĩnh đòn.
Thủ-Huy nói vọng theo :
- Đa tạ năm bà chị.
Phùng Tá-Chu chạy lại lột tấm da bịt mặt hai tù nhân ra : Cả hai tuổi khoảng ba chục, gương mặt rõ ràng không phải là người Việt.
Thủ-Huy mỉm cười nói nhỏ vào tai công chúa Đoan-Nghi mấy câu. Công chúa ngần ngừ lắc đầu. Công lại nói mấy câu nữa. Công chua thở dài rồi miễn cưỡng vỗ vào vai hai thích khách, mỗi người một cái. Thủ-Huy giải khai huyệt đạo cho hai người.
Bỗng Kiến-Tĩnh vương kêu lên :
- Thì ra hai vị đó sao ?
Vương chỉ hai người giới thiệu với Long-Xưởng :
- Thưa anh, hai vị này, thuộc sứ đoàn Tống. Hôm em tiếp sứ đoàn từ Bắc-cương về Thăng-long, thì được giới thiệu là Ngô Tá-Quốc và Ngô Phụ-Gia, lĩnh nhịệm vụ thông dịch của sứ đoàn.
Long-Xưởng đưa mắt cho Như-Như, với Tá-Chu. Tá-Chu mỉm cười, đem hai người xuống tầng dưới khoang thuyền, rồi chỉ vào cái ghế dài :
- Xin hai vị an tọa.
Hai người họ Ngô vừa ngồi xuống thì cảm thấy rùng mình, người lạnh run lên bần bật. Không chịu nổi, cả hai cùng kêu lên :
- Ái !
Rồi : Úi ! Lạnh quá.
Cả hai vận công chống lạnh, nhưng vô ích.
Tá-Chu cười nhạt :
- Thiên-đường có nẻo các vị không tới, địa ngục không đường dẫn xác vào. Các vị thuộc sứ đoàn được tiếp đãi trọng thể thế mà lại ra đây ẩn ẩn hiện hiện nghe trộm, để đến nỗi bị bắt. Bây giờ các vị có hai chọn lựa.
- Ái, lạnh quá ! Lạnh chết mất.
Tá-Chu hỏi :
- Hai vị có biết tại sao trong người lại lạnh như vậy không ?
- Tôi không biết. Ai !
Tá-Chu chỉ vào Đoan-Nghi :
- Hai vị bị công chúa dùng Huyền-âm chưởng dồn độc tố vào người. Nội trong hai giờ mà không có thuốc giải thì chết.
Nghe Tá-Chu nói, hai người họ Ngô kinh hãi rụng rời chân tay :
- Xin cho tôi thuốc giải.
- Chưa vội ! Nội trong một giờ các vị mới bị đóng thành băng kia mà.
Chàng bảo thuyền phu :
- Phiền sư đệ mang cho tôi một con gà.
Thuyền phu ngơ ngác không hiểu Tá-Chu muốn gì ? Tuy nhiên anh ta cũng đem ra một con gà.Tá-Chu đưa mắt cho Đoan-Nghi. Đoan-Nghi ngần ngừ, rồi vỗ tay lên lưng con gà một cái. Lập tức con gà run run, nằm bất động. Khoảng nhai dập miếng trầu, con gà bị đóng băng lạnh cứng. Tá-Chu chỉ vào con gà :
- Một giờ sau hai vị cũng như con gà này.
Nói rồi chàng nhìn lên trời trong xanh :
- Các vị hãy nhìn trời lần cuối đi, bằng không lát nữa uống Aâm-phủ, có muốn nhìn cũng không được.
Ngô Tá-Quốc run run :
- Xin thiếu hiệp ban thuốc giải, tiểu nhân biết tội rồi !
- Muốn có thuốc giải cũng không khó, chỉ cần hai vị cung cấp cho tôi ít tin tức.
- Ái, lạnh quá. Tiểu nhân xin khai.
- Được.
