watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
13:52:2926/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 9 - Anh Hùng Đông A - Dựng Cờ Bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Chương 16-30 - Trang 2
Chỉ mục bài viết
Tập 9 - Anh Hùng Đông A - Dựng Cờ Bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Chương 16-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Trang 36
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 36

Chương 16b

Long-Hòa mỉm cười hướng Ngô Lý-Tín :
- Thưa Thái-phó, thế chữ Hoa-hạ để chỉ Trung-quốc gốc từ đâu ? Tại sao lại có tên này ?
Đáng lẽ đến đây Ngô Lý-Tín ngừng lại để thở, nhưng khi một hoàng tử hỏi một câu đúng vào cái sở trường của mình, ông cố lấy hơi tiếp :
- Nguyên từ thượng cổ, người Trung-hoa cư trú quanh vùng sông Hoàng-hà. Còn bốn phương là các tộc khác. Để đề cao mình là giống dân có lễ nghĩa, nên họ tự xưng là Hoa-hạ. Chữ Hoa-hạ được giải thích trong Tả-truyện : « Miện phục thái chương viết Hoa, đại quốc viết Hạ ». Nghĩa là : Áo mũ đẹp đẽ, rực rỡ gọi là Hoa, nước lớn gọi là Hạ. Như vậy Trung-quốc là Hoa-hạ, các tộc xung quanh phải theo gió mà quy phục. Chu Lễ, thiên Vương-chế nói :
Đông phương viết Di,
Tây phương viết Nhung,
Nam phương viết Man,
Bắc phương viết Địch.

Nghĩa là :
Dân tộc ở phương Đông của Trung-quốc là Man-di, ở phương Tây là Khuyển-nhung, ở phương Nam là Nam-man, ở phương Bắc là Bắc-địch. Điện hạ có thấy không ? Khi viết Man, người Hoa họ dùng bộ trùng là sâu bọ, chữ Địch họ dùng bộ khuyển là chó không ? Ta so với họ chỉ là sâu bọ , là chó mà thôi, vì thế ta phải hướng về Trung-nguyên mà quy phục, như chó theo chủ.
Đến đây ông ta mệt quá, không nói nổi nữa. Long-Xưởng nói với mấy đại thần chủ hòa :
- Không biết Ngô Thái-phó giảng như vậy có đúng sách vở không ?
Tô Hiến-Thành, Lý Kính-Tu đều gật đầu :
- Ngô Thái-phó kiến giải thực không sai. Cái lý của thiên hạ là như vậy !
Long-Xưởng đưa mắt cho Thủ-Huy, ngụ ý nói : Như vậy đủ rồi, nhị đệ bẻ gẫy lý luận của bọn hủ nho đi.
Nhưng Thủ-Huy chưa kịp nói thì Tham-tri chính sự (phó tể tướng), kiêm Hộ-bộ thượng thư Vũ Tán-Đường, lĩnh Vũ-lâm đại học sĩ đã bước ra xin nói. Long-Xưởng gật đầu :
- Xin đại học sĩ bình thân mà nghị luận.
- Thưa quan Thái-phó, những lời nghị luận của quan Thái-phó đều trích dẫn trong các sách cổ của Trung-quốc. Mà các sách này lại được viết ra bởi bọn văn nhân hồ đồ, không đi ra ngoài, chỉ ngồi trong bốn bức màn, tưởng tượng ra. Căn bản là Ngũ-phục, Cửu-châu. Cái gọi là Ngũ-phục hay Thiên-hạ chỉ quanh quẩn ở lưu vực sông Hoàng-hà, chứ đâu có bao gồm Đại-Việt ta ? Thế thì kinh Thư nay có còn đúng nữa hay không ?
Kiến-Ninh vương Long-Minh nói lớn :
- Lý luận quanh sách của người Hoa, thì tại sao không lý luận thực tiễn lịch sử của Trung-hoa, của ta ? Xưa kia vua Minh lập đàn trên núi Ngũ-lĩnh, tế cáo trời đất, rồi phân chia lãnh thổ làm hai. Từ núi Ngũ-lĩnh về Bắc chia cho con trưởng là vua Nghi làm vua phương Bắc, từ Ngũ-lĩnh về Nam phong cho con thứ là Lộc-Tục, ngài thề rằng : Cương thổ hai con đã phân, đời đời phải thương yêu nhau. Nam chẳng xâm Bắc. Bắc chẳng xâm Nam. Kẻ nào vi phạm lời này, sẽ tuyệt tử tuyệt tôn. Sau Bắc thành Trung-nguyên, Nam thành Đại-Việt. Nơi ngài lập đàn tế cáo trời đất đó, gọi là Thiên-đài. Núi Thiên-đài nằm bên bờ sông Tương, phía Nam hồ Động-đình. Bốn nghìn năm qua, Ngũ-lĩnh vẫn còn kia, Thiên-đài vẫn tồn tại với đôi câu đối :
Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc,
Lĩnh-địa niên niên dữ Việt thường.
0.

Gần đây, vào thời vua Trưng, trong trận đánh Trường-sa hồ Động-đình, Hổ-nha đại tướng quân Đào Hiển-Hiệu được lệnh trấn thủ tại Thiên-đài chặn quân Hán, để cho đại quân Việt rút về Nam. Nhưng khi ngài cùng chư quân thấy Thiên-đài là đất linh của Đại-Việt, đã cùng chư quân tử chiến, chống Lưu Long, khiến vua Quang-Vũ phải thân xuống đốc chiến. Nay tại Thiên-đài vẫn còn đôi câu đối :
Nhất kiếm Nam hồ kinh Vũ Đế,
Thiên-đao Bắc lĩnh trấn Lưu Long.
0.

