watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
03:48:0630/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Giai Thoại Làng Nho
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Tất cả các trang
Trang 10 trong tổng số 15

Chương - 15 - ÔNG ÍCH KHIÊM.

Người làng Phong Lệ, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Vốn dòng dõi người cao nguyên, trước họ Ong đến đầu đời Tự Đức thi đỗ cử nhân, vua cho đổi thành họ Ông, về sau thường gọi là ông Tiễu, vì ông làm chức Tiễu phủ sứ.
Khi làm tri huyện ở Huế, Pháp tấn công chiếm được kinh thành, ông bị cách chức tước, phải đi tiền quân hiệu lực. Ông ngày thường hay nghiên cứu binh thư, có mưu lược lại thêm võ dõng, nên đánh giặc nhiều trận thắng. Sau được khai phục, thăng lần lần lên đến chức Tiễu phủ sứ. Sử chép đã nhiều về ông, nay xin dẫn lại vài chuyện nhỏ.
Ông ra trận không cần dùng nhiều quân, chỉ trọng mưu lược và dũng cảm. Lúc đánh giặc Tàu Ngô Côn, ông bày trận: sớm quay lưng về hướng đông, chiều quay lưng về hướng tây. Thời ấy đánh nhau bằng giáo mác, quân Tàu phần nhiều thức khuya hút thuốc phiện. Sáng dậy, mắt nhắm mắt mở nên hay bị quáng nắng, binh ông nhân đó thừa thế đánh tràn. Trận ấy Ngô Côn thua bỏ lại cả ngàn xác chết.
Khi tỉnh thành Thái Nguyên bị vây, Trung quân đô thống Đoàn Thọ đưa quân lên cứu, bị tử trận. Vua Tự Đức sai ông đi tiếp ứng. Ông ra gần đến nơi, đóng một chỗ, cách xa trại giặc rồi cho làm lễ tế cờ cầu thắng trận.
Có mười đạo quân, ông ra lệnh mỗi đạo phải dùng 10 đồng tiền ( cộng 100 đồng ), mặt trên bôi vôi trắng, mặt dưới hơ đen để làm tiền bói âm dương. Đêm ấy lập đàn tế, các tướng cao cấp đều vào thị lễ. Khi sắp tế, ông đến trước đàn khấn to cho mọi người nghe thấy:
- Nếu thần minh phù hộ, thì xin cho trăm đồng tiền sấp cả hay ngửa cả. Chứ trong 100 đồng tiền này, 99 đồng sấp 1 đồng ngửa, hay 99 đồng ngửa mà 1 đồng sấp, thì bản chức đành đóng quân lại để tìm kế rút lui.
Rồi ông tung 100 đồng tiền lên mặt mâm thau, tướng sĩ trông thấy sấp đen xì cả, đều reo hò mừng rỡ. Có hay đâu, ông đã ngầm thay 100 đồng tiền khác, hai mặt đều tô đen cả.
Ông lễ tạ, rồi thu tiền đem cất và tuyên bố:
- Thế này đủ biết lòng trời còn tựa xã tắc, tướng sĩ phải hết sức đánh giặc, thế nào cũng thắng.
Quân sĩ tin có trời giúp, nên khi ra trận đều nức lòng công phá rất hăng hái. Quả nhiên tỉnh thành được khôi phục ngay.
Dẹp giặc xong ông được thăng Tham tri. Bấy giờ là cuối đời Tự Đức, việc giao thiệp giữa ta và Pháp đương khó khăn, vua lại cử ông ra bắc mưu đồ việc chống Pháp. Ra bắc, vừa gặp lúc nhà Thanh cho Phùng tử Tài, Từ duyên Húc, và quân cờ đen Lưu vĩnh Phúc sang đóng rải rác ở các tỉnh thượng du. Quân Tàu ỷ thế áp bức dân ta rất tàn ác, việc cung ứng lương thực cho họ rất phiền phí, dân chúng ca oán. Ông cho việc mượn binh Tàu sang đánh Pháp là thất sách, nên có làm bài thơ.

Áo chúa cơm vua đã bấy lâu.
Đến khi có giặc phải thuê Tàu.
Từng phen võng giá mau chân nhảy.
Đến bước chông gai thấy mặt đâu?
Tiền bạc quyên hoài dân xác mướp.
Trâu dê ngày hiến đứa răng bầu.
Ai ôi hãy chống trời Nam lại.
Kẻo nữa dân ta phải cạo đầu ….

Phải cạo đầu….theo tục và theo lệnh nhà Mãn Thanh.
Ông ở bắc cho đến khi hoà ước Việt Pháp đã ký xong lại về kinh cung chức. Bấy giờ vua Tự Đức đã mất, triều chính rối loạn, vua kế vị còn nhỏ, Tường Thuyết chuyên quyền, văn thần võ tướng chỉ là một lũ cầu an không ai lo đến việc nước. Ông bực dọc bèn đặt ra một tiệc mời khắp mặt đại thần tới dự. Các món ăn đều làm bằng thịt chó.
Lúc vào tiệc, nhiều người không ăn được thịt chó, ngập ngừng hỏi món ăn khác, thì ông trả lời:
- Bẩm, bữa cơm hôm nay toàn chó cả thôi.
Cơm xong, các quan gọi nước, mãi không thấy người nhà đưa lên – vì ông đã dặn trước đừng đưa – ai nấy đều khô cổ vì rượu. Một lúc sau, người nhà lên ông mắng ầm:
- Lũ chúng bay chỉ biết đứa lớn đứa nhỏ ngồi ăn hại, còn thì không biết việc nước là gì cả.
Các quan đều tím mặt.
Vì ông tính khí khẳng khái không luồn lụy quan trên, vả lại phật ý với Tôn thất Thuyết và Nguyễn văn Tường, nên bị bắt bỏ ngục. Khi ở trong ngục ông có ngâm hai câu:

Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết.
Tứ nguyệt tam vương thậm bất tường.
- Sông Hương chia hai dòng nước, thì khó nói chuyện: một bên trong một bên đục. Nhưng ngụ ý bên kia toà khâm người Pháp đóng, bên này thành thuộc về Nam triều.
- Trong 4 tháng mà thay đổi 3 vua ( Dục Đức, Hiệp Hoà, Phúc Kiến ) là điều không hay.

