Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma
(Đặng Dung, Thuật hoài)
Nghĩa là:
Mấy độ mài gươm dưới ánh trăng
Mười năm về trước, anh em Đào Thế Kiệt, Đào Thế Hùng cùng Đinh Đại là ba Lạc-hầu vùng Cửu-chân. Họ nổi tiếng là những người độ lượng, văn võ kiêm toàn. Hằng ngày, họ theo gương Việt-vương Câu Tiễn, cứu kẻ cùng khốn, giúp đỡ người già, trẻ côi. Dân chúng trong trang ấp của họ đều thấm ơn đức. Họ khai khẩn đất hoang, phá rừng làm rẫy, nên trang ấp của họ ngày càng rộng, dân chúng tụ về đông đảo. Trong vùng Cửu-chân có chín trang ấp đều là giòng dõi của các trung thần theo An-Dương vương chạy vào đây. Khi Vương khám phá ra vụ Mỵ châu, xấu hổ với tướng sĩ, ngài dặn họ nhất tâm phục quốc. Còn ngài thì nhảy xuống biển tự tận. Các trung thần mang binh lính còn sống sót lập trang ấp và họ thiếp lập phái Cửu-chân. Trải qua 200 năm, phái Cửu-chân trở thành một phái võ danh tiếng bậc nhất vùng Lĩnh Nam. Các đại tôn sư của môn phái đều nổi danh hào hiệp, lòng dạ luôn luôn hướng về cố quốc.
Trải qua mấy trăm năm, mới đây, Hán đế cử Thái-thú Nhâm Diên vào trấn vùng này đã làm đảo lộn hết cả. Nhâm Diên là người đã đậu Hiếu-liêm ở Trung-nguyên. Nhiều mưu trí, giỏi cai trị. Khi tới Cửu-chân, y nhận thấy đã trải gần 200 năm rồi mà con cháu các di thần Âu-lạc vẫn còn giữ nguyên tinh thần Việt, không bị ảnh hưởng của Hán chút nào. Y muốn tập trung quân tiêu diệt, nhưng không nổi. Thêm nữa, dù có phúc bẩm lên Thứ-sử để mang quân cả vùng Giao-chỉ, Nhật Nam, Hợp-phố hợp với quân Cửu-chân cũng không dễ gì diệt được chín Lạc-hầu. Mà ngay cả nếu diệt được hết chín Lạc-hầu, thì y còn gì để cai trị? Có chăng, chỉ còn là vùng đất hoang vu mà thôi. Y là người đọc sách, thâm cơ viễn lự, nên thấy chỉ có cách làm cho người Việt đồng hoá thành người Hán là tốt nhất.
Nguyên trước đây có một chỉ dụ từ đời Lã hậu cầm quyền, cấm người Trung-nguyên không được bán đồ đồng, đồ sắt, các thứ hạt giống, cũng như thú vật giống cái cho người Việt. Người Việt không được đọc chữ Hán. Người Hán không được kết hôn với người Việt. Chính những điều đó là nguyên nhân khiến người Việt bị cai trị mấy trăm năm cũng vẫn còn là người Việt. Y mật tấu về triều đình, xin huỷ bỏ những điều đó. Một mặt, y mang vàng bạc mời các nho sĩ khoa bảng không thích công danh, sang giúp y để truyền bá đạo Khổng, Mạnh. Rồi y ban hành chính lệnh năm điều gọi là Ngũ-pháp Thánh hoá, nghĩa là năm điều pháp lệnh, giáo hoá đạo Thánh cho dân Cửu-chân.
Thứ nhất: Người Hán, người Việt đều bình đẳng trước pháp luật. Người Hán, người Việt được kết hôn với nhau.
Thứ nhì: Những người Việt được mời thầy, mở trường, dạy chữ Hán như người Hán.
Thứ ba: Người Việt được quyền mua bán các thứ đồ đồng, đồ sắt, cũng như hạt giống, cây giống, thú vật giống cái từ Trung-nguyên. Thái thú sẽ tổ chức những đoàn người sang Trung-nguyên du học về phép đánh cá, trồng cây, chăn nuôi, làm đồ đồng, đồ sắt cho dân chúng.
