Một ngày kia Cao Thắng đang ngồi ở đồn ngoài, cùng chư tướng bàn bạc việc quân, bỗng có một tên lính vào bẩm rằng: - Ngoài cửa trại, có một người đàn bà dẫn theo một đứa con trai nhỏ, nói xin vào yết kiến quan Đổng nhung (là chức Cao Thắng lúc ấy). Ông lấy làm lạ, truyền cho vô tức thời.
Người đàn bà dắt đứa trẻ vô, đứng vái dài một vái rồi nói một cách tự nhiên: - Tôi là con gái ông Hoàng Phúc (cũng là một nhà cách mạng ở Quảng Bình, đoạn trên kia đã nói tới), chắc tướng quân đã biết. Sau khi cha tôi mất, nhà tôi tan, thân tôi phải lưu lạc giang hồ, tìm cách để phục thù cho cha tôi. Vì tuy tôi là liễu bồ phận gái, nhưng cũng có hồ thỉ chí trai, tấm thân không kể bao nhiêu nông nỗi đắng cay, miễn là cầu vọng cho thoả được tấm lòng mình ao ước. Đứa con nhỏ này đây (vừa nói vừa chỉ vào đứa trẻ nhỏ) không phải là đứa con tôi, nó là con riêng một người bạn tôi, cũng một nhà chí sĩ, tên là Lê Doãn, trước theo cha tôi đã lập được nhiều công trận, vì anh ta thông minh và vô dõng lắm. Cha tôi thương yêu, mà tôi cũng thương yêu, nên chi tôi với Lê Doãn đã ước hẹn với nhau rằng một mai đại sự thành công thì thế nào chúng tôi cũng thành duyên cang lệ với nhau; lời minh thệ ấy có trời đất chứng giám. Anh ta đã goá vợ, chỉ có một đứa con trai mới 3 tuổi, chính là thằng bé này. Nhưng vì quốc sự gian nan, làm cho việc nhân duyên của chúng tôi giữa đường lỡ dở chia phôi. Nguyên là cách đó chưa được bao lâu anh ta đánh trận bị thương nặng, tự biết không sống được, có viết thư để lại cho tôi, cậy nhờ giao phó tôi trông nom giùm đứa con bồ côi. Không mấy lúc sau, cha tôi cũng chết mất, thân thế của tôi thành ra lênh đênh. Không lẽ ra đầu thú với Pháp, bởi làm vậy thì trái lòng của cha; không lẽ đi lấy chồng, vì đối với anh Lê Doãn, dầu sau cũng đã là chồng tôi rồi; lại không lẽ bỏ đứa con bồ côi mà đi đâu, và cha nó đinh ninh uỷ thác cho mình, nếu mình bỏ đi thì bấy giờ ai nuôi nó?
Thành ra tôi phải đem đứa con nhỏ này cùng đi trốn. Phải đi trốn, kẻo sợ quân Pháp tróc nã tôi. Đi trốn mà không biết ở vào đâu cho thuận tiện được cả mọi bề, cho nên tôi phải mua một chiếc thuyền mà ở lênh đênh trên mặt nước, nay ở chỗ này, mai dời chỗ kia, không biết đâu là định sở. Trong lưng tôi còn được mấy nén bạc, mới bỏ ra buôn than để chi độ qua ngày. Tôi cốt buôn than đem lên chợ Tràng bán, là có chủ tâm gần gũi giao thiệp với bọn lính tập đóng ở Nghệ An. Tôi giả đò quyến luyến với họ, để xúi họ thừa cơ khởi nghĩa, hưởng ông với nghĩa binh. Nếu vạn nhất mà việc đó thành công thì chẳng những nghĩa binh ở hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình thêm được vây cánh, khí giới, mà lại có thể mở ra được đường lối đi lại với nghĩa đảng ngoài Bắc, để trong ngoài tiếp ứng, chị té em nâng, may ra mới nên được việc lớn...
