Chương 5 Vua thua chạy dài
Hồi đang nói đây (1884 bước qua 1885), tiếng là người Pháp đã lấy binh lực chinh phục được cả Trung Bắc lưỡng kỳ và chiếu theo điều ước 1884, triều đình nước Nam đã phải nhìn nhận nước Pháp định cuộc bảo hộ rồi, nhưng mà cuộc bảo hộ mới thực hiện về danh nghĩa thì có, về tinh thần thì chưa.
Nghĩa là lúc bấy giờ nước Nam chịu mất chủ quyền, mà phần lớn dân tâm sĩ khí đang hăng máu ái quốc, chưa chịu khuất phục.
Có hai lẽ cốt yếu.
Trước hết, người Nam thuở ấy vẫn chưa nhận biết những cái thực lực văn minh hùng cường của người Pháp, mặc dầu mình giao phong ở đâu bại tẩu ở đó, tỉnh kia thành nọ kế tiếp trước sau thất thủ như cách con tằm lá dâu.
Chắc có độc giả phải lấy làm lạ, sao vừa mới xảy ra cách tám chục năm trước nào phải lâu gì, chính người Pháp qua đây đóng thuyền đúc súng, khiển tướng điều binh giùm cho vua Gia Long mới thắng nổi Tây Sơn, vậy thì cái thực lực văn minh hùng cường của người Pháp, lẽ nào người Nam không biết cho được? Song đấy chỉ là một việc quan hệ riêng với nhà vua, cứu giúp riêng cho nhà vua nọ đang tranh hành với nhà vua kia, thành ra dân chúng đâu có hay biết.
Đến lúc binh Pháp sang chinh phục, làm cho ta, đất tiêu lần mòn, trận thua điên đảo, mà ta vẫn tưởng lầm và đổ trút những nguyên nhân ấy tự đâu chứ chưa biết và cũng chưa chịu rằng người mạnh ta yếu, người hay ta dở, người giỏi ta hèn. Tới đó và đối với thực lực của người, sĩ phu ta một đàng, dân chúng ta một ngả, vẫn có những quan niệm coi thường, những cảm giác xem kinh lạ lắm.
Sĩ phu thì tự đắc tự tin về những phép tắc Nghiêu Thuấn Không Mạnh, và học thuật "Tử viết Thi vân", ngoài ra, nhất thiết cái gì khác lạ đều coi là di địch.
Cứ xem một bài "Biện di luận" của ông Võ Phạm Khải can vua Tự Đức mưu toan cải cách, cũng đủ biết tư tưởng của cả sĩ phu ta ở đương thời. Chính bài đó làm vua Tự Đức xiêu lòng, không biết nghe lời của chí sĩ Nguyễn Trường Tộ xin cải cách duy tân để vãn thời cứu quốc. Việc nguy vong của quốc gia và thực lực của người Pháp sờ sờ trước mắt đó rồi, nhưng sĩ phu vẫn nghĩ mình là hay là giỏi hơn.
Còn dân chúng càng không thấy thực lực của người, đến nỗi tưởng rằng cắm cây nhọn dưới sông - làm như kế của Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên ở Bạch Đằng giang ngày xưa - chắc làm tàu trận Pháp phải thủng đáy mà chìm. Thấy người Pháp cao lớn vạm vỡ, cho là nặng nề, chắc họ không biết bơi lội, không thể chạy mau; thấy đồ của người Pháp dùng để ăn bằng sắt, không phải đũa bát như mình, thì cho là mường mán; thấy súng đạn của người Pháp bắn mau như biến mà trúng đâu chết đó thì cho là họ có thuật quỷ phép ma.
Trong khi người mình còn chưa nhìn ra sự thật, chưa chịu sức mình hèn, tự nhiên cuộc bảo hộ tuy định rồi, mà nhân tâm sĩ khí chưa thể trấn phục được cũng là lẽ thường.
Sau nữa, dân tộc mình tự xưa vốn có cái tinh thần chiến đấu tự tồn, trên con đường lịch sử đằng đẵng mấy ngàn năm, đã từng bao phen chống Nguyên, cự Minh, biết sự thắng bại. Dầu có lúc bại cũng chiến đấu tới cùng, không khi nào chịu bỗng chốc vòng tay khuất phục. Cái tinh thần đó của người Việt Nam chính ông đại uý Gosselin và nhiều quan binh khác có dự vào cuộc chinh phục nước Nam đều thẳng ngay nhìn nhận.