Trải bốn nghìn năm, Đại-Việt ở phương Nam, Trung-nguyên ở phương Bắc, lãnh thổ đã phân, tiếng nói có khác, phong tục bất đồng, mà luật pháp, điển chương càng không giống nhau. Kìa, Hán cai trị Đại-Việt, vua Trưng cùng 162 anh hùng khởi binh, dựng lại chính thống. Rồi Triệu Trinh-Nương, Tiền Lý Nam đế, Bố Cái đại vương. Kể từ Ngô vương lập ra triều đình, chính thống sáng rực, rồi Đinh triều, Lê triều. Gần đây, đức Thái-tổ nhà ta ứng lòng người, thuận mệnh trời lập nghiệp rồng. Vì dân ta thưa, đất ta hẹp, ta phải tiến cống, để được yên dân. Chứ ta đâu có hèn, nước ta đâu thiếu anh hùng ? Thời đức Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông đã nói lên rằng : Nếu như Tống để ta yên, thì họ sẽ có một Nam biên yên ổn. Còn như họ cứ cho mình là thiên-tử, dùng sức mạnh áp chế ta, thì họ sẽ có một kẻ thù ghê gớm, mà cái gương Bắc phạt đánh Ung, Khâm, Liêm, Dung, Nghi, Bạch thời Anh-vũ chiêu thắng âm vang chưa hết. Sau trận này, ta tu cống đầy đủ. Nhưng ta vẫn là ta, vẫn là Đại-Việt. Mấy năm trước, Tống dùng mưu sâu lập triều đình gà mái gáy, nhưng nhờ các đại thần, nhờ anh hùng võ lâm, nên dẹp yên được. Sau đó ta chỉnh bị binh mã định hỏi tội Tống. Tống phải nhượng bộ bằng việc công nhận quốc danh An-Nam, khi phong phải phong ngay là An-Nam quốc vương, chứ không còn cái nhục phong là Giao-chỉ quận vương nữa.
Hơn ai hết, Kiến-Ninh vương Long-Minh cực thông minh. Tuy tuổi mới mười tám, nhưng được Long-Xưởng uốn nắn, nên kiến thức rất rộng. Long-Minh biết rằng dùng kinh điển để lý luận với một lão thần cả đời nhai văn, nhấm chữ này thì vạn vạn lần vương không thắng nổi, nên vương đã dùng lịch sử, dùng chủ đạo tộc Việt, bẻ gãy lý luận của ông ta.
Kiến-An vương Long-Đức tiếp lời anh :
- Chúng ta học nho, nhưng không phải học nho, rồi cái gì nho nói cũng phải. Nho vốn phát xuất từ Trung-nguyên, nhưng không phải học nho rồi phải cúi đầu trước người Trung-nguyên. Cứ như lý của Thái-phó thì Thái-phó muốn ta phải nhận cái gọi là Nam-man của Tống hay sao ? Ta nhục nhã đến độ hạ mình là sâu bọ, là chó mèo ư ? Thái phó muốn làm sâu, làm bọ, làm chó, làm mèo thì là quyền thái phó. Thái phó không thể bắt cả tộc Việt chịu nhục như vậy.
Kiến-Tĩnh vương Long-Hòa tiếp lời anh :
- Cô gia lấy làm kinh ngạc, kinh ngạc đến kinh hoàng, khi Thái-tử thái phó Lý Kính-Tu cho rằng mình kết thân với Kim là đi theo rợ Nữ-chân. Phò mã Thủ-Huy với công chúa Đoan-Nghi mới đi sứ để kết thân với Kim, trong thế liên hợp, hai nước ngang vai với nhau, chứ đâu có cúi đầu làm tôi Kim ? Chính cái ông vua Tống, với bọn nho thần Tống mới phải cúi đầu đem vàng, lụa, gái đẹp dâng cho Kim để được yên. Thế mà Lý thượng thư lại tôn cái gã vua Tống là đấng quân phụ, là thánh thiên tử thì còn trời đất nào nữa ? Hỡi ơi ! Khí phách anh hùng của người Việt trong tâm thượng thư bị rơi mất ở chỗ nào rồi ?
Tăng Khoa, vốn ngang tuổi với Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa, nên hầu hiểu rõ cái hài hước trong câu nói của ba hoàng tử. Hầu hỏi Ngô Lý-Tín một câu đứng đắn :
- Thưa Thái-phó, trở lại vấn đề Ngũ-phục, cứ theo kinh Thư thì vùng cách xa kinh đô 2500 dặm là cõi của rợ. Bấy giờ kinh đô của vua Hoàng-Đế cho tới triều Chu, Tần đều ở vùng Lạc-dương. Mà từ Lạc-dương đến Khúc-phụ là quê hương của Khổng-tử xa đến hơn 3000 nghìn dặm. Như vậy Khổng-tử cũng là rợ sao ? Hỡi ơi ! Thánh nhân của nho gia mà là rợ ư ?
Câu hỏi của Tăng Khoa làm cho Ngô Lý-Tín luống cuống không trả lời được đã đành, mà đến các nho thần chủ hòa cũng im.
Long-Xưởng kết luận :
- Cuộc triều nghị về việc kết thân với Kim đã xong. Nếu chư vị không có ý kiến gì, thì xin phò mã, công chúa tâu tiếp về việc sứ đoàn đã làm ở Kim.
Công chúa Đoan-Nghi nhìn Tô Hiến-Thành, Lý Kính-Tu mỉm cười :
- Tô Thái-úy, Lý Thái-phó, Ngô thượng thư ơi ! Vả tôi với phò mã chỉ ước hẹn sơ với Kim như vậy thôi, chứ đâu có bắt buộc phải thi hành ? Chúng tôi cũng không hề tâu xin phụ hoàng xuất binh đánh Tống mà ? Trong khi đi sứ, tôi thấy Kim không mấy thực tâm, họ cũng sắp mất nước đến nơi rồi, họ lo giữ thân chưa xong, thì hy vọng gì họ liên kết với ta ?
Triều đình kinh ngạc, họ đều chờ đợi Thủ-Huy, Đoan-Nghi nói rõ về tình hình Kim... Long-Xưởng mỉm cười đưa mắt nhìn Thủ-Huy :
- Phò mã tâu lên phụ hoàng chi tiết tình hình Kim, để chúng ta còn định quốc kế.
Thủ-Huy tiếp lời Đoan-Nghi :
- Trong thời gian lưu trú ở Yên-kinh, thần nhi được biết, đối với Tống thì Kim mạnh. Nhưng ở phía Bắc của Kim còn rất nhiều nước, dân chúng vũ dũng kinh nhân, binh lực hùng mạnh vô cùng. Các nước đó là Khắc-liệt, Nãi-man, Mông-cổ , Thát-đát, Tây-liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn. Chưa biết lúc nào các nước này sẽ tràn vào chiếm Kim. Vì vậy việc liên kết với Kim chưa chắc đã thực hiện được.
Cả triều đình đều im lặng, lắng tai nghe.
