watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
03:48:1030/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Giai Thoại Làng Nho
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 15

Chương - 13 - NGUYỄN THƯỢNG HIỀN.

Nghè Liên Bạt.

Biệt hiệu Mai Sơn, người làng Liên Bạt tỉnh Hà Đông, sinh năm 1867, con của Nguyễn thượng Phiên.
Nguyễn thượng Hiền văn chương lỗi lạc, nổi tiếng tài hoa. Khoa thi hương Giáp Thân đời Kiến Phúc ( 1884 ), 17 tuổi đỗ cử nhân, thủ khoa là Vũ phạm Hàm.
Nguyễn tuy quán ở Hà Đông, nhưng gia đình lại lập nghiệp riêng ở vùng quê Thanh Hoá. Có lần phải lên tỉnh mướn nhà để tị nạn hơn một năm, ông thấy đời sống thành thị nhộn nhịp không hợp với tính hiếu tĩnh, nên cảm khái làm bài thơ:

Hơn một năm nay vẫn ở thuê.
Mới hay thành thị khác nhà quê.
Ăn tiêu củi nước coi mà tốn.
Dáo dở lòng người nghĩ cũng ghê.
Xe ngựa kéo quanh trò lục sở.
Khố khăn đổ lộn đám ba que.
Đất này rộn rã lâu sao được.
Cũng tính nay mai sắp dọn về.

Khi đỗ cử nhân rồi, có ý chán đời, không thiết công danh phú quý, bỏ nhà vào núi học đạo. Sau vì anh ông mất sớm, gia đình cho tìm về bắt lấy vợ, ông đành về, kết duyên với con gái của Tôn thất Thuyết.
Năm Ất Dậu ( Hàm Nghi 1885 ), đi thi hội, đã trúng cách, chưa kịp truyền loa thì kinh thành thất thủ, ông phải bỏ về. Đến khoa Nhâm Thìn ( Thành Thái 1892 ), ông lại vào thi hội, nhưng không phải thi chỉ vào kỳ đình đối.
Khi truyền loa, ông đỗ Hoàng giáp. Vũ phạm Hàm đỗ tam nguyên thám hoa.
Được bổ đốc học Ninh Bình, ông ưa tiêu dao sơn thủy, có câu đối dán ở thư phòng để tỏ ý mình.

Bích vân phương thảo, cung thi liệu.
Hoàng cúc thanh sơn xứng hoạn tình.
- Lấy mây biếc cỏ thơm để cung vào món làm thơ.
- Hoa cúc vàng ở núi, thanh đạm hợp với cách của ông.

Ông có bài thơ đề Thúy Sơn:

Nhất loan sơn thủy, nhất lương đài.
Kim cổ tao nhân tự khứ lai.
Bạch thạch bán duyên, danh cú lão.
Hoàng hoa nhất hướng, hộ thành khai.
Điểu tri sự khứ ninh đề thụ.
Sơn khiếp trần xâm cố yểm đài.
Ngữ liễn thiên chương dư vận sự.
Kim chi hoang kính tích bồng lai.

Bản dịch của Nhân Phủ:

Một làn nước biếc, một lương đài.
Mạc khách đi về trước tới nay.
Đá trắng có duyên mòn chữ khắc.
Cúc vàng đồng loạt nở hoa đầy.
Việc hư, chim biếc: cây cao hót.
Bụi bám, non ghê: rêu phủ đầy.
Bút ngự, xe loan trơ lại đó.
Nay là rừng rậm, trước bồng lai..

Ông ngồi đốc học Ninh Bình, sau chuyển ra đốc học Nam Định, nên tục gọi là ông đốc Nam. Đến năm Thành Thái 19 ( 1907 ), vua phải tốn vị, ông lên phủ toàn quyền chất vấn và yêu cầu phục lại ngôi vua, nhưng không được toại ý, ông liền cáo quan, về phụng dưỡng hai thân. Đến khi hai cụ tạ thế, tang lễ xong, ông trốn sang Tầu, vận động cuộc cách mạng.
Ông cùng Phan bội Châu sáng lập Việt Nam Quang Phục hội. Sau thấy công cuộc gặp nhiều trở ngại, ông sinh chán nản, cạo đầu vào tu ở chùa Thường tích quang Hàng Châu ( Chiết Giang ) được ít lâu thì từ trần.
Nhà chùa theo lời ông dặn lại, đem hỏa táng và đổ tro xuống sông Tiền Đường.

Chương - 14 - NGUYỄN TƯ GIẢN.

NGUYỄN TƯ GIẢN. 1823 – 1890.

