Quán làng Tân Hội, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định, Nam Việt. Thuở nhỏ học Võ trường Toản. Đỗ cử nhân năm Tân Mão ( 1831, Minh Mạng 12 ). Ra làm quan triều Tự Đức giữ chức tuần phủ Hà Tiên. Khi Pháp chiếm Nam kỳ, cáo quan về ở ẩn ở Hà Tiên. Ông hay qua Bình Thủy ( Cần Thơ ) đàm luận văn chương với thủ khoa Bùi hữu Nghĩa, rất là thích ý. Có lần ông lên chơi Sài Gòn, đang thơ thẩn nơi bồn kèn trước toà Đô chính chợt thấy Tôn thọ Tường, dừng xe bên đường, đi đến ông. Ông muốn tránh, đứng núp vào gốc cây; song Tôn cứ bước lại chào. Ông không làm sao được, đành đứng ra đáp lễ bằng một bài thơ:
Cừu mã năm ba bạn cặp kè. Duyên đâu giải cấu khéo đè ne! Đã cam bít mặt cùng trời đất. Đâu dám nghiêng mình với ngựa xe. Hớn hở, trẻ dong đường dặm liễu. Thẫn thờ, già náu cột cây hoè. Núp nom cũng hổ, chào thêm hổ. Thà ẩn non cao chẳng biết nghe…
Khi Pháp đến, Huỳnh cáo quan về, Tôn bấy giờ mới ra làm quan. Trước dấy hai bên kết bạn.Nay gặp lại đây, thì Tôn đã may được cơ hội tốt, ra làm quan. Thôi thì một đằng hớn hở dong dặm liễu, nghiêngmình với ngựa xe. Còn một đằng âu đành thẫn thờ núp cội hoè, bít mặt cùng trời đất. Tôn nghe xong, nét mặt sượng sùng, bụng nghĩ: trong cơn hoạn nạn gặp nhau giữa đường mà cũng ngâm nga, đúng thật là phong thói nhà nho. Nhưng như thế cũng phải: làm thơ thì dễ nói hơn là đối đáp thường vì thơ nhiều ý mà ít lời, huống chi hai bên tình ý cùng nghẹn ngào cả. Bèn đọc lại mấy vần biện minh cho mình.
Tình cờ gặp gỡ bạn tiền liêu (1) Thi phú ngâm nga hứng gió chiều. Thế cục đổi dời càng lắm lắm. Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều. Nước non dường ấy, tình dường ấy. Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu. Hăng hái nhạc Tây hơi thổi mạnh. Nghe qua, ngùi nhớ giọng tiêu thiều ( 2 ) Ý nói thế cuộc đổi thay, đi xe ngựa thế này có sung sướng gì đâu; cũng vì nhạc Tây thổi mạnh, thế Tây đương lớn, đành phải theo chiều, nhưng lòng riêng vẫn nhớ nhạc cũ. Tôn ngâm dứt, Huỳnh thấy lập luận bằng hai chữ đổi dời, không chịu, lại đọc tiếp luôn, cốt cho Tôn biết: giấy rách sao không giữ lề, giỏ kia dẫu nát cũng còn lại được cái khung tre chứ.
Ngoài tai phải quấy vẫn nhàm nghe. Cuộc lợi đường danh ỏi giọng ve. Chớ nói đổi dời, sao cốt cách? Xưa nay giỏ nát vẫn còn tre.
Từ đó Huỳnh trở về Hà Tiên, tiêu dao nơi non xanh nước biếc, không còn màng gì tới việc đời nữa. Năm 1883, ông từ trần thọ 77 tuổi. Ông có làm bài ngụ ngôn Chó già để nói tâm sự mình lúc tuổi cao sức yếu. Tuy rằng muôn cẩu có ân ba. Răng rụng lâu năm nó phải già. Bởi đuổi hươu Tần, nên mỏi gối. Vì lo khỉ Sở mới chùn da ( 3 ) Không ai chấn Bắc ngăn bầy cáo. Ít kẻ nhờ Tây giữ đứa tà. Mạnh mẽ như xưa còn xốc vác. Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
Chú thích: 1. Tiền liêu: bạn làm quan lớp trước. 2. Tiêu thiều: nhạc đời vua Thuấn. 3. Đời Tần thủy Hoàng, Triệu Cao chỉ hươu nói là ngựa, thử xem có ai theo mình không - Sở bá Vương thường bị diễu là khỉ đội mũ, không xứng với ngôi cao.
Chương - 7 - KỲ ĐỒNG.