- Trong các nước này, thì Tây-liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn có tổ chức triều đình giống như Tống, Kim, Đại-Việt. Còn các nước Khắc-liệt, Nãi-man, Mông-cổ thì phân nửa dân chúng sống theo chế độ định cư như chúng ta, phân nửa sống theo chế đệ lều trại, du mục. Còn Thát-đát cùng hơn hai trăm bộ tộc khác sống lẻ tẻ. Khắc-liệt, Mông-cổ đã chinh phục được nhiều nước nhỏ, mà trở thành đế quốc hùng mạnh. Vua nước Khắc-liệt là Thoát-Lý. Khắc-liệt gồm hơn năm mươi chư hầu. Tuy vậy các nước ấy khó có thể hùng manh thêm. Duy Mông-cổ, chúa là Thiết Mộc Chân, thì có hùng tài, đại lược, tương lai có thể thôn tính các nước kia. Thiết Mộc Chân là con nuôi Thoát-Lý. Trước đây Kim đã sai sứ sang phong cho vua nước Khắc-liệt làm Bắc-cương vương hãn, và con nuôi của ông ta là Thiết Mộc Chân làm Đại-Kim quốc Bắc-cường chiêu thảo sứ. Từ đấy Khắc-liệt , Mông-cổ chinh phục hết các tiểu quốc, mà trở thành hai trong bốn quốc gia hùng mạnh hơn Kim đó là Khắêc-liệt, Thát-đát, Nãi-man, Mông-cổ. Kim lấy làm lo lắng nhất là Khắc-liệt, có ý tìm cách làm cho Khắc-liệt yếu đi. Những năm gần đây, Mông-cổ ngày càng trở thành hùng mạnh, giầu có, hơn hẳn Khắc-liệt. Kim biết việc đó, ngầm sai sứ sang xúi Thiết Mộc Chân thôn tính Khắc-liệt. Như vậy chiến tranh giữa Mông-cổ với Khắc-liệt sẽ bùng nổ. Kim khoanh tay làm ngư ông hưởng lợi. Khi Kim sai sứ sang phong cho Thiết Mộc Chân làm Mông-cổ quận vương thì Thiết Mộc Chân không những không tiếp sứ, mà còn tỏ vẻ khinh rẻ, đuổi sứ về. Kim đế giận lắm truyền đem quân tiến đánh. Các đại thần hết sức can gián, vì nếu đánh Mông-cổ chưa chắc đã thắng, ấy là không kể việc Khắc-liệt sẽ ra binh cứu chư hầu, Thát-đát đánh sau lưng. Nhà vua mới bỏ qua. Đệ lục vương tử Vĩnh-Tế là người túc trí, đa mưu, mới hiến kế rằng : Mông-cổ là nước nhỏ hơn Khắc-liệt, hiện thống lĩnh 72 bộ tộc. Lãnh thổ Mộng-cổ tuy nhỏ hơn, dân chúng ít hơn Khắc-liệt, nhưng binh lực mạnh hơn. Thoát-Lý vẫn lo ngại khi mình qua đời rồi, thì Thiết Mộc Chân sẽ chiếm ngôi vua của con. Con của Thoát-Lý là Tang-Côn vốn nóng nảy, lại thiển cận, vẫn có ý ganh tỵ với Thiết Mộc Chân, y chiêu dụ kẻ thù của Mộc Chân là Trác Mộc Hợp làm vây cánh. Nếu như ta ban chỉ cách chức Thiết Mộc Chân, phong Tang-Côn làm Mông-cổ vương, ắt Tang-Côn đem quân đánh Thiết Mộc Chân. Ta đứng ngoài nhìn hai hổ cắn nhau. Khi một hổ bị chết, thì hổ còn lại tất bị thương nặng. Bấy giờ ta chỉ cử tay một cái là lấy được cả Khắc-liệt lẫn Mông-cổ. Nhà vua nghe theo kế này.
Ghi chú của thuật giả:
Vua nước Khắc-liệt ( Karakhayit ), Nguyên-sử chép tên ông ta là Thoát-Lý, được Kim phong tước vương. Các sử gia Tây-phương không biết đến cái tên Thoát-Lý này, họ phiên âm theo tiếng địa phương là Tô Ha Rin. Mông-cổ sử chép là Vương-Hãn bởi ông đươc Kim phong tước vương, còn là tiếng Mông-cổ, Hãn có nghĩa là lãnh chúa, hay vương hay vua. Người Khắc-liệt ghép tước vương của Kim, với danh xưng hãn của ôngï, gọi ông là Vương-Hãn. Rồi các sử gia Tây-phương phiên âm thành Ong-khan.
Thiết Mộc Chân (Tamujin, Témujin).
Tang Côn (Sănggum).
Trác Mộc Hợp (Jamuca).
Mông-cổ (Mongol).
Kim (Or).
Thoát-Lý (Toharin), hay Vương Hãn 0

Thủ-Huy ngừng lại một lát cho mọi người theo kịp những biến cố, rồi tiếp :
- Thế nhưng khi mật sứ Kim gặp Tang-Côn, Trác-Mộc-Hợp, thì hai người này không dám khởi binh, vì e ngại võ công, tiễn thủ của bốn đại tướng Mông-cổ. Họ xin Kim ba điều. Một là Kim phải ra binh cùng một lúc với họ, để chia lực lượng Mông-cổ. Hai là sau khi diệt Thiết Mộc Chân rồi, thì Kim phải rút quân về, tất cả lãnh thổ cũng các bộ tộc thuộc Mông-cổ sẽ do Khắc-liệt cai trị. Ba là Kim phải tăng viện cho Khắc-liệt mấy cao thủ có thể thắng các tướng của Thiết Mộc Chân... Ngược lại Khắc-liệt luôn thần phục, tiến cống Kim, khi Kim cần thì có thể điều động quân Khắc-liệt đánh Tống, Tây-hạ, Tây-liêu. Kim triều nghị sự, rồi thỏa thuận tất cả các điều Tang-Côn đưa ra.
Ghi chú của thuật giả:
Khi mới khởi nghiệp, Thành Cát Tư Hãn được dân sa mạc tôn là Thần-điêu, rồi Hỏa-điêu, Thiên-điêu. Danh hiệu cuối cùng mà ông nhận là Thiên-hỏa điêu đế. Trên kỳ hiệu của Mông-cổ, ông cho vẽ hình con chim ưng, tượng trưng cho ông. Khi ông xưng đế, thì Mông-cổ có chín đại tướng lừng danh, đương thời được tôn mỹ hiệu Cửu đại sơn điêu (Chín con điêu của núi lớn). Dưới cờ, ông viền chín cái răng, mỗi cái treo một đuôi sơn ngưu, biểu tượng của chín đại tướng. Đó là kỳ hiệu tại bản doanh. Nhưng kỳ hiệu ở những thành nhỏ, đạo quân nhỏ, không có đuôi sơn ngưu, người ta làm cái đuôi giả bằng tơ thay thế. Vào thời gian Thủ-Huy đi sứ Kim, trong chín đại tướng Mông-cổ, mới có bốn người nổi danh, đươc tôn mỹ hiệu Tứ liệp lang vương (bốn lãnh chúa sói săn). Đó là :
Tốc Bất Đài (Sobodai) hiệu là Hỏa-liệp đại lang vương.
