Lúc bấy giờ, mỗi ngày nào có phiên chợ Tràng (là chợ ở giữa tỉnh Nghệ), người ta thấy một chiếc thuyền con của một người đàn bà và một đứa con trai nhỏ, từ đâu không biết, chở than lên chợ bán.
Người đàn bà này, tầm thước nhỏ thấp, da ngăm ngăm đen, nhưng không vì thế mà che mất hẳn cái vẻ sáng láng hồng hào. Cái vẻ ấy hình như là bị nhiều mưa nắng gió bụi làm mờ đi, chớ nguyên trước hẳn là đẹp lắm. Trạc độ 27 hay 28 tuổi, nét mặt coi rắn rỏi, mà lúc nào cũng có vẻ buồn rầu. Đôi lúc không ngờ, người ta trông thấy chau mày lại, thì biết là người này chắc có việc ức uất gì ở trong tâm hồn nhiều lắm. Còn đứa trẻ thì mới có 7 tuổi coi ngộ nghĩnh lanh lẹ, ai thấy cũng đoán chắc là con nhà thế này thế kia, không phải người thường.
Người ấy là ai? Đứa trẻ ấy là thế nào, ở đâu? Tuyệt nhiên không có ai biết, vì người ấy không nói gốc tích và tâm sự mình với ai, nhưng mà những bạn mua bán quen thuộc ở trong chợ chỉ gọi là cô Tám, thành ra ai cũng biết tên cô là thế mà thôi; vả lại thấy cô chuyên về nghề bán than, thì họ đoán chừng cô hẳn là người ở miệt rừng núi. Họ đoán chừng vậy, nào đã chắc là phải chưa?
Cô Tám bán than có tính rất điềm đạm, ít nói ít cười, chỉ ngồi lầm lầm suốt ngày, thỉnh thoảng chơi giỡn hôn hít đứa trẻ. Duy lúc nào có khách đến hỏi mua than, thì người ta mới thấy cô được nguyên cả mặt, không thì suốt ngày cô ngồi cúi mặt xuống, hình như có dáng nghĩ ngợi những việc gì khó khăn lắm. Những người ngồi bán hàng ở bên cạnh, cả một phiên chợ thường chỉ nói chuyện được với cô một đôi câu, cho nên ai cũng cho là người kiêu ngạo. Nhưng tới khi nào cô hỏi ai một điều gì, thì lại tỏ ra người hết sức từ tốn, mềm mỏng, lời nói ngon ngọt, tiếng nói dễ ưa, thành ra những người biết cô, ai cũng đem lòng quý mến.
Cái thói đàn bà đi chợ búa của ta, thường xúm lại “ngồi lê đôi mách” với nhau, ai còn lại gì. Thôi thì chuyện chồng, chuyện con, việc nhà, việc cửa, họ khéo kể lể con cà con kê, không sót một điều gì. Nhưng cô Tám lại khác hẳn. Ai hỏi đến chồng, cô cười; nghĩa là tỏ ý rằng đã có mà cũng chưa. Ai hỏi đến đứa trẻ là thế nào của cô, cô cũng cười: cười một cách khó nói lắm. Ai hỏi đến chỗ ở, cô cũng cười nữa; cười có ý không muốn cho ai biết mình ở chỗ nào. Thành ra, các bạn buôn bán quen thuộc với nhau, chỉ thấy cô hiền lành tử tế thì quý mến, đứa con trẻ kia khôn ngoan xinh xắn thì yêu thương; không ai biết người đàn bà ấy với đứa con trẻ ấy họ tên gốc tích ra thế nào.
Một người đàn bà như cô Tám thật lạ lùng khó hiểu. Tính cô ít cười, biếng nói, rất đỗi buôn bán đi về trong chợ, với những người ngồi liền bên cạnh, tối ngày cô cũng không chuyện vãn lấy ba câu; nhưng chỉ có một hạng người ở đâu tới bên cô thì người ta thấy cô bắt chuyện tức thời, mà lại bắt chuyện một cách tỏ ra niềm nở thân mật lắm.
Hạng người ấy là lính tập.