Tá-Chu nói với Như-Như :
- Xin phu nhân mang bà Phụ-Gia ra đầu thuyền hỏi cung. Tại hạ hỏi ông Tá-Quốc. Nếu như hai người khai không giống nhau, thì ta lại hỏi cung lại. Cứ như vậy cho đến khi họ khai giống nhau thì thôi. Nếu như phải hỏi đi, hỏi laiï, thời gian quá một giờ, hai người có bị đóng thành băng là tại họ muốn thế.
Như-Như dẫn Phụ-Gia lên tầng trên. Còn Tá-Chu hỏi cung Tá-Quốc rồi hỏi :
- Xin tiên sinh cho biết mục đích thực sự của sứ đoàn sang đây để làm gì ?
- Hiện quân Kim đang chuẩn bị vượt sông Trường-giang đánh xuống Lâm-an. Trong khi đó tế tác lại báo về rằng An-Nam liên binh với Kim, Đại-lý cùng xuất quân đánh từ Nam lên. Triều đình nghị sự phân vân. Phe của cựu tể tướng Tần Cối thì cho rằng An-Nam mới được công nhận quốc danh, vua mới được phong làm An-Nam quốc vương, chắc là thỏa mãn rồi, thì không có việc đem quân đánh vào Lưỡng-Quảng. Vậy, triều đình có thể đem hết quân Nam thùy dàn ra phòng Kim. Ngược lại phe của các võ quan, hầu hết là người phái Hoa-sơn thì quả quyết rằng họ có người tiềm ẩn khắp triều đình An-Nam. Tế tác báo cho biết rằng người cầm quyền ở An-Nam không phải vua, chẳng phải tể tướng, mà là Thái-tử Long-Xưởng. Hiện Thái-tử đã liên kết với Kim, Đại-lý, chuẩn bị cùng ra quân. Vậy triều đình nên mềm với Kim, rồi dồn quân về Nam-thùy đánh chiếm An-Nam, đặt làm quận huyện... Hai phe tranh cãi nhau kịch liệt. Hoàng thượng quyết định gửi sứ đoàn sang để xem xét thực hư ra sao.
Tá-Chu hỏi thêm các chi tiết về Tống triều, về sứ đoàn, rồi lên sàn thuyền gặp Như-Như. Hai người trao đổi tin tức thu được, thấy không có gì khác nhau, thì tin là đúng. Tá-Chu vào khoang thuyền báo cho Long-Xưởng với Thủ-Huy biết mọi sự. Long-Xưởng bảo Như- Như :
- Bây giờ ta có thể thả anh em họ Ngô ra, và lợi dụng họ được. Em gọi họ lên đây.
Hai anh em họ Ngô hành lễ với Long-Xưởng. Long-Xưởng kéo ghế mời ngồi, rồi dùng lời lẽ ôn tồn ban chỉ :
- Hai vị là cao thủ phái Côn-lôn, đi theo làm cận vệ cho Tần Hy, chẳng qua cũng vì tiền. Bây giờ hai vị bị trúng Huyền-âm độc chưởng, cô gia sẽ ban thuốc giải cho. Nhưng thuốc này chỉ hiệu nghiệm trong sáu tháng mà thôi. Sáu tháng sau, lại phải uống nữa. Bây giờ như thế này.
Long-Xưởng đưa mắt cho Thủ-Huy. Thủ-Huy cười :
- Tần Hy sai hai vị đi thám thính, nếu bây giờ hai vị trở về, mà không thu được tin tức gì, thì Hy sẽ trách mắng. Vậy hai vị về nói vời Hy như sau : Hai vị theo dõi cuộc du ngoạn trên hồ Tây của Thái-tử Long-Xưởng. Trên thuyền gồm có các nhân vật sau...