Gia Luật Mễ (Jalma) hiệu là Thiết-liệp nhị langvương.
Triết Biệt (Jaba) hiệu là Thần-tiễn tam lang vương.
Bác Nhĩ Truật (Bogurci) hiệu là Kim-cương tứ lang vương.
Độc giả trẻ phải cẩn thận, Tây-phương viết về Mông-cổ, nhân họ không biết dịch chữ sơn ngưu, một loại trâu hoang ở Mông-cổ thế nào cho phải. Họ dịch đại là Cửu bạch mã vĩ, tức chín đuôi ngựa trắng 0. Người Trung-hoa thù hận Mông-cổ, họ gọi là Cửu-mao đại đạo có nghĩa là cờ có chín cái lông của bọn trộm cướp.

Tuyên-phi Từ Thụy-Hương hỏi :
- Chắc khi Kim cử phái đoàn cao thủ viện trợ cho Khắc-liệt, họ xin sứ đoàn Đại-Việt theo. Trường hợp này phò mã, cũng như công chúa không thể từ chối ! Có đúng thế không ?
Từ ngày cưới vợ, Thủ-Huy chưa từng được nghe tiếng nói của Thụy-Hương. Rồi sau khi Thụy-Hương trở thành Tuyên-phi, giữa hai người gần như cạn giòng lá thắm, tuyệt đường chim xanh ; cho đến nay, trải mấy năm chưa gặp lại nàng. Bây giờ thình lình nghe tiếng nàng nói với mình, trong tâm công rúng động.
- Tâu...Tâu... phi...phi... quả...quả như vậy.
Gì mà Thụy-Hương không hiểu tâm trạng Thủ-Huy. Nàng nghĩ thầm :
- Thì ra nhị ca cũng không đến nỗi tệ cho lắm. Nghe ta hỏi, mà luống cuống như vậy, thì hẳn vẫn còn yêu thương ta.
- Phò mã hãy tâu chi tiết về việc này.
- Tuân chỉ Tuyên-phi... Kim triều cử Vũ-kị thượng tướng quân A-lỗ Cốt-đả cầm đầu đoàn cao thủ gồm Ký-Bắc tam hổ, Cao-ly song ngưu và sứ đoàn Đại-Việt âm thầm lên đường sang Khắc-liệt.
Tuy ngồi ngang với Đoan-Nghi, nhưng Thụy-Hương cũng nhìn rõ gương mặt Đoan-Nghi cau lại, khi nghe nàng đối đáp với Thủ-Huy. Nàng nghĩ thầm :
- Dù ta là em sữa của người, là bầy tôi của người, từng chịu ơn người. Nhưng nay ta là mẹ trẻ của người, ta ngồi ngang với mẹ người rồi. Thủ-Huy là của ta. Giữa ta với chàng, tình nghĩa mặn mà, sâu như biển, rộng như trời đất. Người không thể, không có quyền ghen với ta. Thế mà người khó chịu ư ? Được, ta sẽ trêu cho người tức đến điên lên cho bõ ghét.
Nghĩ vậy, nàng lại lên tiếng :
- Này phò mã ! Lý lịch các cao thủ Kim ra sao ? Võ công của họ so với phò mã thế nào ?
Thủ-Huy không hiểu những uẩn khúc trong lòng Thụy-Hương, công tâu tiếp :
- A-lỗ Cốt-đả là một đại cao thủ của phái Liêu-Đông, Trung-quốc. Liêu-Đông tán cốt loạn huyết chưởng của y thực khủng khiếp. Trong những trận đánh với Tống, các tướng Tống nghe danh y đều táng đởm kinh hồn. Trước đây, chỉ có Ngô Giới, Ngô Lân, Hàn Thế-Trung, Lưu Kỳ là đấu ngang tay với y mà thôi. Năm nay y khoảng 40 tuổi.
Nghe đến võ công Liêu-Đông, trên gương mặt triều đình Đại-Việt đều hiện ra nét kinh hãi. Bởi vào thời vua Nhân-tông -1, ba đại cao thủ của phái Liêu-Đông là Liêu-Đông tam ma theo Quách Quỳ sang đánh Đại-Viêt. Trong trận Kháo-túc, anh hùng tài trí, võ công cao cường như : Trung-thành vương Lý Hoằng-Chân với vương phi là Nguyễn thị Trinh-Dung, Tín-nghĩa vương Lý Chiêu-Văn với vương phi là Lê Ngọc-Nam; cùng các danh tướng như Định-viễn đại tướng quân Ngô Ức, với phu nhân là Quách Phương-Dược, Vân-ma thượng tướng quân Trần Ninh với phu nhân là Trần Ngọc-Hương... đều bỏ mạng vì Liêu-Đông chưởng. Sau chính Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai phải ra tay mới bắt giết được Tam-ma.
Thủ-Huy tiếp !
- Còn Ký-Bắc tam hổ là ba đại cao thủ Thiếu-lâm, có tên là Trương Đạo-Hoàng, Hàn Đạo-Thanh, Tô Đạo-Huyền. Ba người nguyên là tăng phạm giới bị đuổi ra khỏi môn phái. Quá uất hận, họ đóng cửa năm năm nghiên cứu, rồi sáng chế ra ba pho võ công Hoàng-hổ loạn huyết chưởng, Bạch-hổ tán cốt chỉ, Hắc-hổ đoạt mệnh đao. Sau đó họ tái xuất giang hồ, tìm lên chùa Thiếu-lâm giết chết Thủ-tọa La-Hán đường, Đạt-ma đường.Từ đấy tên của họ vang khắp thiên hạ. Ba người qua lại giang hồ, gây ra gần trăm án mạng, khiến võ lâm nổi sóng. Họ đã hạ sát trước sau gần trăm đệ tử của các phái Thiếu-lâm, Côn-luân, Hoa-sơn. Các vụ án này gây trấn động võ lâm Trung-nguyên. Các cao thủ võ lâm hội nhau tìm ba người để tru diệt. Ba người trốn lên Yên-kinh dự tuyển võ. Cả ba đều được trao cho chức đô thống, mỗi người chỉ huy một đội thị vệ Kim.