Thứ tư: Dân chúng được học lễ nghi, thờ cúng tổ tiên, học lễ nghi về hôn sự, tang chế.
Thứ năm: Trai tráng tới 18 tuổi không có tiền lấy vợ, phủ Thái-thú sẽ giúp đỡ.
Chính lệnh ra ra, các Lạc-hầu đều mừng rỡ, cho rằng Thái-thú là người đi truyền đạo Thánh. Các Lạc-hầu đua nhau gửi người sang Trung-nguyên đón thầy về mở trường dạy chữ Hán cho dân chúng trong trang ấp. Nếp sống dân chúng đổi hẳn: Từ cách ăn mặc cho đến nhà ở, lễ nghi, nhất nhất đều giống như Trung-nguyên. Người Việt đua nhau học chữ Hán, nói tiếng Quảng. Trẻ con đến trường, chỉ chơi những trò chơi của người Hán, hát bài hát Hán, nói tiếng Hán, bỏ tiếng Việt. Dân chúng chỉ biết Tam-hoàng, Ngũ-đế, biết đến Văn-vương, Chu-công, Khổng-tử, Bách gia chư tử mà không biết đến Lạc-long quân, Âu-cơ, Hùng-vương. Trẻ con, người lớn ngồi kể chuyện cho nhau nghe về sự tích Tiêu Sử, Lộng Ngọc mà quên truyện Trương Chi, Mỵ Nương. Những bậc trí giả đàm đạo với nhau về Lưu Bang, Hạng Võ mà quên mất Hùng-vương, An-dương vương. Họ luận bàn về làm thế nào để ngăn chận quân Hung-nô không nhập được vào quan ải, mà quên mất những phương cách đề phòng người Hán nhập Việt.
Dân chúng ca tụng Thái thú, có nhiều người Việt ngu muội còn lập đền thờ sống y. Dân chúng được lập ấp sống với nhau, họ tự tách rời các ấp của Lạc-hầu, Lạc-tướng. Thế là các Lạc-hầu, Lạc-tướng không còn lực lượng hậu thuẫn của dân chúng hầu mong phục quốc nữa.
Ghi chú của thuật giả
Sau này, Hán-sử đề cao Nhâm Diên, Tích Quang, coi như y là người sang khai hóa ho người Việt. Kể từ thời y, người Việt mới biết trồng ngũ cốc, mới biết cưới xin. Sau khi Trưng-vương tuẫn quốc, những triều đại Đông Hán, Tam-quốc (Ngô), Đông Tấn, Tuỳ, Đường -880, nghĩa là từ sau thời Trung-vương cho đến khi Dương Diên Nghệ khởi nghĩa, non một nghìn năm. Các quan lại người Hán sang cai trị Lĩnh-nam hết sức ca tụng, đề cao Nhâm Diên, Tích Quang. Bắt dân chúng lập đền thờ. Ngày rằm, mồng một, ngày Tết, dân chúng phải đến tế lễ linh đình, coi họ như hai người Hán đầu tiên đến khai phá đất Nam-man, dạy cho người Việt biết lễ-nghĩa, biết trồng cây, biết chữ thánh hiền. Làm như vậy để dân chúng thêm tự ty mặc cảm, hy vọng quan lại người Hán là những người mang phúc đức đến Lĩnh Nam hầu bớt mầm chống đối.
Gần đây, sử gia Trần Trọng Kim cũng đi vào đường sai lầm, coi Nhâm, Tích là hai người tốt bụng. Sau khi nghiên cứu thư tịch Trung-hoa hồi đó, nhất là những cuốn phổ của đền thờ anh hùng Lĩnh-nam. Khi tổng hợp lại, thì tôi thấy khi Nhâm, Tích chưa tới nước ta, dân Việt đã có một nền văn minh rực rỡ ngang với Trung-nguyên. Lễ giáo, phong tục đã thành, có thua gì đâu? Đọc cuốn phổ về anh hùng Đào Kỳ, chúng tôi tìm thấy Nhâm, Tích là hai tên thực dân lớn nhất, muốn đồng hoá đất Lĩnh-nam với Trung-nguyên, nhưng bị anh hùng Đào Thế Kiệt, Đào Thế Hùng và Đinh Đại phá vỡ.