Kỳ Đồng vốn tên là Nguyễn văn Cẩm, người làng Trung Lập, phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên. Sinh cuối đời Tự Đức, thiên tư rất là đĩnh ngộ. Lúc bé, thân phụ là một nhà nho uyên bác bắt đầu dạy sách Tam tự kinh. Lên mười, ngũ kinh, tứ thư đều thông, vì ông chỉ trông qua là nhớ, mỗi ngày học đến trăm trang sách. Năm ấy, nhân có kỳ hạch ở tỉnh Hưng Yên, để năm sau thi hương ở trường Nam Định. Khi các quan tỉnh và huấn đạo, giáo thụ, hội đồng ở Văn miếu, thấy ông còn nhỏ mà đã đi thi đều lấy làm lạ, cho gọi đến để hỏi quê quán. Ông thưa ở làng Trung Lập, phủ Tiên Hưng. Quan tỉnh ra câu đối:
Đứng giữa làng Trung Lập.
Ông đối ngay:
Dấy trước phủ Tiên Hưng.
Câu ra, chữ trung lập, nghĩa là đứng giữa. Ông đối chữ tiên hưng, nghĩa là dấy trước.
Các quan tấm tắc khen hay, ra câu nữa:
Khổng môn truyền đạo chư hiền, Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử Ông đối: Chu thất khai cơ liệt thánh, Thái vương, Vương quý, Văn vương. - Các đấng hiền truyền đạo lý đức Khổng, có Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử. - Mọi ông thánh mở cơ nghiệp nhà Chu, có Thái vương, Vương quý, Văn vương. Câu ra, khó và lắt léo; dùng ba chữ Tử, mà trong tên Tử tư chữ Tử ở trên. Còn tên Nhan tử, Mạnh tử hai chữ Tử đều ở dưới. Ông đối được hay, là có ba chữ Vương, Vương quý chữ Vương ở trên. Còn Thái vương, Văn vương, chữ Vương ở dưới. Hội đồng đều lấy làm khen ngợi. Hồi ấy, nước ta trọng văn học, các quan thấy ông còn ít tuổi mà đã có kỳ tài, bèn làm sớ trong đó biên cả hai câu đối dâng về kinh. Vua Tự Đức, xem thấy bèn sắc cho hai chữ KỳĐồng, và phê:
Thử hệ niên khinh, vị khả lục dụng, trước giao Hưng Yên tỉnh thần giáo dục, trừ vi quốc gia tha nhật chi dụng. - Tên này còn ít tuổi, chưa thể thu dụng được, nay giao cho tỉnh Hưng Yên dạy bảo, dành để khi lớn lên, nhà nước sẽ dùng.
Vì có chữ vua cho nên mọi người gọi ông là Kỳ Đồng. Từ đấy tiếng tăm lừng lẫy, ai ai cũng có triển vọng về ông. Cách mấy năm sau, Pháp chiếm Bắc kỳ đặt cuộc bảo hộ. Ông vốn có chí khí, lại được mọi người tin phục, bèn mộ những thanh niên suýt soát tuổi với mình, lập đạo quân kéo lên khôi phục tỉnh thành. Người Pháp thấy một đoàn thiếu sinh, cho là trò trẻ con không quan tâm, cứ để vào tỉnh rồi cho lính ra bắt. Tra hỏi thì mọi người đều khai ra Kỳ Đồng. Pháp tha mọi người về, còn giữ ông lại, sau cho sang Pháp học. Học mấy năm thi đỗ Tú tài. Nước ta đỗ Tú tài Pháp, có lẽ ông là người trước nhất. Ông ở Pháp mấy năm, sự học biết càng rộng, người Pháp muốn cho ông về nước làm quan. Ông từ chối:
- Tôi về làm quan không có ích gì cho dân cả, nay xin về mở mang việc làm ruộng có lẽ hơn. Xin chính phủ cho một khu ruộng ở Bắc kỳ để khẩn hoang.
Người Pháp chiều ý, tư về phủ thống sứ Bắc kỳ, để ông được tuỳ ý chọn khu đất nào muốn khai khẩn. Năm Đinh Dậu ( 1897 ), đời Thành Thái, ông lên Yên Thế mở đồn điền. Nhiều người theo ông, thành một phong trào di cư lập ấp. Lại tiện chỗ đồn điền gần với đất Phồn Xương, rất dễ cho ông liên lạc với Đề Thám. Pháp thấy thế có ý lo ngại, bèn bắt ông đi đầy ở Tahiti. Ông lập gia đình với người bản xứ, có hai người con là Paul Văn Cẩm và Thérèse Văn Cẩm. Ông mất năm 1928 tại Tahiti. Khi ông mất, để lại cái nón lông cốc chóp bạc ( nước ta cái nón chóp bằng lông chỉ có những bậc quí phái đương thời mới dùng ) Thế mới biết hoa đẹp chưa ắt đã kết thành quả ngon, buổi thiếu thời thông minh mẫn tiệp như thế. Mà về sau - tiếc thay - chỉ còn để lại mấy câu thơ, một cái nón và một tên đường….