Thủ-Huy định tâu tiếp thì Thụy-Hương lại chêm vào :
- Chính sách dùng người của Kim như vậy, hèn gì đang từ một bộ lạc thiểu số, họ nổi lên diệt Liêu rồi tràn xuống đánh Trung-nguyên. Cứ như việc Ký-Bắc tam hổ thì rõ : Họ dùng người cùng đường để đánh Trung-nguyên. Sau này khi Tam-hổ cầm quân đánh Tống, chúng sẽ vận dụng hết khả năng để trả thù, để trút cái uất hận bị săn đuổi. Có lẽ Đại-Việt ta phải học lấy chính sách này, tận dụng những người bị Tống, bị Chiêm săn đuổi cùng đường.
Thụy-Hương hỏi :
- Còn Cao-ly song ngưu ? Họ là người Cao-ly chăng ?
- Tâu họ mang mỹ hiệu như vậy , chứ họ không phải là người Cao-ly. Họ là người Tống. Song ngưu là anh em sinh đôi, giống nhau như hai giọt nước. Anh tên Du Bất-Huynh, em tên Du Vô-Đệ. Họ là người thuộc phái Không-động Trung-quốc. Khi Triệu Cấu chạy xuống Nam lập ra nhà Nam Tống, hô hào trung hưng. Anh em họ Du suất lĩnh gia thuộc, bán hết điền sản ứng nghĩa mộ binh. Trong dịp Trường-giang ngũ hùng đại hội võ lâm ở hồ Động-đình, anh em họ kéo binh về theo Nhạc Phi. Tống triều phong cho Du Bất-Huynh làm Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Vô-Đệ làm Hữu-thiên ngưu vệ thượng tướng quân. Hai người đem quân đi tiên phong, đánh Kim, lập không biết bao nhiêu công lao. Võ lâm gọi họ là Du thị song anh. Lúc Tống Cao-tông nghị hòa với Kim, là lúc anh em họ Du đang tiến quân vào Chu-tiên trấn. Dù nhà vua sai tể tướng Tần Cối, phát kim bài ban lệnh cho Nhạc Phi bãi binh. Nhưng Du thị song anh vẫn tiến quân. Cho đến khi kim bài thứ mười ba ban ra, thì là lúc anh em họ Du tiến tới ngoại ô Biện-kinh. Họ đành ngừng tiến quân. Quá phẫn uất, họ kéo bản bộ binh mã vào rừng ẩn thân kháng Kim. Cao-tông sai người về quê họ, quật mồ mả tổ tiên họ lên, trộn với phân. Nghe tin này, anh em họ Du cùng bộ hạ âm thầm về Biện-kinh, quật lăng mộ bẩy vua nhà Tống, rồi bỏ vào cối dã nhỏ thành bột. Giữa lúc này Kim sai sứ chiêu dụ. Hai người kéo đệ tử hàng Kim. Kim phong cho anh em Du thị nguyên chức của Tống. Còn tước thì từ tước nam thăng lên ba bậc, là tước hầu. Hai người cải tên Vô-Huynh thành Vô-Triệu, Bất-Đệ thành Bất-Triệu, để tỏ lòng căm hờn họ Triệu (Họ của các vua Tống).
Thụy-Hương ngắt lời Thủ-Huy :
- Còn sứ đoàn Đại-Việt, những ai theo đoàn cao thủ Kim đi giúp Khắc-liệt ?
- Tâu, ngoài thần với công chúa, còn có y sư Phạm Tử-Tuệ, thần tiễn Trần Tử-Giác với Vỵ-xuyên ngũ tiên. Đoàn cao thủ âm thầm lên đường, dẫn theo hơn trăm võ sĩ thuộc đoàn đệ tử của Cao-ly song ngưu. Phải mất mười lăm ngày, phái đoàn mới tới nước Khắc-liệt. Vua Khắc-liệt là Vương-Hãn với thái tử Tang-Côn và các hãn thuộc bộ tộc khác mừng lắm.
Đỗ An-Di kinh ngạc :
- Tôi nghe Kim là giống người phản phúc, xảo trá vô cùng. Thế mà sao họ lại quá ngây thơ với Khắc-liệt như vậy
- Họ đâu có ngây thơ ?
Thủ-Huy trả lời : Kim triều nghị rằng lực lượng Mông-cổ, Khắc-liệt ngang nhau, chỉ cần hai bên đánh nhau một trận, một bên bị diệt, thì một bên cũng mất hết tinh lực. Kim chỉ dơ tay ra là diệt cái bên thắng. Vì vậy Kim mới đoàn cao thủ sang giúp Khắc-liệt, rồi kéo quân lên Vạn-lý trường thành, hẹn Khắc-liệt ngày khởi binh đánh úp Mông-cổ. Khi Khắc-liệt kéo binh gần tới lãnh địa Mông-cổ, thì đoàn cao thủ âm thầm báo kế hoạch cho Thiết Mộc Chân. Được tin này, Thiết Mộc Chân đề phòng, hoặc phục kích sẵn chờ đợi Khắc-liệt. Trận chiến sẽ thảm khốc vô cùng. Dĩ nhiên Mông-cổ sẽ bại. Đợi trận chiến chấm dứt, thì Kim xua quân ào ạt tấn công Khắc-liệt, thế là sa mạc được bình định. Kim sẽ đóng quân ở Khắc-liệt, Mông-cổ, rồi tìm kẻ bất tài đặt lên làm vua cả hai nước.
Binh-bộ thượng thư Phí Công-Tín hỏi :
- Phò-mã có tìm hiểu võ công của Kim, với Mông-cổ không ? Võ công của họ so với võ công Trung-quốc có giống nhau không ?
- Kim vốn là một bộ tộc Bắc-cương của Trung-quốc. Võ công của họ là võ công Trung-quốc. Các võ tướng của họ đa số xuất thân từ các đại môn phái Trung-quốc như Liêu-Đông, Trường-bạch, Thiếu-lâm, Hoa-sơn, Côn-luân, Không-động và các bang hội như Hoàng-Đế, Đường-lang, Động-đình. Nếu Tống triều tuyển võ, ứng sinh phải thuộc danh môn, chính phái, thì Kim triều tuyển võ tướng lấy võ công cao làm căn bản, không cần biết họ thuộc hắc đạo, hay bạch đạo. Khi ứng tuyển, nhà vua ban chỉ ân xá cho tất cả tội phạm đang lẩn trốn, truyền mở cửa nhà tù, cho phép tù nhân, dù phạm bất cứ tội gì, nếu trúng tuyển cũng được bổ nhiệm. Vì vậy võ lâm Trung-nguyên phạm tội đều kéo về Yên-kinh theo Kim. Hóa cho nên Kim thu hút hầu hết các cao thủ Trung-quốc. Còn Mông-cổ thì họ cũng không có một hệ thống võ học riêng, họ học của các tôn sư Tây-hạ, Tây-liêu, Trung-quốc, Thổ-phồn, Tây-vực, Kim, rồi thu thái lấy những tinh hoa. Thành ra khi đấu với họ khó biết trước mà ứng phó.