Bởi vậy, sau khi triều đình thúc thủ vô phương và thừa nhận bảo hộ rồi, dân tâm sĩ khí vẫn chưa chịu hàng phục. Còn bát gạo nào ở trong kho, viên đạn nào ở nòng súng, người mình còn muốn đem trút ra hết, chừng nào thật là thế cùng sức kiệt sẽ hay.
Thừa có cái nhân tâm sĩ khí ấy, văn thân các tỉnh nổi lên tứ tung, trong lúc ở kinh thành Tôn Thất Thuyết hoặc tự biết hay không tự biết là bàn cờ tất thua, cũng nhất định đi một nước cờ chót rồi mới chịu để cho người ta chiếu bí.
Đối với người Pháp, như ai nấy đã rõ: bao giờ Tôn Thất Thuyết cũng là người chủ đánh tới cùng, không muốn cho triều đình ký hoà ước, không muốn cho quân Pháp vô đóng ở Trấn Bình Đài (tức là Mang Cá), không muốn cho nước Pháp đặt cuộc bảo hộ ở kinh đô. Nhưng vì tình thế hồi bấy giờ, triều đình sợ thua quá, cho nên điều gì cũng chịu nhượng bộ người Pháp, thế là không hợp với ý muốn của Thuyết chút nào. Phải biết rằng Thuyết không ưa người Pháp ra mặt, không thèm giấu giếm gì. Tuy thế, người Pháp cũng đem lòng yêu mến quý trọng ông ta là con người có trung, có dũng, cho nên đã cậy người - vì ông thù ghét đến nỗi không muốn giáp mặt người Pháp bao giờ - lấy thời thế, lấy nghĩa là, lấy tước lộc, lấy oai quyền dụ dỗ, để cho ông phục theo, nhưng không hề lấy thứ gì khiến cho ông động lòng đổi ý đi được. Nhất là từ khi binh Pháp chiếm mất Trấn Bình Đài và lập trại đóng quân trong thành, thì cái khí cừu phẫn huyết chiến của ông ta càng phừng phừng bốc lên không thể dằn được nữa. Ông thường nói luôn miệng với kẻ tả hữu:
- Phen này ta quyết sống thác với Tây mới được.
Trên kia đã nói Trấn Bình Đài là một nơi hiểm yếu của kinh thành và rất có quan hệ với đường võ bị. Thật thế, chỗ ấy có cái hình thế quanh co hiểm trở, trên có đồi đống lấn áp, dưới có sông nước thông vào, có đủ cả mọi sự cần dùng trong việc thủ thành và dụng võ. Triều đình ta lập ra chỗ đó để đóng quân, chứa khí giới, cốt để chống giữ kinh thành, coi như là cuống họng của kinh thành vậy. Nay binh Pháp chiếm giữ mất Trấn Bình Đài, tức là chận mất cuống họng kinh thành, không còn cựa quậy được nữa. Huống chi Thuyết nghĩ rằng cuộc bảo hộ nay lại thành lập, thế là từ đây vua mất quyền, quan mất quyền, dân mất quyền; hồi nào mình đang ngất ngưởng làm chủ quân, bây giờ phải xuống làm kẻ tùng phục, Thuyết lấy làm phẫn uất khó chịu lắm. Thành ra một hai Thuyết quyết tâm phải chống cự binh Pháp một phen, thân mình có chết cũng bỏ.
Nhưng Thuyết dự bị một cách chắc chắn đã, rồi mới khai chiến.
Trước khi định đánh, đã tính sẵn sàng đến bước lui. Ông ta triệu tập hết các tướng sĩ lại bộ Binh mà nói rằng:
- Lúc này quốc gia mới chính là lúc cần dùng đến trái tim và tay súng của bọn ta, vậy bọn ta phải cố sức làm sao, hoạ may có lôi kéo thời thế lại được, chứ không lẽ chưa chi đã bó tay mà chịu... Coi kìa, cái giường mình nằm thuở nay, người ta xa lạ ở đâu tới leo lên nằm ngủ ngáy khò, làm sao mình chịu được!