Công chỉ từng người, nói rõ tên họ, chức tước, bắt hai người họ Ngô nhắc đi nhắc lại thuộc làu, rồi tiếp :
- Hai vị nói với Tần Hy rằng : Trong cuộc du ngoạn, Long-Xưởng với Thủ-Huy không ngớt lo lắng rằng, Kim mạnh như vậy, nếu như Kim diệt Tống, thì họ sẽ tràn sang chiếm Đại-Việt. Nếu như chiến tranh Tống, Kim xẩy ra, thì có lẽ Đại-Việt phải gửi những tướng tài nhất sang giúp Tống, nếu cần thì đem lương thực, cung tên sang tặng Tống.
Ngô Tá-Quốc hỏi :
- Nếu như Hy hỏi về việc liên binh với Kim thì sao ?
- Trả lời như thế này.
Long-Xưởng dặn :
- Trần Thủ-Huy bị trúng độc, e khó sống lâu, mà phải có Thái-tử sâm mới trị được. Nên Thủ-Huy dẫn một số thân binh, tìm đường sang Liêu-Đông Trung-quốc hoặc Cao-ly để tìm mua. Không ngờ mua không được. Giữa lúc đó có người mách rằng bên Khắc-liệt hiện có nhiều loại sâm này. Thủ-Huy cùng tùy tùng sang Khắc-liệt. Vua Khắc-Liệt mời phái đoàn Việt dự cuộc tranh tài tuyển tướng. Trong cuộc tranh tài này, danh tướng Bác Nhĩ Truật bị trúng độc Liêu-Đông chưởng của A-lỗ Cốt-đả. Không biết bằng cách nào đó người Mông-cổ biết trong phái đoàn Đại-Việt có danh y Phạm Tử-Tuệ, nên họ đón đường xin trao đổi : Họ xin y sư Tử-Tuệ trị cho Bác Nhĩ Truật, ngược lại họ tặng Thái-tử sâm để Thủ-Huy trị bệnh. Nhưng sau khi phái đoàn Đại-Việt về, thì lại một danh tướng của Mông-cổ là Biên Gô Đài bị trúng độc, nên sứ Mông-cổ mới sang Đại-Việt xin thuốc.
Đến đây hai người họ Ngô lạnh quá, hai hàm răng cắn vào nhau lập cập. Đoan-Nghi lấy ra hai viên thuốc, rồi bắn vào hai người. Hai viên thuốc bay rất chậm, nhưng quay với tốc độ cực nhanh. Khi sắp chạm vào người anh em họ Ngô thì tan ra thành bụi, chụp lên người họ. Anh em họ Ngô rùng mình một cái, cảm giác lạnh từ từ biến mất.
Long-Xưởng tiếp :
- Hai vị nên biết rằng từ trước đến giờ phái Hoa-sơn đã gửi mật sứ, không biết bao nhiêu cao thủ sang Đại-Việt. Khi thì họ đe dọa phải nộp vàng bạc, gái đẹp cho họ, bằng không họ sẽ tâu Thiên-tử đem quân sang làm cỏ Đại-Việt. Tuy Đại-Việt tôi dân thưa, đất sỏi đá khô cằn nghèo khó, nhưng vì sợ binh oai Thiên-triều mà phải cúi đầu hối lộ cho đám Hoa-sơn, chứ chưa bao giờ họ lên tiếng đòi võ kinh cả. Lần đi sứ này, họ cũng chỉ muốn đòi vàng bạc mà thôi. Hai vị có thể liệu lời nói với Tần đại nhân rằng chúng tôi không có lễ hậu với ngài thì ngài cũng thông cảm cho, vì chúng tôi có bao nhiêu đã dâng cho Ngu đại nhân.
Thủ-Huy căn dặn :
- Bây giờ hai vị trở về, cứ thế mà thi hành. Sau khi công việc xong xuôi, vương gia sẽ ban thưởng cho mỗi người mười nén vàng.
Ngô Tá-Quốc hỏi :
- Nếu sau sáu tháng, bệnh của tiểu nhân tái phát thì sao ?
- Nếu những gì chúng ta dặn mà người thi hành đúng, thì không những được thưởng vàng, mà còn được trao thuốc giải vĩnh viễn. Thôi ta sẽ sai người đưa hai vị vào bờ.