Nói đến đây, người đàn bà ngừng lại một lát để thở dài một hơi, rồi lại nói tiếp: - Nhưng mà trời cũng hại tôi, nên chi công việc mưu tính đã gần thành rồi mà lại hư hỏng, là bởi nhà đương cuộc Bảo hộ thấy động liền sinh nghi vội vàng thay đổi toán lính tập tôi đang cám dỗ gần được đó đi nơi khác, mà đem toán lính xa lạ ở nơi khác về đóng tại tỉnh Nghệ; thế là khổ tâm mưu tính mấy năm trời bỗng chốc hoá ra “Dã tràng xe cát"; tôi đau đớn vô cùng. Rồi nghĩ nếu mình cứ quanh quẩn ở đó mãi, nhắm chừng cũng chẳng nên được việc gì, cho nên tôi phải bỏ đi để tìm kế khác. Vẫn biết cụ Phan và tướng quân dấy nghĩa lâu nay, tôi rất lấy làm hâm mộ, đáng lẽ trước hết tôi phải lập được một chút công trạng gì, thì mới dám đến xin tướng quân thâu dụng, may ra tôi cũng có thể làm bổ ích cho việc lớn được đôi phần cỏn con. Nhưng nay điều sở ước của tôi đã hỏng mất rồi, không có thể tự mình tìm được việc gì khác mà làm nữa, vậy tôi đến đây tức là đem thân mọn tài hèn, để tướng quân sai khiến...
Người đàn bà nói một mạch từ lúc mới vô đến giờ, Cao Thắng lẳng lặng ngồi nghe.
Người đàn bà ấy nào phải ai lạ đâu, chính là cô bán than ở chợ Tràng, người ta vẫn gọi là cô Tám đó. Cô Tám nói luôn một mạch, kể lể tâm sự, chí hướng của mình, mà sắc mặt đổi thay mỗi chỗ theo câu chuyện: khi cười chúm chím, khi khóc sụt sùi, lúc cảm khích quá mạnh thì cất tiếng nói lớn như tiếng nổ ở trên không, lúc đụng chạm tới tâm sự thê lương thì tiếng nói nhẹ nhàng như hơi gió bay qua trước mặt, khiến cho Cao Thắng nghe lấy làm cảm động bùi ngùi, nhưng ông không khỏi sinh nghi; nghi là kẻ do thám của Bảo hộ sai đến. Sau khi cô Tám nói hết tâm sự rồi, Cao Thắng không trả lời gì hết, chỉ hét gọi đao phủ quân:
- Quân đao phủ đâu? Bay lôi con mụ này ra trước cửa trại mà chặt đầu nó đi cho mau. Nó dám cả gan tới đây bày điều kiếm chuyện để do thám binh tình của ta! Cao Thắng muốn làm bộ ra oai để thử tài thử gan cô Tám vậy thôi, không phải hô lính chém đầu thiệt đâu.
Việc tuần phòng tra xét ở sơn trại nghiêm lắm, nếu ai có chút hình tích hơi nghi là kẻ do thám thì đã bị bắn chết từ khi mới bước cẳng vô trại ngoài rồi, không khi nào được vô tới trại trong để yết kiến quan Đổng nhung.
Vả lại cô Tám đâu có sợ chết.
Cô Tám tự nhiên như không, chẳng có sắc mặt gì tỏ ra sợ hãi hay là hối hận; cô chỉ cười và nói: - Những thứ người mưu hại đồng bào như thế ở đời cũng có thiệt, nhưng người đó không phải là tôi. Tướng quân có muốn giết thì giết tôi đi, tôi rất vui lòng, lòng dạ tôi thế nào, đã có thần minh trên cao soi xét và có người ở suối vàng biết giùm tôi, tôi không cần biện bạch làm gì. Miễn là xin tướng quân thương xót đứa con bồ côi này mà chăm nom dạy dỗ, tôi dầu có chết cũng được yên lòng nhắm mắt. Nói đoạn, cô ôm chặt đứa nhỏ hôn hít và khóc nức nở. Mấy tên quân đao phủ vừa toan lôi cô Tám ra hành hình, thì Cao Thắng khoát tay mà nói: - Bây không được vô lễ!