Thụy-Hương tuyên chỉ :
- Được rồi, xin phò mã thuật tiếp vụ đoàn cao thủ Kim sang trợ giúp Khắc-liệt ra sao ?
- Khi A-lỗ Cốt-Đả bàn kế với Tang Côn đánh úp Mông-cổ, thì Vương Hãn không cho. Vương lý luận : Trong suốt bao năm qua, Thiết Mộc Chân luôn giữ đúng bổn phận của một phiên thần, của một người con hiếu thảo. Bất cứ cuộc chinh phạt nào của Vương Hãn, Thiết Mộc Chân cũng đem bản bộ quân mã đi tiên phong. Khi Vương Hãn bị người em ruột phản bội, chiếm mất ngôi vua, phải lưu vong, Thiết Mộc Chân giúp ông đánh đuổi bọn phản tặc, tái lập vương triều. Nay Vương không thể tàn nhẫn như vậy.
Lý Kính Tu khen :
- Kể ra Vương Hãn cũng có đạo nghĩa, xứng đáng làm chúa vùng sa mạc đấy chứ ? Nhưng liệu Tang Côn, Trác Mộc Hợp có chịu yên phận hay không ?
- Quả đúng như thượng thư luận. Trác Mộc Hợp nghị rằng : Hiện binh lực Mông-cổ tuy không đông bằng Khắc-liệt, nhưng binh tướng cực hùng mạnh. Bây giờ thì không sao. Nhưng một mai Vương Hãn băng rồi, thì Thiết Mộc Chân sẽ diệt Tang Côn, lên làm vua Khắc Liệt. Vương Hãn vẫn không đổi ý. Cuối cùng vương đồng ý làm cách nào diệt được bốn đại tướng lừng danh sa mạc của Thiết Mộc Chân. Như vậy, Mông-cổ sẽ yếu đi, Khắc-liệt sẽ mạnh lên, cho dù Thiết Mộc Chân có nổi lòng hươu dạ vượn, cũng không dám.
Đỗ An-Di bật cười :
- Mục đích của Kim là làm cho Khắc-liệt có nội chiến để không còn là mối lo cho Kim, nên mới gửi đoàn cao thủ sang. Thế mà nay Vương Hãn không chịu ra binh, thì cái đoàn võ sĩ của A-lỗ Cốt-đả hóa ra đi không lại về không sao ?
- Quả như Tể tướng nghị.
Thủ-Huy tiếp :
- A-lỗ Cốt-đả bàn kế riêng với Tang Côn, Trác Mộc Hợp rằng ý Vương Hãn như vậy, nhưng ta nhân đó làm trái đi, khiến cho Thiết Mộc Chân không kiềm chế được, mà phải đem quân đánh Khắc-liệt. Bấy giờ dù Vương Hãn không muốn gây chiến, cũng không tránh nổi. Kế hoạch họ dự trù như sau. Đầu tiên, Vương Hãn ban chỉ cho tất cả các chư hầu trong nước Khắc-liệt, mỗi chư hầu sẽ tổ chức tuyển lấy bốn tướng có võ công cao nhất, xếp theo thứ tự từ một tới bốn. Sau đó gửi bốn tướng ấy về kinh đô vào đình thí. Các võ tướng theo thứ bậc đấu với nhau, để vào chung kết. Vương Hãn sẽ tuyển lấy bốn tướng có võ công cao nhất. Sau khi trúng tuyển, thì đệ nhất dũng sĩ sẽ được cử làm tướng tổng tư lệnh lực lượng Thiết-kỵ toàn cõi Khắc-liệt. Đệ nhị, đệ tam, tứ dũng sĩ sẽ được cử làm tướng chỉ huy ba binh đoàn Thiết-kỵ của Vương-Hãn. Như vậy, bốn đại tướng của Thiết Mộc Chân đương nhiên phải tham dự cuộc tuyển lựa này. Các cao thủ Kim, sẽ giả làm tướng của Trác Mộc Hợp, của Tang Côn, đánh bại bốn đại tướng Mông-cổ, thế là danh tiếng của Tứ liệp lang vương Mông-cổ không còn nữa. Đó là bề ngoài, để che mắt Vương Hãn. Nhưng thực sự ra, thì khi đấu võ, các cao thủ Kim sẽ thẳng tay giết bốn đại tướng của Thiết Mộc Chân ; mà Mông-cổ không thể phản đối được. Quả nhiên, khi Vương Hãn ban chỉ ra, thì các tiểu quốc thuộc Khắc-liệt hồ hởi cho tuyển dũng sĩ, rồi gửi về tham dự. Mông-cổ trúng kế. Họ gửi bốn đại tướng về tranh tài, đó là Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật, Triết Biệt, Gia Luật Mễ.
- Thiết Mộc Chân là người tay trắng làm lên đế nghiệp, thì trí dũng phải có thừa, thế mà sao y cũng mắc mưu này ?
Tô Hiến-Thành hỏi : Dù Thiết Mộc Chân có u mê, thì những người xung quanh ông ta cũng phải nhìn ra chứ .
Thủ-Huy cười :
- Thiết Mộc Chân cũng không vừa, Trác Mộc Hợp tố cáo ông ta chờ Vương Hãn băng hà rồi chiếm ngôi, quả không oan. Khi chỉ dụ tuyển võ sĩ vừa ban ra, lập tức ông ta cử bốn đại tướng quân tham dự võ đài. Oâng ta nghĩ rằng, nếu như bốn đại tướng quân của ông trúng tuyển, nắm quyền chỉ huy các đạo Thiết-kỵ của Khắc-liệt, thì khi Vương Hãn băng, ông ta chỉ trở tay một cái là lên ngôi vua, đẩy Tang Côn ra ngoài.
Tuyên-phi Thụy-Hương thấy Đoan-Nghi say xưa nghe Thủ-Huy thuật chuyện, ánh mắt nàng sáng ngời, tràn đầy hạnh phúc, thì trong lòng nảy ra mối ghen tức. « Đáng lẽ người hạnh phúc bên chàng là ta, chứ đâu phải Đoan-Nghi ? Tiếc thay, vàng đã vào tay, mà ta để vuột mất. Đã vậy ta trêu cho Đoan-Nghi ghen lồng, ghen lộn lên cho hả giận. ». Nghĩ vậy, nàng rót chung trà truyền cung nga bưng đến trước mặt Thủ-Huy :
- Phò mã uống chung trà cho tốt giọng.