Vốn tên là Văn Phú, tự Tuân Húc, sau vua Tự Đức thấy tên đó tầm thường quá, đổi lại là Tư Giản. Người huyện Đông Ngạn, nay là phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đỗ tiến sĩ năm 22 tuổi ( 1844 Thiệu Trị 4 ); làm quan từ đời Thiệu Trị đến Đồng Khánh thì lên tới chức tổng đốc.
Năm 1857 ông đệ bản điều trần về việc trị thủy tiếp đó được cử sung Biện lý Đô chính sự vụ ở Bắc kỳ.
Năm 1868 được sung phó sứ phái bộ sang Trung Hoa giao thiệp, có ý muốn nhờ nhà Thanh giúp quân chống Pháp.
Sau khi Nam kỳ thành thuộc địa, Nguyễn tư Giản xin sang nước Đức cầu viện song triều đình không cho. Đến năm Ất Dậu ( 1885 ) các vị Văn thân đều bị ngờ vực phải trốn tránh. Nên Nguyễn tư Giản phải chạy về Kim Sơn lánh nạn, ở với linh mục Trần Lục. Linh mục trọng ông là bực hay chữ, nên mời về Phát Diệm mở trường dạy học.
Trước ông có làm bài bia ở Sinh từ, đền thờ sống Kinh lược Nguyễn hữu Độ, có câu:

Tứ hải phong trần chi hậu, doãn tạ hiền lao.
Cửu chân sơn thủy chi linh, đĩnh sinh anh kiệt.
Tri ngã, tội ngã, thân cư lao oán tri trung.
Dĩ nhân, trị nhân, công tại thị phi chi ngoại.
- Đương lúc bốn bề gió bụi, nhờ cái công khó nhọc của ông mới định được đại cục.
- Khí thiêng sông núi ở quận Cửu chân ( Thanh Hoá ) sinh ra người anh kiệt.
- Kẻ biết lòng ta, kẻ đổ tội cho ta, mình ở vào giữa chỗ lao oán.
- Lấy đạo người mà trị người, công mình ở ngoài chỗ phải trái.

Tri ngã tội ngã là lời Khổng Tử, sau Mạnh Tử dẫn lại, nói ngài làm sách Xuân Thu, người đời sau kẻ biết lòng ngài, và kẻ buộc tội ngài, đều vì sách Xuân Thu cả. Chữ dĩ nhân trị nhân, ở sách Trung Dung, lời Tư Tử.

Cách ít lâu Kinh lược Nguyễn hữu Độ tạ thế, quan cữu đưa về Huế; đi đường thủy theo sông Đáy qua Kim Sơn rồi ra biển. Bấy giờ Trần Lục là Khâm sai tuyên phủ sứ, sức dân huyện Kim Sơn, làm trạm để đón tế một tuần. Các quan tỉnh Ninh Bình có xin Nguyễn tư Giản làm cho câu đối, và bốn chữ dán ở trạm tế. Bốn chữ là:

Công quy bất phục.
- Chữ ở Kinh thi, Châu Công nhà Châu đi đánh Đông Sơn, khi trở về dân Đông Sơn nhớ, muốn giữ lại.

Câu đối:

Thiên hà vi đoạt chi. Hà sóc tinh kỳ vân biến sắc.
Công tự thử viễn hỹ, Giang đình phong vũ trúc thành lâm.
- Trời sao vội cướp ông, cờ tinh kỳ đất Hà sóc mây đã đổi sắc.
* Câu này lấy tích Lý quang Bật đời Đường đi đánh giặc về, cờ tinh kỳ rực rỡ. Ý nói nay cờ đã đổi sắc là vị chủ tướng chết.
- Ông từ đây đi xa hẳn, mưa gió chốn Giang đình trúc mọc thành rừng.
* Lấy điển Khâu Chuẩn đời Tống. Khi mất, đưa quan cữu đi, quan dân nhớ ơn làm trạm tế. Những cây tre cắm làm rạp tế, sau mọc thành rừng.

Sau Nguyễn tư Giản mất ở Kim Sơn, Yên Đổ có viếng câu đối.

Nhất bi tuyệt bút sinh từ hạ.
Thiên cổ du hồn Cự lĩnh gian.
- Một bài văn bia ở sinh từ ( Nguyễn hữu Độ ) là tuyệt bút.
- Thiên cổ du hồn còn phảng phất ở đường Cự lĩnh ( Kim Sơn )
Câu trên nói Nguyễn tư Giản làm văn bia ở Sinh từ, quá tâng bốc Nguyễn hữu Độ. Tuyệt bút: là lấy tích: Xuân Thu tuyệt bút ư hoạch lân KhổngTửlàmsáchXuânThuđếnchữhoạchlân<. Đường Cự Lĩnh thuộc Kim Sơn là chỗ Trần Lục ở.

Yên Đổ lấy hai việc ra chỉ trích: khen gian thần Nguyễn hữu Độ, và ở nhờ linh mục Trần Lục.

Nguyễn tư Giản còn để lại những tác phẩm: “ Thạch nông thi văn tập ”; “ Thạch nông tùng thoại ” và “ Yên thiều thi thảo ”. Ngoài ra, ông có dự vào việc khảo duyệt bộ “ Khâm định Việt sử thông giám cương mục ”.

HOMECHAT
1 | 1 | 117
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com