Rồi ông bước xuống thềm đỡ tay cô Tám đứng dậy và cung kính mời ngồi: - Tôi muốn thử cho biết can đảm của cô đó thôi. Cô thực là một bực cang cường nghĩa khí, tôi rất kính phục. Nay cô tình nguyện ra sức với nghĩa quân tấm lòng quý hoá biết mấy, nhưng còn đứa con trẻ này bận rộn bên mình, thì cô tính sao? - Bẩm tôi đã có chỗ xử trí, tướng quân khỏi lo. Tức thời Cao Thắng thân dẫn cô Tám vô đại đồn yết kiến cụ Phan, trình bày sự thể. Cụ Phan còn đang ngần ngại, chưa biết dùng tài một người đàn bà vô chỗ nào, bỗng có tiểu đội nghĩa binh đi tuần về, báo tin rằng cách xa sơn trại 30 dặm, có một toán lính tập lối 30 người do viên quản cơ làm đầu, hiện đóng ở trong một cái miễu từ hai bữa nay, không biết là họ có ý cử động gì. Cụ Phan chưa kịp suy tính ra sao, cô Tám chụp nói: - Sẵn có cơ hội này, xin cụ cho tôi đi bắt toán lính ấy để lập công sơn kiến với nghĩa binh được chăng?
Cả cụ Phan và Cao Thắng cùng lấy làm lạ: - Một thân đàn bà cô định dùng kế gì mà bắt nổi cả đám lính tráng con trai như thế?
- Bẩm cụ, tôi có cách bắt được, mà quân ta không phải hao một viên đạn nào mới hay, chỉ xin giao hẹn đến ngày thứ ba, thì cụ cho mấy chục tên kiện tốt, mặc đồ giả làm người đi buôn bán và giả một tốp nông dân đi lảng vảng qua trước miễu, hễ thấy tôi liếc mắt ra dấu bảo họ ra tay thì họ cứ việc. Cụ Phan cho đi. Cô Tám từ giã, tức thời xuống núi. Cô đi vô một làng xóm gần đó, mua một cây đòn gánh thiệt chắc, một đôi thúng, chất đầy rượu thịt quý bánh nhiều thứ, lại sửa sang mặt mày và trang điểm cho ra vẻ con người xinh đẹp mà hơi lẳng lơ, rồi quẩy gánh thủng thẳng đi tới chỗ lính tập đang đóng để bán hàng. Ai lạ gì mấy thầy quyền, phần nhiều là hạng ham ăn ham sắc. Nay thấy có cả “sắc” cả “ăn” đến bên mình, thì mấy thầy khoái "chí tử". Thịt mỡ đem tới miệng mèo, bao giờ nó chê! Cô Tám lại khéo làm bộ trai lơ tình tứ hết hồn, nụ cười tiếng nói rất là có duyên; cả toán lính xúm lại bu quanh cái gánh của cô, mua rượu, mua bánh tíu tít. Cậu nào thả giọng chàng nàng, ve vãn, cô cũng niềm nở chiều đãi như cách đã trao xương gửi thịt cho nhau từ bao giờ rồi vậy. Đến đỗi các cậu mua chác, ai có sẵn tiền thì trả, ai khô xu cạn túi cô cũng bán chịu thả cửa, nói rằng: "Thầy cứ dùng món gì tuỳ ý, mai mốt lãnh lương rồi trả cho em một lần cũng được. Em có phải xem của trọng hơn người đâu". Mấy tiếng nói đó làm cho thầy quyền nào cũng gần chết mệt. Qua bữa sau, cô Tám lại gánh rượu thịt tới, bọn lính hết sức vui mừng, xúm lại mua nem rượu vừa đánh chén, vừa nói chơi, men sắc và men rượu nhập lại, làm cho các cậu say mèm. Cô hàng lại càng chịu khó hầu hạ chiều chuộng, thêm vẻ thân mật hơn ngày hôm trước. Họ đinh ninh bảo cô ta làm sao ngày mai mua được thịt dê và rượu lậu cho ngon, đem tới đây anh em uống một bữa cho thiệt khoái chí.
