watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
03:48:0830/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Giai Thoại Làng Nho
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Tất cả các trang
Trang 6 trong tổng số 15

Chương - 8 - LÊ SĨ NGHỊ.

Sinh năm 1877, quán tỉnh Hưng Yên, nổi tiếng thông tuệ từ nhỏ. Năm Giáp Ngọ ( 1894 ), năm 17 tuổi đã về thi Hương tỉnh Nam Định. Sĩ tử nghe tiếng ông đều thấy làm ngại. Kỳ đệ nhất, ông làm tới 7 bài kinh nghĩa. Lệ thi Hương chỉ bắt buộc có 2 bài, một bài kinh một bài truyện, ông làm tất cả 5 bài kinh 2 bài truyện, 7 bài đều được phê ưu, thật là một kỷ lục. Nhưng sau xét lại một bài, đầu bài là:

Đạo chi tương hành dã dư.
- Đạo của ta nếu gặp lúc được thi hành.

Lấy chữ Luận ngữ, ông chép đầu bài vô ý bỏ mất chữ . Như thế là phạm trường quy, dẫu văn hay đến đâu cũng phải ra bảng con, tức là hỏng.
Khoa này hỏng, ông trở về cố gắng học thêm. Đến khoa Đinh Dậu ( 1897 ) lại hỏng nữa. Cách ba năm sau, khoa Canh Tý ( 1900 ) đỗ cử nhân á nguyên. Khi ban yến, quan trường gọi Lê đến hỏi:
- Anh Vũ Tuân đỗ thủ khoa, anh có phục không?
Ông thưa:
- Tôi lên đến Nam Định, mới biết khoa này có anh Vũ Tuân cùng thi, tài của anh còn hơn tôi gấp bội, âu cũng là cái số phận về khoa danh như thế.
Vũ Tuân và Lê Sĩ Nghị là hai người có chân tài, có thực học khét tiếng trong sĩ lâm. Song vì khoa ấy họ Vũ đỗ nhất, Lê đỗ nhì, mà người thứ ba lại là Lê Tuyên, một tay học xoàng. Nên Tú Xương có bài thơ:

Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa.
Tuân khoe văn hoạt, Nghị văn già.
Khoa này đỗ rặt phường hay chữ.
Kìa chú Lê Tuyên đứng thứ ba.

Tú Xương buồn vì kỳ này lại trượt nữa nên chữa thẹn bằng cách diễu hai ông thủ khoa, á khoa: tài các ông tiếng vậy cũng chẳng bao nhiêu, bất quá hơn Lê Tuyên là nhiều.
Ông Nghị được bổ về làm Huấn đạo Kim Sơn ( Ninh Bình ). Lệ ngày xưa các quan mới bổ tới nơi nào khi vào quan tỉnh, phải mặc áo tấc và lạy hai lạy. Ông vào gặp công sứ Pháp, chỉ vái thôi chứ không lạy. Cái thái độ bất khuất ấy được dân chúng ca ngợi lắm.
Hôm sau, sang yết kiến Đốc học Nguyễn thượng Hiền, ông lạy ngay hai lạy. Cụ Nguyễn ngạc nhiên hỏi:
- Sao hôm trước ông vào sứ lại không lạy?
Ông thản nhiên thưa:
- Bẩm, hôm ấy tôi quên.

Chương - 9 - NGUYỄN CAO.