Khi nói câu này, nàng liếc mắt đưa tình, miệng mỉm cười. Quả nhiên Thủ-Huy không nhìn ra cái lắt léo của Thụy-Hương. Công bưng chung trà :
- Đa tạ Tuyên-phi ban thưởng.
Rồi uống một hơi hết sạch. Trong khi đó Đoan-Nghi nhìn Thụy-Hương bằng đôi mắt tóe lửa.
Thụy-Hương nhìn Đoan-Nghi, mỉm cười :
- Xin phò mã cho biết, A-lỗ Cốt-đả bầy kế giết bốn tướng Mông-cổ ra sao ? Có thành công không ?
- Người bầy mưu giết bốn tướng là Trác Mộc Hợp với A-lỗ Cốt-đả. Đến ngày tỷ thí, thì chỉ có bốn tiểu vương gửi người tới tranh tài là An Tăng, Cút Sa, Da Di Đài, Thiết Mộc Chân. Trác Mộc Hợp cho biết, trong bốn tướng của Mông-cổ thì Bác Nhĩ Truật sở trường về độc chưởng được cử tranh chức đệ nhất, Tốc Bất Đài thì công lực cực cao thâm được cử tranh chức đệ nhị, Gia Luật Mễ thì kiếm thuật thần thông được cử tranh chức đệ tam, Triết Biệt thì tiễn thủ vô địch được cử tranh chức đệ tứ . Y đề nghị các cao thủ Kim cũng chia làm hai nhóm. Một nhóm đại diện cho Trác Mộc Hợp, một nhóm đại diện cho Khắc-liệt. Mỗi nhóm phải gồm những cao thủ có khả năng giết được bốn tướng Mông-cổ. Sau khi luận bàn, thì hai cao thủ có khả năng trị độc chưởng của Bác Nhĩ Truật là A-lỗ Cốt-đả, Trần Thủ-Huy. Hai cao thủ có công lực cao, khả dĩ trị được Tốc Bất Đài là Trương Đạo-Hoàng, Trần Tử-Tuệ. Hai cao thủ có khả năng trị được kiếm thuật của Gia Luật Mễ là Tô Đạo-Huyền, Đoan-Nghi. Hai cao thủ có thể thắng tiễn thủ của Triết Biệt là Hàn Đao-Thanh, Trần Tử-Giác. Thế là các cao thủ Đại-Việt giả làm người của Khắc-liệt, còn các cao thủ Kim giả làm người của Trác Mộc Hợp. Như vậy có tất cả sáu nhóm. Thể lệ rất giản dị, nếu cặp nào trong một trăm hiệp, mà không kẻ thắng, người thua, thì coi như hòa.
Thủ-Huy ngừng lại cho triều đình theo dõi kịp, rồi tiếp :
- Sau khi các nhóm tề tựu thì chia làm ba cặp giao đấu. Trận đầu, nhóm của Mông-cổ đấu với nhóm của An Tăng. Nhóm của Mông-cổ thắng thế dễ dàng. Bên thắng, bên bại, không ai bị thương hoặc chết cả. Trận thứ nhì nhóm cao thủ Kim của Trác Mộc Hợp đấu với nhóm của Cút Sa, dĩ nhiên các võ tướng của Cút Sa địch sao lại các cao thủ Kim ? Nhóm cao thủ Kim chỉ cần xuất ba bốn chiêu, đã thắng đối thủ dễ dàng. Đến trận thứ ba, các cao thủ Việt đấu với nhóm của Da Di Đài thì bị bất ngờ.
Triều đình đều kinh ngạc. Hiện diện có tới trên trăm người, mà không một tiếng động. Thụy-Hương hỏi :
- Cái gì đã xẩy ra ?
- Tâu, bốn cao thủ của Đa Di Đài là người của phái Hoa-sơn. Họ gồm hai nam trong Hoa-nhạc tam phong tên Liên-Hoa, Tiên-Nhân và một nữ là đệ nhị nhân trong Hoa-nhạc tam nương tên Công-Chúa. Dù cách xa đã gần mười năm, dù họ đã hóa trang rất khéo, nhưng sư thúc Phạm Tử-Tuệ cũng nhận ra kịp thời.
Thái-phó Ngô Lý-Tín lĩnh Lễ bộ thượng thư nghe thuật đến đây thì tâu :
- Hồi bọn Hoa-sơn bị giam ở bến Ngọc-thụy, thì Lạc-Nhạn với Vân-Đài trốn đi. Khu mật viện đã cho truy tầm, song không có dấu vết. Về sau, ngư nhân tìm thấy hai cái xích tay, hai cái xích chân của họ để ở bãi sông, mà không bị chặt, bị cắt, rõ ràng họ được ai đó dùng chìa khóa mở ra cho. Ai đã có chìa khóa, giúp gian nhân thoát xích chân tay ? Rồi khi sứ Tống sang lĩnh người của phái Hoa-sơn do ta trao trả, họ nhất định đòi hai người này. Thần trần thuật với họ rằng hai người này trốn đi. Nhưng sứ thần Tống đổ tội cho Đại-Việt đã giết hai người. Họ lý luận rằng : Nếu hai người trốn thoát, thì ắt họ trở về Trung-quốc rồi. Cớ sao, giờ này vẫn không thấy đâu. Cứ như phò mã tâu, thì trong đám Hoa-sơn giúp Khắc-liệt, không có Lạc-Nhạn, Vân-Đài, vậy có thể hai người này còn ở trong Đại-Việt làm tế tác. Thế mà trong mấy năm qua cứ mỗi lần sứ ta sang Tống, hoặc sứ Tống sang ta, họ vẫn nằng nặc đòi người.
Trưởng-ty Phòng-ngư Khu-mật viện là Long-nhương thượng tướng quân Lưu Khánh-Bình biết Ngô Lý-Tín công kích mình, ông nói ngang :
- Thưa Thượng-thư đây chỉ là cái cớ để Tống gây sự với ta . Khi họ muốn gây sự, thì không có cớ này, họ nặn ra cớ khác, có gì lạ đâu
Nghĩa-thành vương Lý Long-Căn là người quản Khu-mật viện thường theo dõi tình hình Tống. Vương cực kỳ sủng ái công chúa Đoan-Nghi, yêu thương Thủ-Huy. Vương hỏi bằng ngôn từ bình dân
- Cháu Thủ-Huy à ! Thế họ có nhận ra mình không ?