Trên kia đã nói lính tập nhờ sự huấn luyện của binh gia Pháp mà trở nên hạng lính can đảm thiện chiến và có công lao trận mạc với Bảo hộ ra thế nào. Về mặt quân sự, họ đành là lính giỏi, nhưng về mặt đức tín, họ vẫn như người ta. Tự nhiên có kẻ nên hư, lành dữ phân biệt nhau. Có những lính tập hiền lành, tử tế, đứng đắn, biết điều đáo để, song cũng có những lính tập tính khí kỳ cục, sỗ sàng hay ỷ mình cậy thế mà làm nhiều cử chỉ ngang tàng, ức hiếp người đồng loại quê mùa hèn yếu. Sự đó, những lúc Bảo hộ mới định ban đầu, xảy ra rất thường, cho nên người mình ba bốn chục năm trước đối với lính tập, phần nhiều không có cảm tình, không có hảo ý. Họ kiêng sợ, nhưng mà họ tránh xa và ghét ngầm. Đến đỗi ai chơi với lính, họ kể ngay vào hạng người ăn chơi điếm đàng hung dữ, nhất là đàn bà con gái mà quen biết chuyện trò với lính tập, đều là bị xã hội kể cho là hạng trắc nết, hư thân. Họ vơ đũa cả nắm như thế, không chịu xét giùm bực người nào trong xã hội cũng có kẻ này người khác.
Cô Tám là người hiền lành, đứng đắn, thủa nay chị em mua bán quen biết trong chợ vẫn có lòng quý mến kính trọng cô; bây giờ ngó thấy cô quen biết chuyện trò với lính tập, thì họ trầm trồ chỉ trỏ và bàn riêng nói lén với nhau:
- Quái lạ! Con người như rứa mà tầm bậy hè!
- Làm bộ nghiêm trang không hay nói cười trò chuyện với chị em mình, để với mấy ông du côn đó thì vồn vã, làm quen. Chị nghĩ coi ở đời tin người bề ngoài, lầm chết phải không?
Nhiều bữa, phiên chợ tan rồi, người ta bắt gặp cô Tám mua rượu nem, quý bánh đem xuống ghe và dẫn mấy chú lính tập xuống ăn uống say sưa, rồi ngồi chuyện vãn lâu lắm, mới thấy mấy chú ngất ngưởng đi lên, người ta càng dị nghị gắt:
- Nào có ai ngờ!
Hôm sau, có chị xỏ xiên theo kiểu hàng tôm, hàng cá, gặp mặt cô Tám thì chào hỏi: "Tôi chào cô cai", hay là "Tôi chào thím quyền". Tiếng "quyền" ở miền Bắc vẫn thông dụng để chỉ vào lính tập.
Kẻ cười người chê, bèn riêng nói lén ra sao, cô Tám biết hết. Nhưng cô vẫn tự nhiên, điềm tĩnh như không, hình như chẳng coi sự dị nghị của thiên hạ ra gì. Nay chú lính này, mai chú lính khác, cô vẫn nói cười tiếp đãi họ như thường. Có lúc tiếng cô nói to người ta còn nghe lóng được đôi chút, cô lúc cô thì thầm nói nhỏ với lính, chẳng ai nghe được tiếng nào, người ta càng nghi.
Nghi thì nghi, người ta đều phải sửng sốt lạ lùng với nhau là cô Tám chuyện vãn ân cần với lính tập thế nọ, mời lính xuống ghe đãi đằng trà rượu thế kia, nhưng tuyệt nhiên không thấy cô ta có vẻ lả lơi một chút nào, vì họ vẫn rình mò dò xét cô ta mãi.
Thế cho nên thỉ chung ngoài mặt người ta không hề dám khinh cô Tám. Huống chi bọn buôn bán các nơi, cứ đến phiên chợ cũng đi đò về một ngã sông, thấy bao giờ cô Tám cũng cùng với đứa trẻ con đi, rồi lại cùng với đứa trẻ con về, ngoài ra không hề có tung tích gì, khiến cho người ta có thể ngờ vực chê cười được. Thuyền của họ thường gặp thuyền của cô Tám vào hồi gần sáng ở làng Triều Khẩu; không cần phải hỏi, cứ nghe giọng cô Tám vừa chèo thuyền vừa hát, tự nhiên họ biết:
Đôi ta cùng nợ nước non,
Chàng đà trả sạch, thiếp còn long đong.
Bao giờ sông lặng nước trong,
Bỏ người chèo lái đêm đông nhọc nhằn.
Rồi cô lại hát tiếp câu khác:
Đi đâu lật đật hỡi ai?
Mũi tên hòn đạn cho người này theo.