Quả nhiên hôm sau cô Tám gánh tới một gánh thịt dê nấu nướng đủ kiểu, đủ mùi và một vò rượu thiệt ngon. Các thầy quyền ta mừng quá, luôn miệng khen cả cô ả này ngoan nết dễ thương. Rồi họ ngồi lết trên bãi cỏ, cứ năm bảy người làm một tốp, cô Tám dọn một mâm thịt dê, một chai rượu bố. Muốn ngồi đánh chén cho khoan khoái thong thả, từ ông quản cho đến các thầy quyền đều tháo hết giây nịt, túi đạn, bay-don-nết, và gác súng đạn lại một nơi ở trên thềm miễu thổ thần. Vậy rồi họ ngồi rung đùi uống rượu nhắm với thịt dê, chén chú chén anh, vui vẻ, đắc chí. Lúc ấy ông trời họ cũng coi như thằng trẻ con.
Cô Tám day trở hầu hạ chuyên mời, hết sức chu đáo xem chừng cậu nào thật là bợm rượu thì cô khiêu khích cho cậu càng uống già, còn cậu nào nghe chừng không uống được mấy, thì cô lại làm cách khuyên lơn âu yếm cho cậu phải vui lòng nhắm mắt mà uống vì cô. Lạ gì trong rượu có pha thuốc mê, dầu uống nhiều ít gì cũng mau say lắm. Chốc lát, cả đám lính đều say nhừ tử, cặp mắt cậu nào cũng lờ đờ như sắp chết. Cô Tám biết thời cơ đã đến nơi rồi càng ra sức hầu hạ, nào quạt, nào rót nước, nào nâng đỡ, cô không ngần ngại một chút nào. Giữa lúc đó ở trước cửa miễu, xôn xao đông người tụ lại. Ấy là dân làng sở tại, thấy lính ăn uống vui vẻ chọc ghẹo cô hàng, thì họ cho là sự lạ, kéo nhau lại đứng ngó trân và cười thầm. Ai không biết thói tục xứ mình, hơi có động rạng khác thường chút xíu, tức thời có người bu lại đông đầy. Hai chục người tráng sĩ ở Ngàn Trươi sai xuống, giả làm lái buôn và dân cày, lúc ấy cũng trà trộn vào trong bọn dân làng, trong mình mỗi người đều có giắt đoản đao sắc lẻm. Họ chỉ đợi chờ có ám hiệu là xông vào ra tay. Toán lính đang say mèm, không chú ý gì đến sự người ta xôn xao đông đảo, lần hồi các cậu nằm lăn ra trên cỏ mà ngủ, trông như một đống tử thi.
Bấy giờ, cô Tám liền tới vỗ về và quạt mát cho viên quản ngủ thiệt say, một lát cô lén móc được khẩu súng lục của va, rồi chạy ra đứng ngay chỗ chất súng đạn kia, đưa mắt ra hiệu cho bọn phục binh bảo họ ra tay. Tức thời, 20 tráng sĩ xen lộn trong đám dân làng và trẻ con, rút đoản đao nhảy ùa vào hô hoán vang dậy: "Trói cả chúng nói lại anh em!" Bọn lính đang mơ màng, bỗng nghe la giết mình, hốt hoảng vùng dậy, nhưng mà nhiều anh dậy không nổi. Anh nào đứng dậy được thì ngó thấy con mẹ bán quà cho mình ăn, đưa súng bảo im không thì bắn chết, thành ra không cậu nào dám hó hé, vả lại hồi này cũng không cậu nào còn sức chống cự gì được.