Hồi còn thơ ấu, nhiều lần thuật giả được tiền nhân dẫn đi thăm đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang. Tại những ngôi đền thờ này, có rất nhiều thơ, phú, bia, ký ca tụng công đức chúng. Thuật giả lấy làm ngạc nhiên, có nhiều tấm bia đến chữ Nhâm Diên, Tích Quang thì bị đục đi mất. Hỏi tiền nhân, thì được dạy:
"…...Những tấm bia lành lặn được tạc từ sau năm 1284. Còn những tấm bia bị đục tên Nhâm, Tích là do Trấn Bắc đại tướng quân, Hoài-văn hầu Trần Quốc Toản. Khi qua đây, Trần Quốc Toản thấy người thời đó thờ cúng Nhâm, Tích, hầu tuyên bố : Nếu y có thiêng thì vật chết ngài đi. Rồi ngài sai quân đục tên y trên các bia đá, dùng côn đánh vỡ tan tượng của y. Tương truyền từ đó, y hết linh thiêng"
Xin coi bộ Anh Hùng Đông A, Gươm thiêng Hàm-tử, sẽ xuất bản.
Trước kia, mỗi huyện đều có một Huyện lệnh để cai trị, một Huyện-uý để điều khiển quân đội, bên cạnh có một sở Tế-tác (công an). Những chức vụ này toàn là người Hán cả. Nhâm Diên tâu Hán đế giao quyền huyện uý cho các Lạc-tướng, chỉ giữ lại các chức huyện lệnh và sở Tế-tác là người Hán thôi. Như vậy, sở Tế-tác điều tra thấy mầm mống nổi loạn, báo cáo về, Huyện-lệnh sẽ truyền cho Huyện-uý người Việt mang quân Việt đi đàn áp người Việt. Tuy nhiên, Thái-thú vẫn còn một Đô-uý chỉ huy những đội quân Hán, hoặc Hán-Việt hỗn hợp, sẵn sàng đánh dẹp nếu các Huyện-úy làm loạn.
Đứng trước thế nguy đó, chín nhà trong phái Cửu-chân họp nhau để đối phó, thì năm nhà đã là quan chức của Thái thú, còn hai nhà thì mở rộng cửa dạy dỗ dân chúng thành người. Hán. Chỉ có Đào gia, Đinh gia là cương quyết, không chịu Hán hoá, mà chỉ mưu đồ phục quốc. Âm mưu của Thái-thú không nhắm vào lớp người lớn tuổi, mà nhắm vào lớp trẻ cắp sác đến trường. Tương lai chúng sẽ thành người Hán. Những binh lính người Hán đến đồn trú, đều lấy vợ Việt, khi sinh con đẻ cái ra, tất nhiên những đứa trẻ đó đều nhận mình là Hán, nói tiếng Hán chứ không còn nói tiếng Việt nữa.
Đào Thế Kiệt quyết định cho em là Đào Thế Hùng ra Bắc, lập ấp ở vùng Cổ-loa, kinh đô cũ của Âu-lạc, liên kết với hào kiệt Giao-chỉ, lập thế ỷ dốc để chuẩn bị khởi nghĩa. Nếu Đào trang ở Cửu-chân có điều gì, thì còn Đào trang ở Cổ-loa.
Sau khi Đào trang ở Cửu-chân bị đánh phá, Đào Kỳ đến Cổ-loa dò tìm hết các nơi, vẫn không thấy tin tức chú mình đâu. Không ngờ đêm nay, chú cháu lại trùng phùng. Nảy ra Đào Thế Hùng làm Huyện-úy Đăng-châu.
Đào Kỳ thuật hết tất cả những đoạn đường chàng đi mấy năm nay cho chú nghe.
Đào Thế Hùng thẫn thờ như người mất trí:
- Không biết bố mẹ cháu và Đinh Đại bây giờ ở đâu? Không chừng họ cũng ẩn thân làm Huyện-uý nơi nào hầu chờ thời cơ cũng nên. Vậy hãy chờ đại hội Tây-hồ, chú cháu mình cùng về tham dự nghe ngóng tin tức của cha cháu.