Thế rồi một mặt ông sai lập sơn phòng tại Cam Lộ (thuộc tỉnh Quảng Trị) đem vàng bạc tiền gạo lên chứa tại đó rất nhiều, phòng sau này đánh có thua thì lấy chỗ đó làm chỗ lui chân. Một mặt ông mở trường tập võ, truyền lệnh cho các vệ, các doanh đều phải ngày đêm luyện tập siêng năng, để nay mai nhà nước dùng đến. Lại lo rèn khí giới, đúc súng đạn rõ nhiều, sai đào hào đắp ụ ở trong kinh thành. Tóm lại, nhất thiết cái gì cần dùng quan hệ cho việc nước dùng binh, Thuyết đều lo dự bị sẵn sàng.
Rồi Thuyết cùng Tường bàn tính việc đánh. Tường nói rằng:
- Nước ta bao nhiêu năm nay gặp việc binh đao luôn mãi, rường mối ngã nghiêng, dân gian khổ sở lắm rồi. Nay năm mới rồi (1883) binh Pháp đánh phá tan tành cửa Thuận An, tâm khí của quân ta đã nao núng khiếp sợ lánh. Nay đánh nhau ngay giữa kinh thành, tuy mình cậy có thành cao hào sâu, nhưng mà súng đạn của người ta ghê gớm, bắn tới đâu thì ngọc đá đều cháy tan tới đó; chúng ta bây giờ sinh sự khai chiến, sợ làm phiền luỵ cho Thánh thượng, và cực khổ cho quan quân, tưởng không có ích lợi gì mà lại có hại nữa.
Vẫn biết thời cuộc rối ren đến như thế, nhưng sao trước kia, việc gì Tường cũng tán thành cho Thuyết, đến bây giờ nói tới việc đánh thì Tường lại can khéo, tức là có ý lảng ra. Tuy là hiểu thời thế mặc lòng nhưng cũng bởi nay ý hướng của Tường đã thay đổi. Trước kia ông thấy trong triều có Thuyết mạnh thì ông theo, nhưng nay nước Pháp đã thành lập bảo hộ rồi, thì bảo hộ mạnh, ông bỏ Thuyết mà theo bảo hộ. Ông vẫn thậm thụt ra vào bên toà Khâm luôn, mục đích chỉ lo giữ vững cái thân danh phú quý của mình thì thôi, nước còn thành còn, ông cũng là Thượng thư, nay nước mất thành mất, ông cũng vẫn là Thượng thư, có thiệt thòi chi mà lo nghĩ đến việc khác nữa.
Thuyết nghe Tường khuyên can, biết là Tường đã biến tâm rồi.
Ông quyết hành động một mình.
Lại còn một nguyên nhân này khiến cho ông càng mạnh lòng quyết chiến.
Ngày 19/5/1885 là giữa năm mất kinh thành, Thuỷ sư đô đốc Pháp là ông de Courcy đem 1500 quân từ Bắc kỳ vào Huế, cần phải chuyển đệ bức quốc thư của Chính phủ bên Pháp gởi sang cho vua nước Nam. Trước khi ông tư giấy qua triều đình, xin triều đình phải thiết đại triều để tiếp kiến Pháp sứ. Ông rõ biết trong triều đình bấy giờ, Thuyết và Tường là hai người trọng yếu, cho nên trước hết ông mời Tường và Thuyết qua bên toà Khâm sứ để tương kiến và thương thuyết việc nước đã. Thuyết nói thác là mình có bệnh không chịu đi, duy có Tường và Phạm Thận Duật sang, nhưng Đô đốc De Courcy không chịu, cố đòi cho được Thuyết sang mới nghe. Thuyết sợ mình qua bị trúng kế gì chăng, nên nhất định không đi. Đô đốc De Courcy giận lắm, trong ý muốn có ngày đem quân sang tận bộ Binh để bắt Thuyết. Nghe tin này Thuyết cũng giận, ngày đêm thường lấy đạo quân phẫn nghĩa để phòng thân, và nghĩ bụng rằng nó đã định bắt mình, thì mình đánh nó trước xem sao!