Tráng sĩ Ngàn Trươi trói cả mấy chục cậu lính vào một đống ngồi chồm hổm với nhau, trơ mắt vừa ngó vừa run. Cô Tám truyền lệnh cho anh em tráng sĩ chia nhau khiêng vác hết thảy súng đạn và khí cụ của toán lính đem lên sơn trại. Ngó mặt bọn lính, cô Tám vừa cười vừa nói cay chua: - Luôn ba bữa nay, em đem thân chiều chuộng các ông; chỉ cốt mượn đỡ mấy chục khẩu súng của các ông cho nghĩa binh dùng đó thôi. Còn thân các ông bây giờ, thôi em rộng lượng tha cho sống sót mà về với vợ con. Cô Tám nói đoạn rồi đi như bay. Bọn lính ngó theo hình như bể gan ói mật, nhưng không biết làm thế nào, khỏi chết là may lắm rồi. Cô Tám về đại đồn nạp súng đạn, và bẩm rõ đầu đuôi công việc, bởi toán lính tập là đồng bào nên cô suy nghĩ không nên sát hại hay là bắt họ về làm chi. Nghe chuyện, cụ Phan cũng phải tức cười, và khen ngợi cô Tám: - Ai ngờ nhi nữ mà mưu mô đảm lược đến như thế sao?
Bữa sau, cụ Phan truyền mời cô Tám lên nghị sự đường để bàn tính một việc binh cơ quan hệ. Cụ nói: - Nghĩa quân hiện nay có một việc thật là khó khăn, nếu cô sẵn lòng giúp đỡ cho được thì hay lắm: việc qua Xiêm mua thuốc đạn. Việc này bấy lâu nghĩa quân vẫn đặt riêng mấy người tâm phúc ở luôn bên Xiêm, để chuyên về việc mua vật liệu thuốc đạn, rồi đã có người khác đem về. Song chỉ ngặt vì một nỗi đường sá hiểm trở quá, đàn ông đi lại, thường không thuận tiện bằng đàn bà, nếu đàn bà giả làm người buôn bán mà đi, thì giữa đường không có ngờ vực xét hỏi. Có điều là công việc khó nhọc vất vả lắm, chẳng biết cô có đương nổi được hay không?
- Cụ muốn bảo tôi chết, tôi cũng dám chết ngay được liền bây giờ, sự khó nhọc vất vả có sá kể chi, thưa cụ.
- Vậy thì nghĩa quân uỷ thác việc ấy cho cô, cô nên vì việc nước hết sức nghe. - Dạ, đến chết thì thôi! Từ đó nghĩa quân không thiếu thuốc đạn, trước kia chế đạn bằng bốn phần thuốc ta, một phần thuốc tây, bây giờ có thể dùng quá phân nửa là thuốc ngoài đem về. Ấy là nhờ có người bên Xiêm trù biện giúp cho. Và nhờ có người đàn bà là cô Tám giả làm khách buôn bán, mạo hiểm chuyên chở về được đến nơi đến chốn.
Khi cô Tám sang Xiêm lần đầu, cô dắt cả đứa con của Lê Doãn đi theo, nhưng cô để nó ở lại bên Xiêm, gửi người ta nuôi giùm cho khỏi bận rộn trở ngăn công việc. Cô đi đi về về, chuyên chở thuốc đạn được bốn năm chuyến; mỗi chuyến được năm bảy ngàn cân, chứ không phải ít. Vì cô khéo xếp đặt thuê mướn mấy chục thổ nhân, gánh vác lần hồi từng chặng, giả như là chuyên chở hàng hoá theo cách đi đường rừng vậy.
Đến đây, chúng tôi tưởng nên nói ngay để kết thúc cái lịch sử của người đàn bà vô danh anh hùng này, kẻo sau không có dịp nói đến nữa. Cô đi lại chuyên chở thuốc đạn giúp nghĩa binh được mấy chuyến như thế rồi thôi, sau đó chẳng ai thấy tung tích cô Tám đâu hết. Có người đoán rằng vì nỗi đi đường khó nhọc quá mà cảm nhiễm phong sương, cô Tám sinh bệnh rồi chết ở giữa rừng, giữa núi nào đó không chừng. Có người khác nói, tới sau cô Tám thấy nghĩa binh thất bại, cho nên ở luôn bên Xiêm, không về. Sự thật, chung cuộc của cô Tám ra sao, hình như không một ai biết rõ. Con Thần long (rồng thiêng) hiện ra, thì thấy đầu chứ không thấy đuôi, tiếc thay!