Lê Chân hỏi:
- Cháu có thể góp ý kiến với lão bá được chăng?
Thế Hùng nói:
- Tôi tuy thân làm quan với Hán, nhưng lúc nào cũng theo dõi tình hình của ta. Mấy năm nay, nghe danh Đông-triều nữ hiệp vang dội như sấm. Cô nương tự lập ra trang An-biên này, giả làm người bán quán, mà tôi tuyệt không hay. Cô nương là đệ tử chân truyền của Nam Hải nữ hiệp, đứng hàng đầu trong Sài-sơn bát tuấn. Hà... cứ cái tên Đông-triều nữ hiệp thì chú cháu tôi sẵn sàng dãi bày ruột gan với cô nương. Nãy giờ, những việc cơ mật nhất, chú cháu tôi cũng nói trước mắt cô nương, như vậy, đã coi cô nương là người đồng tâm vậy.
Lê Chân nói:
- Đa tạ lão bá quá khen. Xin hỏi lão bá, trong huyện Đăng-châu còn một cao thủ người Hán nào không?
Thế Hùng đáp:
- Hiện chỉ có Giám-sở Tế-tác, võ công y thuộc vào hạng thượng thặng. Tuy nhiên, tôi chưa đấu với y bao giờ nên chưa biết trình độ võ công đích xác của y. Tên hắn là Lưu Chương. Không hiểu cô nương hỏi như vậy là có ý gì?
Lê Chân nói:
- Lão bá quên mất hoàn cảnh khó khăn của lão bá rồi sao? Tôi sợ trong khi lão bá ở đây, Trương Thanh sai Lưu Chương bao vây trang ấp của lão bá, đổ tội bắt Tô Phương cho lão bá. Đợi lão bá bắt xong Đào Kỳ, Phương Dung rồi, y ra tay giết Tô Phương, Ngũ Phương thần kiếm và quản ngục để diệt khẩu.
Phương Dung lắc đầu:
- Nếu Trương Thanh ngu muội thì y sẽ hành động như vậy. Còn nếu khôn ngoan thì y không dám. Muôn ngàn lần y không dám.
Đào Thế Hùng ngạc nhiên:
- Tại sao y không dám?
Phương Dung cười:
- Lão bá thử đặt mình vào trường hợp y, rồi suy nghĩ sẽ thấy. Lão bá là Huyện-úy, Huyện-lệnh chỉ có quyền giết khi lão bá cử binh làm phản. Còn không, y phải phúc bẩm về Thái-thú để xin lệnh. Nay lão bá đã làm phản đâu? Vả lại các tướng sĩ cùng quân sĩ đều là người thân tín của lão bá, dễ gì Lưu Chương đã điều động được họ? Quân số của huyện Đăng-châu cũng không đủ để đánh trang ấp của lão bá.
Đào Thế Hùng hiểu ra, ông nhìn Phương Dung bằng con mắt khâm phục. Ông nghĩ thầm:
- Con bé này là bạn của Đào Kỳ, mới từng ấy tuổi mà ước tính tình hình như một vị tể tướng. Chỉ cần năm, ba năm nữa, nó sẽ trở thành vô địch.
Ông trả lời:
- Lưu Chương là tên hồ đồ, ngu muội.
Lê Chân quyết định:
- Đúng, tiên hạ thủ vi cường. Tôi có ba kế hoạch, xin lão bá chọn lấy một. Thứ nhất: Lão bá cùng hai em Kỳ, Dung với tôi, đánh cướp nhà ngục thả Tô Phương ra. Tô Phương sẽ giết chết Trương Thanh. Y cảm kích, có khi xin cha tấu cho lão bá làm Huyện-lệnh. Lão bá yên tâm, ẩn thân, chờ ngày khởi nghĩa, đem quân bản bộ ở Đăng-châu đánh lên Luy-lâu.
Phương Dung suýt xoa:
- Kế này hay lắm. Nhưng Tô Phương võ công rất cao, kiến thức rộng, thêm Ngũ-phương kiếm nữa, tôi e rằng chúng sẽ giết lão bá để che dấu cái nhục bị bắt, bị đánh ở Đăng-châu.