Thủ-Huy cảm động, công cũng trả lời bằng ngôn từ bình dân :
- Thưa chú, lúc đầu họ tưởng sứ đoàn là người Hán. Nhưng khi đấu, họ nhìn chiêu thức, nội công, thì biết mình xử dụng võ công Đại-Việt, mà tuyệt nhiên họ không nhận ra mình là ai.
- Cháu có biết vì lý do nào phái Hoa-sơn lại tham dự trận đấu này không ?
- Tống muốn cho Khắc-liệt mạnh, nên gửi cao thủ sang giúp Vương Hãn, để vương đánh vào sau lưng Kim. Nhưng Vương Hãn không ưa Tống. Vì vậy Tống phải giúp Da Di Đài, rồi xui y chiếm ngôi Vương Hãn. Chính Da Di Đài cũng đang muốn giết Tứ liệp lang vương của Mông-cổ để trừ đi cái chướng ngại về sau.
- Vậy cháu hành xử ra sao ?
- Sư thúc Phạm Tử-Tuệ bàn rằng « Mình sang Kim chỉ với mục đích kết hiếu. Không ngờ Kim muốn lợi dụng mình. Mình thắng hay bại cũng thế thôi, vì Kim cũng đang cầu kết thân với mình. Vậy mình nên ghìm sao cho hòa thì hơn ». Không ngờ phía Hoa-sơn, họ tưởng mình là chân tay của Tang Côn, họ không muốn gây hấn với cái ông thái-tử này, nên họ cũng có ý đấu cầm chừng. Vì vậy khi đấu, cháu với Đoan-Nghi dùng võ công Hoa-sơn, còn nhị vị sư thúc thì dùng võ công hỗn tạp khi thì Hoa-sơn, khi thì Đông-a, khi thì Thiếu-lâm, lại cũng có lúc dùng võ công Đại-Việt. Tất cả bốn cặp Đại-Việt với Hoa-sơn đều hòa nhau. Cả hai toán đều không muốn dự vào chung kết. Từ Vương-Hãn cho tới A-lỗ Cốt-đả, Thiết Mộc Chân tuy biết thế, nhưng họ không rõ tại sao. Cuối cùng chỉ còn toán của Kim đấu với toán của Mông-cổ. Trận đầu A-lỗ Cốt-đả đấu với Bác Nhĩ Truật. Nói ra thực xấu hổ, ở nhà cháu cứ nghĩ võ công Đại-Việt mình là vô địch. Nay đi sứ, mới biết ngoài bầu trời này còn có bầu trời khác. Kể về công lực thì A-lỗ Cốt-đả với Bác Nhĩ Truật ngang nhau. A-lỗ thì dùng độc công của phái Liêu-Đông, còn Bác Nhĩ Truật thì dùng độc công của phái Trường-bạch. Cuối cùng cả hai đều bị thương nặng. Mà ác thay, vì cả hai đều là đệ tử không chính thức của hai tà phái Liêu Đông, Trường-bạch, nên họ không có thuốc giải. Trận thứ nhì, thì Trương Đạo-Hoàng đấu với Tốc Bất Đài. Kể về công lực thì hai bên ngang nhau. Nhưng về chiêu thức thì Tốc Bất Đài học của nhiều phái khác nhau, sao có thể thắng được Hoàng-hổ loạn huyết chưởng là bộ chưởng cực tinh diệu, dùng Thiền-công của Thiếu-lâm làm căn bản, lại biến hóa theo Tiên-thiên bát quái . Kết quả, Tốc Bất Đài bị thua ở hiệp thứ 97, và bị loạn huyết, mê man. Trận thứ ba thì Tô Đạo-Huyền đấu với Gia Luật Mễ. Đạo-Huyền dùng Hắc-hổ đoạt mệnh đao, do chính y dùng biết bao nhiêu tâm huyết chế ra. Nó vừa có cái dũng mãnh, có thể so sánh với Đông-a kiếm pháp, vừa có cái biến hóa tinh diệu không thua gì Mê-linh kiếm pháp. Còn Gia Luật Mễ thì dùng một loại kiếm pháp rất lạ. Khi thì thần tốc, khi thì dũng mãnh. Đấu được gần trăm hiệp thì Gia Luật Mễ bị đánh rơi kiếm, nhưng y nhanh tay bắn rơi đao của Tô Đạo-Huyền, làm Đạo-Huyền bị thương. Kết quả Gia Luật Mễ thắng. Cuối cùng là trận đấu giữa Hàn Đạo-Thanh với Triết Biệt. Đạo-Thanh dùng Bạch-hổ tán cốt chỉ. Chỉ lực của y không dũng mãnh như Lĩnh-Nam chỉ của mình, nhưng tinh diệu hơn. Còn Triết Biệt thì chỉ giỏi tiễn thuật thôi, võ công y bình thường, y bị thua ở hiệp thứ bẩy mươi tư, nhưng y bắn Đạo-Thanh bị thương hai vết. Trận này coi như hòa. Kết quả các trận đấu, thì Kim không giết đươc một tướng nào của Mông-cổ , nhưng Bác Nhĩ Truật bị trúng độc mê man, Tốc Bất Đài, Triết Biệt bị bại. Tiếng tăm bốn đại tướng nổi tiếng vô địch sa mạc bị mất. Trên cao từ Thiết Mộc Chân cho tới các tướng Mông-cổ không còn dám kiêu căng nữa. Thiết Mộc Chân phải hạ mình nhún nhường với Tang Côn. Tang Côn là người nông nổi, y tự mãn với kết quả này. Y sai sứ sang Kim, hẹn rằng khi Kim xuất chinh đánh Tống, y sẽ gửi một binh đoàn kị mã một vạn người theo trợ chiến. Y cũng sẽ ra lệnh cho sau tiểu quốc, mỗi tiểu quốc gửi hai nghìn người đặt dưới quyền điều động của Kim. Tuy A-lỗ Cốt-đả bị trúng độc, nhưng Kim coi cuộc gửi cao thủ sang Khắc-liệt là một thành công lớn. Kim triều phong cho y tước công. Ký-Bắc tam hổ được phong tước hầu. Kim chúa ân cần khoản đãi sứ đoàn rồi nhắc nhở rằng : Xin Đại-Việt chuẩn bị sẵn, chờ khi Kim, Hạ, Đại-lý xuất quân, thì Đại-Việt cũng đem quân vượt biên đánh chiếm lại vùng đất Lưỡng Quảng, Kinh-Hồ.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 174
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com