Lênh đênh mặt nước một chèo,
Non sông gánh nặng vẫn đeo bên mình.
Đêm khuya, trời lặng, sông rộng, đồng xa, mà nghe tiếng cô hát những câu như thế với cái giọng rất não nùng ai oán, réo dắt thê lương, dù ai cũng phải rung động trong tâm hồn và đoán chừng cô là người có tâm sự gì đau đớn lắm vậy.
Trông người cô Tám nhỏ nhắn, ẻo lả bề ngoài, hình như một cơn gió thổi cũng xiêu, thế mà cô có sức rất mạnh không ai dám ngờ. Những đứa du côn vô loại, thấy cô hay nói chuyện với lính tập ở trong chợ như thế, tưởng đâu là con người lẳng lơ, thành ra chúng bạo dạn, cũng dở thói trăng hoa đàng điếm ra, nói chơi nói ghẹo. Ban đầu cô làm thinh không thèm nói gì, chúng thấy vậy càng được trớn làm già, khiến cho cô không nhịn nhục được, phải dùng đến võ lực, đánh cho mấy đứa chạy nhào. Sau chúng kéo nhau đến mấy chục đứa tới trả thù, toan đổ gánh than và đánh cô một trận tơi bời để rửa thể diện anh chị. Nhưng chúng là đàn dê. Vô phước gặp nhằm con cọp cái, có vút nhọn nanh dài. Muốn dạy chúng một bài học, cô Tám lúc nào yểu điệu hiền lành, bây giờ đứng phắt dậy, trừng mắt tròn xí, lông mày đảo ngược, xắn gọn gàng tay áo lên, thách đố cả bọn du côn ra chỗ rộng rãi, dám đánh nhau với một mình cô thử coi. Người ta thấy cô Tám múa chân múa tay, đông xông tây đột, đánh võ với cả bọn du côn bao vây dữ tợn, thế mà đứa thì lỗ đầu, đứa thì chạy trốn, đứa thì té nhào, duy cô đã không bị một vết tích gì, lại sau khi bãi trận, thần sắc coi tự nhiên như không. Người trong chợ kéo nhau đi xem trận “nhất nữ chiến quần nam” thiếu gì; họ reo cười khen ngợi không ngớt:
- Không ngờ cô hàng than giỏi võ...
Thấy cô Tám hiền lành tử tế, ai cũng mến ưa, cho là người đứng đắn; chừng thấy cô hay quen biết đàm đạo với lính tập thì lại cho là người tầm bậy; đến lúc nghe cô hát mấy câu ai oán lạnh lùng kia, thì ai cũng cho là người có tâm sự chi ức uất; tới bây giờ thấy cô sức đánh mấy chục người đều té nhào, thì cho là nhi nữ anh hùng. Dư luận đối với cô có vậy mà thôi, còn như quê quán, nhà cửa, chồng con và thân thế cô ta ra thế nào, thì vẫn như trên kia đã nói, người ta dò la dọ hỏi đáo để, mà không biết cứ là không biết!
Phiên chợ nào cũng như phiên chợ nấy, trong hai năm trời, hễ sáng sớm phiên chợ là thấy cô Tám chèo thuyền đến, chiều hôm tan chợ cô lại chèo thuyền về; chẳng hề có một phiên chợ cô Tám vắng mặt.
Bỗng dưng đến đầu năm Kỷ Sửu (1889) trở đi, ở chợ Tràng người ta không thấy cô Tám bán than đến họp chợ nữa. Ban đầu còn có người suy nghĩ: hay là cô Tám về nhà quê ăn Tết chưa ra đi chợ buôn bán; nhưng về sau phiên chợ nào cũng không thấy cô, bấy giờ họ bảo nhau:
- Thôi chắc cô ả đi theo chú quyền, thầy cai nào rồi.
Có người đã thấy cô ta giỏi võ, thì đoán cao hơn một chút:
- Hay là con ấy đi ăn cướp!
Không phải vậy. Nhưng mà cũng chưa biết chừng.
Hồi đó, là giữa năm canh dần (1890).