Lê Chân cười:
- Chị biết có em đây, thì em bảo Tô Phương chết, nó cũng chết. Huống hồ chính em đem lão bá cứu y, y sẽ cảm kích biết mấy? Cứu hắn rồi, em liếc mắt, ban cho vài nụ cười, thì điều gì em muốn chẳng được?
Đào Kỳ chau mày:
- Còn kế thứ nhì?
Lê Chân cười:
- Kế thứ nhì nguy hiểm hơn, nhưng nhiều ích lợi cho việc quang phục. Bây giờ Đào Kỳ, Phương Dung về thả Ngũ-phương kiếm ra, bắt Tô Phương dấu đi. Đương nhiên, Ngũ-phương kiếm sẽ đến hỏi tội Huyện-lệnh. Huyện-lệnh nhờ Lưu Chương chống Ngũ-phương kiếm. Lão bá vờ giúp Huyện-lệnh đánh đuổi Ngũ-phương kiếm, rồi vu vạ cho Ngũ-phương kiếm làm phản, đã giết mất Tô Phương. Ngũ-phương thần kiếm không nơi nương tựa. Kỳ, Dung sẽ xuất hiện cứu giúp họ. Họ cảm khái theo mình. Mình vô tình được năm tay trợ thủ đắc lực. Trong khi đó, lão bá khống chế Huyện-lệnh và Lưu Chương bằng cái án Tô Phương và nắm lấy thực quyền trong huyện. Khi cuộc khởi nghĩa bùng lên, lão bá thả Tô Phương ra. Hắn sẽ tìm Huyện-lệnh trả thù. Bây giờ lão bá giết Huyện-lệnh, nộp đầu cho Tô Phương. Tô Phương tin tưởng lão bá, giao Huyện-lệnh cho lão bá. Lão bá sẽ mang quân đánh thẳng lên Luy-lâu.
Đào Kỳ gật đầu:
- Kế này thực tuyệt, nhưng hơi nguy hiểm.
Lê Chân cười:
- Chị biết em thích kế này hơn kế thứ nhất. Bởi kế thứ nhất thì Phương Dung phải liếc mắt đưa tình với Tô Phương.
Đào Kỳ nóng bừng mặt vì bị nói trúng tâm tư.
Chàng cúi đầu xuống, tự nhủ:
- Chị Lê Chân tuy thông minh, mưu kế tuyệt vời, nhưng hiểu lầm ta rồi. Ta coi Phương Dung như cô em gái. Chứ lòng ta... ta chỉ tưởng nhớ có một mình Tường Quy mà thôi. Ta cách xa Tường Quy đã hơn một năm rồi, không biết nàng đã về làm dâu họ Trương chưa? Thằng Trương Minh Đức là một thứ công tử bột, văn dốt, vũ dát, tính khí ngông cuồng, chắc nàng phải đau khổ vì hắn nhiều lắm. Nó là thằng ăn chơi trác táng, có thiết gì đến tiếng đàn, giọng hát của nàng nữa?
Chàng thở dài, hỏi tiếp:
- Còn kế thứ ba?
- Chúng ta đón gia đình lão bá lên Đông-triều ở với chúng tôi, mặc cho bọn Trương Thanh, Lưu Chương với Tô Phương cắn cấu nhau. Trương Thanh thấy chúng ta bỏ đi, có khi sợ không dám giết Tô Phương. Đành thả chúng rồi cúi đầu tạ tội...
Đào Thế Hùng suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Kế thứ ba thì hèn quá, ta còn mang tên Hùng thế nào được? Còn kế thứ nhất chưa chắc đã thành công. Chúng ta lấy việc phục quốc làm đầu, ta muốn chọn kế thứ nhì. Đông-triều nữ hiệp mưu thần chước thánh, danh bất hư truyền. Sau này khởi nghĩa, cháu sẽ phải lĩnh đội binh từ Đông-triều chặn không cho giặc rút lui. Cháu là gái mà chí khí hào hùng còn muốn hơn bọn ta. Bây giờ chúng ta nên bàn thêm chi tiết.