Thủ-Huy ra ngoài hú lên một tiếng dài, lập tức con thuyền của Huyền-Mi rẽ sóng như bay, phóng tới chỗ du thuyền. Thủ-Huy nói vọng xuống :
- Xin bà chị cho nhị vị đây vào bờ dùm.
Hai người họ Ngô rời du thuyền đi rồi, Long-Xưởng hỏi Thủ-Huy :
- Bây giờ ta phải làm gì ?
Đào Như-Như thừ mặt ra, rồi thở dài não nuột. Đoan-Nghi hỏi :
- Em có điều gì muốn nói ?
- Em lấy làm lo lắng vô cùng, vì bọn sứ Tống mới đến Thăng-long có hơn một ngày, mà sao hai tên họ Ngô đã có thể biết đường đi nước bước mà ẩn dưới bánh lái thuyền của ta ? Cuộc họp này, nhị ca mời rất bí mật, nơi họp cũng mật, mà sao chúng biết được ?
Kiến-Ninh vương cũng than :
- Như vậy rõ ràng bọn sứ đoàn biết rõ tình hình Đại-Việt, biết rõ ràng rằng người cầm quyền là anh cả, nên chúng mới theo dõi. Theo như đệ nghĩ, thì không phải chỉ có hai tên họ Ngô, mà còn nhiều tên nữa, phân tán đi các cung, các phủ rình rập.
Thủ-Huy nghiến răng :
- Từ trước đến giờ, chúng ta khốn khổ bao phen vì có con rắn độc của Tống, mà không tìm ra manh mối. Bây giờ chúng ta có thể biết rõ ràng hơn : Chúng phải là người rất gần, rất thân, mới biết rõ có cuộc họp này. Ta đang chuẩn bị xuất quân, mà tất cả chuẩn bị của ta, Tống biết hết. Nếu ta không khéo léo, thì Tống dồn quân xuống Nam thùy, ta phải lĩnh hết. Vậy bây giờ, khi tiếp sứ Tống ta phải có thái độ nào ?
- Không khó !
Nghĩa-Thành vương bàn :
- Ta đã biết rõ mục đích của sứ đoàn, lại biết chi tiết rằng chánh, phó sứ là đại diện cho hai khuynh hướng tại triều Tống rồi. Vậy thì đối với phe chủ hòa Tần Hy ta tỏ ra thân mật để kết thân. Còn phe chủ chiến Ngu Doãn-Văn, thì ta tỏ ra khinh rẻ, gây ra đủ thứ rắc rối.
Thủ-Huy biết ông chú vợ mình văn tài, trung thuần thì có, mà mưu trí thì không làm bao, công nắm lấy tay ông :
- Cháu nghĩ là mình nên làm một cái gì khác hơn, chứ như vậy thì bình thường quá.
Công đưa mắt nhìn Tá-Chu
- Chú nghĩ sao ?
- Em nghĩ mình nên làm ngược lại những gì mà Nghĩa-Thành vương bàn.
Long-Xưởng tán thành
- Đúng vậy.
Mọi người đều ngạc nhiên. Tá-Chu phân tích :
- Ngay từ khi triều Nam Tống được lập lên, các đại thần đã chia làm hai khuynh hướng chống đối nhau. Phe chủ hòa hầu hết là quan văn, tuy không có sức mạnh, nhưng lại được nhà vua nghe theo. Phe chủ chiến có nhiều công trạng, được dân chúng kính phục, lại bị nhà vua nghi ngờ. Cuối cùng phe chủ hòa do tể tướng Tần Cối cầm đầu thắng thế, phe chủ chiến do Nhạc Phi cầm đầu bị bại. Phi cùng một số tướng bị giết cả nhà, thân thể đem phơi nắng phơi mưa cho ruồi bâu, cho dòi đục. Vợ, con gái bị đem cho binh sĩ giải trí ở ngoài mặt trận. Các tướng võ có công, thì bị đem về triều ngồi chơi xơi nước. Tuy sau này Ngô Lân, Lưu Kỳ, Trương Tuấn, Hàn Thế-Trung có dành lại được chỗ đứng trong triều nhờ dân chúng kính phục. Nhưng phe Tần Cối vẫn mạnh. Nay tuy Cối đã qua đời, nhưng được truy phong Thân-vương, các con đều là cường thần...Hai phe lại mới nảy ra một tranh chấp nữa là vấn đề Đại-Việt ta. Vậy tội gì ta không đổ dầu vào cái nhà đang cháy này !