Cụ Phan Đình Phùng đã chiếm cứ xưng hùng ở trên Ngàn Trươi được ba bốn năm, có tiếng là "Sơn trung Tể tướng". Quân lính Bảo hộ vẫn tím cách tuần tiễu hoài, nhưng không dám thâm nhập tới trọng địa, một là vì nghĩa quân thanh thế khá to, quân lính nhà nước day trở đối phó không kịp, hai là đường lối tấn lên Ngàn Trươi phải trải qua nhiều rừng núi hiểm trở khuất khúc lạ thường, e sợ phục binh đánh úp rất nguy. Vả lại có lắm khu rừng nếu muốn băng qua, phải làm sao có đủ sức chịu đựng hay là đánh nhau với đỉa, với rắn, với muỗi mòng trước, rồi hãy nói chuyện đánh với nghĩa binh sau.
Thật vậy, có một khu rừng hiểm nhất, là vì đất sình lầy, lội phải lụt cẳng, có chỗ ngập tới ngang lưng, mà đỉa sao đầy dẫy hơn dòi, con nào con nấy lớn như ngón cẳng, như cổ tay, nó bu lại hút máu một lát, người mạnh đến đâu cũng phải chết xỉu. Các quan binh Pháp đặt tên là "La forêt des Sangsues", khuyên nhau nên coi chừng rừng đỉa mà tránh.
Nhờ có hiểm địa tự nhiên và đạo binh côn trùng muôn muôn ức ức đó, cụ Phan thêm mạnh thanh thế và có thể đối chiến được, cố thủ được lâu ngày.
Tuy là đại đồn Ngàn Trươi không bị xâm phạm, nhưng các quân thứ hộ vệ chung quanh thì nghĩa vẫn thường có nhiều dịp đụng đầu chạm trán với quân binh luôn luôn. Nghĩa binh khéo dùng lối mai phục đoản công như kiểu người Abitxini, gọi là guérilla, đối chiến với Ý, thành ra bắt buộc lính tráng Bảo hộ phải ứng chiến nhọc sức tốn công, mà nghĩa binh thường vẫn thắng nhiều bại ít.
Hai bên cầm cự nhau luôn sáu bảy năm như thế. Trong khoảng ấy, có một lúc Bảo hộ lại tính dùng tới đại binh, nhưng sau e ngại tốn kém nhiều và náo động dư luận bên thượng quốc nên lại thôi.
Lúc này, muốn cho phong trào thêm lớn, thực lực thêm to, cụ Phan thảo một tờ hịch truyền đi các nơi, để khích động nhân tâm, chiêu tập hào kiệt. Tôi nhớ trong bài hịch, có đoạn như vầy:
- Phùng tôi là người học ít tài hèn, gánh vác công việc lớn lao này, sáu bảy năm trời, chưa có làm nên được việc chi rực rỡ. Chẳng qua chận trước vấp sau, lui tới chỉ những rừng núi, thật bấy lâu nay xót dạ đau lòng, không biết lo tính làm sao được. Các ông có chí lớn tài to, nếu không muốn đem ra cho nước nhà dùng đi nữa, thì cũng nên đem mưu lạ chước hay ra dạy bảo cho tôi để cứu lấy sinh dân, thì Phùng xin nhả cơm bới tóc (ông Chu Công nước Tàu, làm tướng nhà Chu, hễ có ai đến, ông đang ăn cơm thì nhả miếng cơm ra, đang gội đầu thì bới tóc lên, để ra đón khách, tỏ ý kính trọng những người hiền năng vậy), sẵn lòng nghe theo. Như thế thì tuy các ông ở chốn thảo dã, mà cũng có cái công báo nước giúp đời, vậy đừng coi việc đó làm thường, nỡ ngồi làm thinh để ngó non nước đổi dời, mà chẳng ra tay cứu vớt.
Tờ hịch truyền ra, bọn sĩ phu Trung Việt càng lấy làm cổ võ, tranh nhau giúp đỡ cho cụ hoặc mưu lược, hoặc quân lương, hoặc dò xét biết quân Pháp cử động thế nào, đều cho người lên mật báo để cụ biết trước mà đề phòng. Kể cái thanh thế của cụ tới lúc này đã to lớn và vững vàng ít nhiều, duy có một việc hơi khó lòng, là việc mua thuốc đạn ở bên Xiêm, vì đường sá qua Lào nhiều nỗi trở ngăn, cho nên những người có chức trách trù biện việc này, đi lại rất là khó nhọc, mà lại không mua được nhiều. Phần nào bị Bảo hộ ngăn đường, thành ra súng đạn của nghĩa quân vận tải về thường bị mất luôn. Ấy là một việc cụ Phan lấy làm lo ngại.