Phương Dung bàn:
- Ngay đêm nay, em với anh Kỳ đến nhà tù bắt Tô Phương giao cho chị, để chị giam giữ ở Đông-triều. Sau đó, chúng em cứu Ngũ-phương kiếm ra. Ngũ-phương kiếm tất tới huyện để hạch tội Trương Thanh. Lão bá hợp với Lưu Chương đánh đuổi Ngũ-phương kiếm đi, rồi hiến kế vu oan giá hoạ cho Ngũ-phương kiếm. Thôi, chúng ta bắt tay vào việc.
Đào Kỳ, Phương Dung lên ngựa trở về Đăng-châu. Vừa đi được một quãng thì gặp Trương Minh Đức với ba tên tuỳ tòng đi tới. Bọn chúng thấy Đào Kỳ, Phương Dung thì mừng rỡ vô cùng, hô lên một tiếng, cùng rút vũ khí nhảy vào. Đào Kỳ chụp từng tên một, nắm đầu liệng xuống đất. Chàng vận kình lực khá mạnh nên ba tên đó chết giấc tức thời. Trương hoảng hốt chưa kịp chạy, Phương Dung đã từ mình ngựa vọt sang ngựa hắn, kề lưỡi kiếm vào cổ:
- Mi dám bắt Tô đại công tử là mệnh quan của triều đình. Cha con mi mưu đồ phản nghịch, tội đáng giết cả ba họ. Mi mau đưa chúng ta về nhà ngục thả Tô công tử ra.
Trương Minh Đức hoảng hồn, nói lắp bắp:
- Tiểu nhân xin nghe lời cô nương.
Đào Kỳ vận hết sức mình vào tay, nhắm cây thông to bằng bắp đùi bên đường đánh một chưởng. Cây thông to như thế, kêu cái ầm rồi gẫy đôi, đổ xuống. Chưởng này là một trong Phục Ngưu thần chưởng tên là Ác ngưu nan độ, mạnh nhất trong 36 chưởng của Sơn Tinh khi xưa.
Phương Dung nói:
- Từ đây về nhà ngục, nếu mi mưu đồ gì, đại ca đây sẽ cho mi một chưởng như vậy, thân thể nát như tương, mi hiểu không?
Trương Minh Đức biết việc hôm nay không thể nào cứu vãn nổi, y chỉ mong thả Tô Phương ra, rồi cha con y dập đầu lạy, may mới thoát chết cả nhà.
Y dẫn Đào Kỳ, Phương Dung đến Đăng-châu lao xá. Bọn lính giữ tù líu ríu đưa y vào. Phương Dung vẫy tay bảo bọn lính:
- Công tử với chúng ta có việc riêng, các người khỏi theo hầu.
Trương Minh Đức dẫn hai người tới một dãy nhà, nói:
- Tô đại công tử tôi giam tại đây, còn bọn năm người tuỳ tùng, tôi giam riêng ở bên kia.
Phương Dung nhanh tay bóp cổ Minh Đức. Y há miệng ra hắc, hắc mấy cái, nàng đã nhét giẻ vào mồm, trói lại, liệng vào một bụi rậm. Đào Kỳ lấy kiếm chặt khoá, đẩy cửa bước vào. Phương Dung đánh lửa lên, thấy Tô Phương bị bịt mắt, trói nằm đó. Đào Kỳ cho tay vào miệng, nói giọng ồm ồm:
- Tô Phương, Trương Huyện-lệnh đã hợp mệnh trời, giúp người Việt phục quốc, nên muốn giết người để tỏ ý phản Hán. Hôm nay là ngày chết của ngươi đây.
Nói rồi chàng nhấc bổng y lên, vọt ra ngoài hàng rào, biến vào đêm tối. Còn Phương Dung tiến đến căn nhà giam Ngũ-phương kiếm. Phía ngoài cửa có mấy tên lính canh. Chúng thấy một người con gái đến cửa nhà giam vội hỏi:
- Cô là ai?
Nàng đáp:
- Ta là người của Huyện-lệnh đại nhân sai đến để tra xét tù nhân.
Một tên hỏi:
- Có lệnh bài không?
Phương Dung nói:
- Có, ngươi lại đây mà coi.