Sinh năm 1840 tại làng Cách bi, tức làng Gạch, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, học trò Hoàng giáp Phạm văn Nghị, sau giữ chức Tán tương quân vụ chống Pháp, nên thường gọi là Tán Cao.
Cha là tri huyện Nguyễn Hành thất lộc sớm.
Năm Nguyễn Cao được 12 tuổi, gửi xuống ở nhà học Tú tài Nguyễn gia Chấp, xã Liễu Ngạn, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Tú tài họ Nguyễn cũng thanh bạch lắm, quanh năm chỉ có sáng bữa cơm chiều bữa cháo. Những ngày nông vụ, thày trò còn phải ra ruộng nhổ mạ và làm việc đồng áng.
Đến năm 20 tuổi, học đã đủ lối, Nguyễn tú tài mới cho xuống nhập môn Hoàng giáp Phạm văn Nghị ở Tam Đăng. Năm 28 tuổi, Cao đỗ thủ khoa Đinh Mão ( 1867 ).
Ông được bổ làm tri huyện Yên Dũng, sau thăng tri phủ Lạng Giang. Lúc Pháp gây hấn ông giữ chức bang biện quân vụ. Rồi ông lên Bố chánh Thái Nguyên, được ít lâu xin đi khẩn hoang ở Nhã Nam.
Năm Quý Mùi ( 1883 ) ông giữ chức Bắc kỳ tán lý quân vụ. Đến khi triều đính ký hoà ước với Pháp, ông lấy làm bất mãn, bèn treo ấn từ quan.
Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất bôn, xuống chiếu Cần Vương, Nguyễn Cao tìm đến chiến khu Bãi Sậy phụ lực với Nguyễn thiện Thuật, chuyên giữ việc huấn luyện chiến thuật du kích. Nghĩa quân do Nguyễn Cao chỉ huy thường đánh phá đồn Pháp, gây thiệt hại cho Pháp không ít.
Sau Pháp phải dùng đại binh, hợp quân cùng lính của Hoàng cao Khải và Lê Hoan, thắt chặt vòng vây. Chủ tướng Nguyễn thiện Thuật chạy lên Thái Nguyên rồi thuận đường sang Trung Hoa. Nguyễn Cao tìm về nương náu tại làng Kim Giang, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Là làng của Phùng Thoại là đốc học cũng đã từ quan về ẩn. Ít lâu sau Phùng Thoại tạ thế, Nguyễn Cao bèn mở trường dạy học trong làng, học trò đến học rất đông. Vốn người đạo đức, nên được khắp vùng kính nể như bậc phụ huynh.
Một hôm có một nhà nho đến xin câu đối để mừng một ông đỗ tiến sĩ làm quan to. Nguyễn Cao viết:

Đại gia tích đức bách niên, nhi kim giã cao danh hiển hoạn.
Thánh triều khai khoa thủ sĩ, sở cầu hồ tử hiếu thần trung.
- Nhà đại gia tích đức hàng trăm năm, nên ngày nay ông nghè được làm quan to nổi danh lừng lẫy.
- Nhà vua mở khoa thi kén học trò, mong muốn rằng chọn được người làm con có hiếu, làm tôi phải trung.

Không ngờ ông Nghè cạn nghĩa cho rằng câu này dụng ý mỉa mai, bèn ngầm báo quan trên đến bắt họ Nguyễn về tội phản đối chính phủ Bảo hộ. Khi Nguyễn Cao bị bắt, học trò và cả dân làng Kim Giang, rủ nhau gom góp mỗi người một quan tiền xanh để lo lót cho Nguyễn, để Nguyễn được thả về.
Về sau, đề đốc Nhung muốn lập công, lại báo bắt lần nữa. Dân làng lại bổ tiền như lần trước, mong để Nguyễn thoát nạn, song ông không muốn phiền lụy xa gần nhiều quá, tự ra xuất thú. Khi bị giải ra trước quan ta lẫn tây, trong đó có Hoàng cao Khải, hội đồng dụ dỗ nếu chịu ra làm quan sẽ bổ chức to và còn hậu đãi. Nguyễn Cao không chịu hàng, hội đồng lại cho đem khí cụ tra tấn ra để doạ nạt. Ông mỉm cười, nói:
- Tôi đâu có sợ chết, sẽ có cách tự xử, khỏi phiền đến ai.
Ông thò tay vào trong áo lấy mảnh sứ đã dấu sẵn. Rạch bụng, rút ruột ra vứt vào mặt họ Hoàng, rồi thống mạ thậm tệ, làm cho cử tọa vừa kinh hoàng vừa tức giận. Lát sau, ông cắn lưỡi tự tận.
Văn thân Bắc hà có bài thơ viếng như sau:

Nhất đại tài danh, bách đại hùng.
Thệ tâm thiên địa, phi tràng bạch.
Khiết xỉ giang san mãn thiệt hồng.
Cố quốc dư thần dư nhất tử.
Hà thành chánh khí túc tam trung.
Bàng quan bất thiểu quan chiêm giả.
Nhân hỉ, nhân sầu, nhân tích công.

Bản dịch của Nhân phủ

Nhất mực tài danh, nhất mực hùng.
Bỏ mình vì nghĩa vẫn ung dung.
Dạ vàng tỏ rõ cùng trời đất.
Máu đỏ chan hoà khắp núi sông.
Nước cũ cô thần thừa một chết.
Thành Hà trung liệt đủ ba ông (1).
Bàng quan thiên hạ bao người đó?
Ai tủi, ai mừng, ai tiếc công.

Chú thích 
1. Nguyễn tri Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Cao

HOMECHAT
1 | 1 | 114
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com