Nghĩa-Thành vương mừng lắm :
- Theo thiếu hiệp, mình nên đổ dầu vào chỗ nào. Đổ như thế nào ?
- Từ trước đến giờ phe chủ chiến đã gửi không biết bao nhiêu tế tác sang ta, kể cả bọn mật sứ với mục đích chính là chiếm Đại-Việt, mục đích phụ là tìm võ kinh. Khi ta phá vỡ âm mưu này, làm phe chủ chiến mất hết uy tín. Phe chủ hòa đổ tội cho phe chủ chiến dĩ công vi tư, đem tế tác sang ta chỉ với mục đích tìm võ kinh, chứ không phải vì muốn mở rộng đất đai. Chính vì vậy, mà bao nhiêu tin tức của phe chủ chiến do tế tác gửi về, nhà vua đều không tin. Bây giờ những chuẩn bị của ta trong việc đòi lại cố thổ, tế tác gửi về chi tiết quá, nên nhà vua đã hơi nghiêng về phe chủ chiến, do vậy mới có sứ đoàn sang tìm hiểu này.
Chàng ngừng lại một lát rồi tiếp :
- Bây giờ ta biến cuộc đi sứ này thành việc phái Hoa-sơn sang đòi võ kinh, đòi người và yêu sách tiền bạc. Ban nãy Thái-tử đã bịa ra việc bấy lâu ta dâng gái, vàng bạc cho bọn Hoa-sơn, chiều nay vợ chồng họ Ngô sẽ cáo với Tần Hy. Chính nghĩa của bọn Hoa-sơn bị mất hết. Xong việc, sứ đoàn về nước, bọn chủ chiến sẽ bị nghi ngờ, bị kết tội mưu đồ tư lợi. Muốn thế, trong khi tiếp sứ, ta phải tỏ ra hết sức nhún nhường, nhún nhường đến độ ty tiện, lại hậu lễ vơí bọn Ngu Doãn Văn , coi rẻ bọn Tần Hy. Như thế dù muốn dù không bọn Tần Hy sẽ ghen tức với bọn Ngu Doãn-Văn, và khi về nước chúng sẽ kết tội bọn Ngu là gửi tế tác sang ta để đòi võ kinh, đòi tiền, đòi gá, là sai tế tác bịa đặt ra tin tức ta liên kết với Kim, Đại-lý đánh Tống. Ta lại có hai người họ Ngô, là chân tay của Tần Hy, ta cho chúng vàng, để chúng đâm bị thóc, chọc bị , khiến Tần Hy ghen với Ngu Doãn-Văn. Chắc chắn sau cuộc đi sứ này, tế tác của Ngu có đem tin về Tống, nhà vua cũng không nghe. Tống triều sẽ dồn hết binh lực lên Bắc đánh với Kim, bấy giờ ta ra quân như sét nổ, thì mới thành công.
Kiến-Tĩnh vương hiến mưu :
- Các đại thần lớn tuổi hầu hết không biết nói tiếng Hoa, thảng hoặc chỉ biết nói tiếng Quảng. Nhờ anh Cả trông rộng nhìn xa, mấy năm nay anh mượn thầy dạy chúng ta nói tiếng Hoa bằng âm Lâm-an 0. Vậy trong cuộc tiếp sứ, chúng ta cứ thay nhau đối đáp với họ bằng tiếng Hàng-châu, khiến các đại thần không hiểu gì, mà người Tống lại vui lòng. Sau đây là những chi tiết chúng ta phải thi hành...