Y tiến lại. Phương Dung rút kiếm phóng vèo vèo hai nhát. Y giật bắn người thì mũi kiếm đã xuyên qua ngực y. Y lảo đảo ngã xuống. Phương Dung vung kiếm chặt khoá, vào nhà tù. Nàng đánh lửa lên thì thấy Ngũ-phương kiếm bị đóng gông ngồi đó.
Nàng hỏi:
- Huyện-lệnh làm phản nên bắt giam công tử cùng các vị. Tôi trốn được, đi cứu công tử và các vị. Công tử đâu?
Bọn Ngũ-phương kiếm nói:
- Tôi cũng bị bắt giam cùng công tử, nên không biết người bị giam ở đâu. Nguyễn cô nương, mau cứu bọn tôi để chúng tôi đi cứu công tử.
Phương Dung chặt gãy còng, cắt dây trói cho năm người rồi ra lệnh:
- Bây giờ chúng ta đại náo nhà tù tìm cứu công tử trước, hay đến huyện đường hỏi tội huyện lệnh?
Năm người thấy năm thanh kiếm của mình để gần đó, vội nhặt lấy đeo vào lưng.
Hoàng kiếm nói:
- Đại náo nhà tù, e khó cứu được công tử. Chi bằng chúng ta tới huyện đường bắt Huyện-lệnh dễ hơn.
Phương Dung dẫn năm người vọt qua hàng rào nhà tù, rồi hướng huyện đường đi tới.
Trời đã về khuya, nhưng trong huyện đường vẫn còn đèn đuốc sáng choang. Phương Dung biết Huyện-lệnh đang ngồi chờ tin Thế Hùng và con trai đi bắt nàng với Đào Kỳ nên chưa đi ngủ. Nàng bảo khẽ Ngũ-phương kiếm:
- Chúng ta dò thám thử xem.
Ngũ-phương kiếm là những người lịch lãm giang hồ nhiều nên gật đầu. Năm người vòng ra phía sau huyện đường, dùng tay chọc thủng giấy dán cửa sổ, nhìn vào.
Trong sảnh đường, chủ nhân Anh hùng tửu lâu đang quỳ dưới đất với một người con gái tuổi khoảng 17, 18, vẻ mặt xinh tươi. Huyện lệnh ngồi trên ghé, bên cạnh, một tên lính cầm roi như tra khảo.
Huyện lệnh hỏi:
- Phùng Đại Tín, bấy lâu nay ta che chở cho ngươi mở Anh hùng tửu lâu, ngươi đã trở thành giàu có. Nhưng nay ngươi lại trở thành gian tham, ăn cắp. Bọn khách tám người đến, trong đó có hai người Việt, chúng đi đâu mất, ngươi không hay? Hành lý của hai tên người Việt và tên công tử đầu xỏ thì biến mất, chỉ còn hành lý của năm tên người Hán. Ta muốn biết hành lý của tên công tử và hai tên người Việt ngươi cất nơi đâu?
Chủ quán lắc đầu:
- Tôi không biết gì hết. Hôm qua, sau khi ăn, họ cùng đi ngủ. Trưa nay không thấy họ thức giấc, tôi cho cạy cửa phòng của năm vị quan nhân người Hán thì thấy hành lý còn để đó. Hành lý của hai tên người Việt và của tên công tử thì biến mất.
Trương Thanh phất tay ra lệnh. Tên lính vung roi quất túi bụi vào người chủ quán. Phùng Đại Tín lăn lộn dưới đất, thịt nát, máu chảy đầm đìa nhưng vẫn chối là không biết gì cả.
Huyện-lệnh thấy đánh chủ quán không ăn thua, quay hỏi người con gái chủ quán:
- Phùng Vĩnh Hoa, cô là người đọc sách, là học trò giỏi nhất trong vùng Đăng-châu này, ta tin cô, bởi cô biết lễ, nghĩa, liêm, sĩ. Những lời khai của cha cô có đúng không?