Nhưng dụng ý hai chữ câu cuối, một bên chữ Thuyết, một bên chữ Tường, ám chỉ Tôn thất Thuyết và Nguyễn văn Tường.
Sau ông bị đưa đi an trí ở Bình Thuận và mất ở đấy.

Chương - 16 - PHẠM ỨNG THUẦN.

Bút hiệu Hiếu Khanh, tục gọi là Cả Thuần sinh năm 1885 tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông học rất thông tuệ, tính lại ngay thẳng không chịu hợp tác với chính quyền Pháp, chỉ ưa sống đời thanh bạch, không cầu xin gì, không phiền lụy ai.
Ông sở trường về thi ca Quốc văn, nhất là về thể loại phúng thích: vì loại này có tính cách đụng chạm đến người đương thời, nên ít khi được ghi trên giấy để tránh những tai vạ về khẩu nghiệp. Thành ra chỉ có ít bài có dính dáng đến những nhân vật tiếng tăm hay tai tiếng, được truyền tụng trong nhân gian, do đó mới còn lại đến ngày nay.

Ở Nam Định có một cô me Tây gá nghĩa cùng viên Công sứ Pháp, nhân có giúp công vào việc chẩn tế nạn lụt năm Bính Ngọ ( 1906 ), nên được công sứ tư thưởng kim tiền. Khi Công sứ về Pháp, cô ở lại trong cảnh cô liêu, vốn có tính đồng bóng, nên lập điện ở chùa Phù Long để sớm khuya hầu thánh cho giải sầu.
Hiếu Khanh diễu bằng một bài Đường luật ( bài này nhiều người lầm là của Tú Xương, xong Tú Xương tạ thế năm Bính Ngọ, mà việc lập điện trên đây thực hiện vào mấy năm sau )

Rứt cái mề đay ném xuống sông.
Thôi thôi, tôi cũng méc xì ông!
Âu đành chùa đó, âu thành Phật.
Cũng chẳng con chi cũng chẳng chồng.
Chớ thấy câu kinh mà mặc kệ.
Nào ngờ chữ sắc hóa ra không.
Tôi đây cũng muốn như cô nhỉ.
Trót nợ trần hoàn gỡ chửa xong.

Về câu chuyện họ Từ khắc thơ và đục chân vào núi, bài thơ mà nhiều người lầm là của Tản Đà, cũng do Hiếu Khanh khẩu chiếm, và Tản Đà thuật lại trong An Nam tạp chí.

Năm ngoái ông lên đục bốn vần.
Năm nay ông lại đục hai chân.
Khen cho đá cũng bền gan thật.
Chịu mãi cho ông đục mấy lần.

Khi thấy chính quyền mở ra lớp dạy quốc ngữ, và thêm vào chương trình thi hương môn học quốc văn, Tú Xương đã có thơ đả kích.

Nghe nói khoa sau sắp đổi thi.
Những thầy đồ cổ đỗ mau đi.
Nếu không bia đá còn bia miệng.
Vứt bút lông đi giắt bút chì.

Hiếu Khanh cũng cùng quan niệm, cho rằng cái bọn vứt bút lông giắt bút chì, là xu thời đáng bỉ, nên làm một bài phú.

Thầy đồ học quốc ngữ để đi thi.

Này cu-a-cua, này ô-c-ốc.
Vác lều vào trường; cắp sách đi học.
Văn chương mạt kiếp, thằng bé hết hơi.
Âu Á chuyện đời bác đồ tịt ngóc.
Thầy khóa khom lưng kiếm gạo, mặt tầy lệch, cổ tầy cong.
Ông Tây đá đít lấy tiền, câm như hến, nín như thóc.
Nguyên phù thầy chi vi thầy dã.
Nghênh nghênh ngang ngang, dở dở dang dang.
Râu ria một nạm, văn sách ba trường.
Thầy chi mặt hề nhẵn hàng thịt;
Thầy chi văn hề viết sát xương.
Thi thì một hỏng, một vào: o-a-c-h oách.
Tính lại nửa gàn, nửa dở: ư-ơ-n-g ương.
Ư thị hồ:
Thầy nằm thầy kêu, thầy ngồi thày gõ.
Nách cắp vở đồ; tay xách cái lọ.
Học trò kia kìa, quan trường đó nọ.
Thằng vào, thằng ra; văn dễ, văn khó.
Thằng thì kêu trời; thằng thì chửi chó.
Hỏi rằng xong chửa? l-a-m lam huyền làm.
Hỏi rằng nhục không? c-o sắc có.
Hỏi rằng giám trường là ai?  Thưa rằng viên công sứ Đạc ( Darles )
Hỏi rằng quan trường là ai? Thưa rằng mấy ông trạ gạc.
Thôi thì:
Cũng chẳng đi học; cũng chẳng đi thi.
Thi cũng không đỗ; đỗ cũng không đi.
Túy lúy càn khôn hề rượu thầy đánh tì tì.
Khoan hoài vũ trụ hề mồm thầy cười khì khì.
…………

Thôi tôi lạy thầy trăm lạy, thầy xếp bút nghiên, lều chõng, thầy đi về.

HOMECHAT
1 | 1 | 138
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com