Phùng Vĩnh Hoa nói:
- Cha tôi là người ngay thẳng, người ta trả quá một đồng, cha tôi cũng không nhận, huống hồ ăn cắp của khách hàng? Hôm qua, tám người khách trong đó có sáu Hán, hai Việt đều ăn mặc theo lối quyền quý, người nào cũng đeo gươm bên mình. Họ trả tiền sòng phẳng, còn thưởng nhiều tiền cho người hầu bàn nữa. Tối đến, cha tôi chọn tám phòng hạng nhất cho họ ở. Nhưng sáng ra thì cửa các phòng còn đóng kín, nhưng cửa sổ đã mở tung. Cha tôi cho người vào xét, thấy hành lý của năm vị quan nhân người Hán còn nguyên. Trái lại, hành lý của vị quý nhân người Hán với hành lý của hai người Việt thì không thấy. Sự tình có thế. Đại quan minh kiến. Nếu mấy người hầu trong khách điếm có lòng gian, thì có cho ăn vàng cũng không dám vào phòng mấy vị đó, mà dù có vào phòng thì họ sẽ lấy hết tất cả hành lý chứ đâu có lấy của ba người mà thôi? Như ngài đã khám xét, hành lý của năm vị quan gia người Hán đều đầy vàng bạc, nếu chúng tham, chúng đã lấy hết rồi.
Huyệnh lệnh nói:
- Nghe ta hỏi! Ta muốn biết hành lý của quý nhân người Hán chứ không hỏi vị quý nhân người Hán ở đâu. Ta muốn hỏi hai người Việt chứ không hỏi hành lý của chúng.
Phùng Vĩnh-Hoa nói:
- Sự tình như vậy thì tôi đoán ra rằng vị quý nhân người Hán và năm vị quan nhân bị quý phủ bắt giam. Còn hai người Việt thì trốn được. Hai người Việt trốn đi, họ mang theo hành lý của họ. Năm quan nhân người Hán thì hành lý vẫn còn đó. Còn hành lý của quý nhân người Hán thì một là do hai người Việt ăn cắp mang theo, hai là do các vị công sai của quý phủ lấy đi.
Phương Dung nghe Vĩnh Hoa nói khen thầm:
- Người con gái này quả thực cơ mưu viễn tự, đoán việc như thần. Ta đã nổi tiếng là quyền biến, mưu mẹo nhưng còn thua Lê Chân một bậc. Nhưng cả Lê Chân với ta, đều thua người con gái này.
Trong khi đó, Huyện-lệnh Trương Thanh suy nghĩ:
- Con ta ngu quá. Hôm qua nó chỉ mải mê bắt gái, không ngờ gái trốn mất. Bọn tuỳ tùng thuận tay bắt luôn Tô Phương và Ngũ-phương kiếm để sinh vạ. Hai đứa người Việt chắc chạy qua phòng Tô Phương, thấy hành lý có nhiều giấy tờ quan trọng thì lấy đi. Không biết Huyện-úy với con ta có bắt được chúng về không? Nếu không bắt được thì họa không nhỏ. Thôi, ta cứ đổ cho chủ quán là mọi việc êm đẹp.
Trong khi đó, Ngũ-phương thần kiếm lại nghĩ:
- Đêm qua bọn ta với đại công tử bị chúng thổi thuốc mê bắt đi. Có lẽ lúc đó, Nguyễn cô nương ra ngoài chơi nên thoát được. Về sau, cô nương mới trở lại cứu bọn ta. Hành lý của đại công tử chắc bọn sai nha đã dấu đi. Nguyễn cô nương và Âu tiểu đệ chắc không phải là người ăn cắp hành lý của công tử. Nếu họ ăn cắp thì tội gì đêm hôm vượt nguy hiểm trở lại cứu bọn ta?
Vì đã có chủ ý nên Huyện-lệnh đập bàn quát:
- Mi nói láo? Ta là quan người Hán, tại sao lại cho bắt quý công tử người Hán với năm vị quan nhân người Hán? Nếu ta bắt thì đã đem người tới vây khách điếm, chứ việc gì phải vượt cửa sổ lén lút? Ta nói cho cô hay, cô phải khai thực như thế này: Người hầu trong khách điếm với cha cô thấy quý công tử với năm quan nhân người Hán có nhiều tiền, nên đã xông thuốc mê cho họ ngủ say. Người hầu khách điếm đã giết chết quý công tử và ăn cắp hành trang trốn mất. Bây đâu, lấy bút mực cho cô này cung xưng.