watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
11:09:0518/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50 - Trang 10
Chỉ mục bài viết
Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 10 trong tổng số 14

Hồi 42
Công tử nói chuyện khoa trường nơi quán dĩ
Người nhà báo về tin tức đất Miêu Cương

Vương nghĩa An thấy hai người gái điếm bước vào phòng bèn nói với người đang rửa tay:
- Ông Lục! Ông lại đây mà xem hai cô mới đến!
Hai người gái điếm ngẩng đầu lên. Thấy một người mặt đen, rỗ, hai con mắt hấp ha hấp háy, đầu đội một cái mũ đã rách, mình mặc áo lụa xám dính bết cả đầu, chân đi đôi giầy cũ mũi nhọn, đang xắn ống tay áo lên rửa tay xem chẳng có vẻ gì là văn nhân hay võ sĩ cả.
Khi hắn ở nhà bếp đi ra thì hai người con gái chạy lại:
- Chào ông Lục.
Và cúi đầu, xoay mông đít một cái, một tay sờ chéo áo, cúi chào. lão Lục giơ hai tay đỡ lấy:
- Hai con ngoan ngoãn của tôi! Các con đến đây gặp được lão Lục này là may phúc lắm đấy!
Vương Nghĩa An nói:
- Ông Lục nói đúng đấy! Các cô đến đây đều nhờ ông Lục săn sóc cả đấy! Mời ông Lục ngồi. Đem trà đến đây cho ông Lục!

Thang Lão Lục ngồi trên một cái ghế dài. Hắn kéo hai cô gái ngồi xuống, mỗi người ngồi một bên. Hắn sắn quần lên, gác cái đùi đen bóng lên trên đùi cô Tế, kéo cái bàn tay trắng nõn của cô Tế đặt lên cái đùi đen thui của hắn. Uống trà xong, hắn lấy ra một cái bị đựng cau, bỏ cau vào miệng nhai rau ráu. Nước giãi tràn ra ngoài, chảy ròng ròng xuống râu. Hắn ngả người sang bên phải lại nghiêng sang bên trái, môi ghé vào má hai cô để chùi nước giãi. Khi hai cô kia lấy khăn tay ra lau má thì hắn giựt lấy khăn lau nách. Vương Nghĩa An cầm chén trà nói:
- Ông có nghe tin tức gì gần đây không?
- Có chứ! Hôm trước ông ta có sai một người đến Nam Kinh để thuê may hai mươi bốn lá cờ nhiễu điều thêu rồng, và một cái cờ soái màu vàng lớn. Tháng này, ông sẽ lên kinh. Vào tháng chín, lúc có sương sẽ làm lễ tế cờ. Hoàng Thượng sẽ làm Đại tướng quân và ông chú của tôi làm Phó tướng quân. Hai người sẽ cùng đứng trên một tấm thảm và cúi đầu. Cúi đầu xong, chú tôi sẽ làm tổng đốc.
Đang nói chuyện, có một tên kiếm gái gọi Vương Nghĩa An ra ngoài, thì thầm một hồi, Vương bước vào nói:
- Ông Lục, tôi xin hỏi ông. Vừa rồi có một người khách đến đây muốn gặp cô Tế, nhưng thấy ông ở đây nên không dám vào!
- Cứ đưa ông ta vào đây, có việc gì đâu? Tôi sẽ uống rượu với ông ta.
Vương Nghĩa An đưa người kia vào. Y là một người lái buôn trẻ tuổi.
Người khách kia vào ngồi. Vương nghĩa An liền nói với y bỏ ra một ít tiền mua một đĩa thịt lừa, một đĩa cá, mười be rượu. Vì Thang Lão Lục là người Hồi giáo nên Vương Nghĩa An lại mua thêm hai, ba mươi quả trứng gà luộc. Sau đó, thắp một ngọn đèn treo, Lão Lục ngồi ghế đầu, người khách ngồi đối diện. Lão Lục gọi cô Tế ra cùng ngồi một ghế đầu với khách. Cô Tế cứ nũng nịu đòi ngồi với Lão Lục. Khi bốn người đã ngồi, rượu rót ra. Sau đó bày trò đánh đố ai thua phải uống rượu, ai được thì hát. Lão Lục được và hát giọng ồ ồ bài “Ký sinh thảo”. Rồi đến cô Tế và khách chơi, cô Tế được Lão Lục bảo rót thêm rượu nghe cô Tế hát. Cô Tế quay mặt không chịu hát mà chỉ cười. Lão Lục lấy đũa gõ trên bàn làm nhịp, nhưng cô Tế chỉ cười không hát? Lão Lục doạ:
- Mặt tôi như cái rèm, cuốn lên cũng được, buông xuống cũng được! Tôi bảo cô Tế hát một bài, thì cô phải hát ngay.
Vương nghĩa An lại giục, cô Tế đành phải hát mấy câu. Hát xong nghĩa An nói:
- Ông Vương đến đây rồi!
Viên Bả tổng họ Vương đi tuần đến. Thấy Lão Lục ở đấy, y không nói năng gì. Những người gái điếm cúi lạy. Y vào bàn uống rượu. Người ta lại mua thêm năm, sáu be rượu nữa. Đến canh tư, một tên đầy tớ của nhà đô đốc mang đèn lồng “Đô đốc phủ” đến nói:
- Trong phủ gọi ông Lục về!
Lão Lục và ông Vương ra ngoài. Khách buôn bước vào phòng. Người múc nước rửa tay đến xin tiền, người mang khăn mặt đến xin tiền. Cô gái điếm chải đầu rửa mặt và tắm, bận rộn một hồi. Sau đó, hai người cùng lên giường. Lúc bấy giờ gà đã gáy sáng.
Sáng sớm hôm sau, Lão Lục đến bảo dọn một bữa tiệc tiễn hai công tử đi Nam Kinh. Vương nghĩa An nghe nói hai người con của quan đô đốc đến thì mừng rỡ như bắt được vàng, vội vàng hỏi:
- Ông Lục! Hai công tử đến ngay bây giờ hay chiều? Lão Lục móc ở lưng ra một gói bạc có năm mươi sáu đồng cân đưa cho Vương, bảo sửa soạn một bữa tiệc có bảy món ăn ngon và hai món điểm tâm:
- Nếu chưa đủ tiền thì đến nói với tôi. - Không dám! Không dám! Nếu ông Lục tìm được đám nào cho hai cô kia thì còn nói gì nữa. Vả lại, hôm nay lại là bữa tiệc thết ông cả, ông hai con quan đô đốc, chúng tôi xin cố gắng giúp ông Lục!
- Phải cho ngoan ngoãn đấy! Tôi muốn sao cho hai cô con gái ông vớ được hai ông thì thật là có phúc mười đời!
Vàng bạc, ngọc ngà, châu báu nhà ông ta chả thiếu thứ gì. Nếu gãi đúng tim đen hai ông ấy thì tha hồ mà tiêu! Cả đến bọn đầy tớ, bọn nấu bếp cũng kiếm được chán tiền!
Lý Tứ đứng bên cạnh, nghe vậy cũng mừng quýnh lên.
Dặn dò xong, Lão Lục ra đi. Ở nhà mọi người vội vàng lo dọn tiệc. Đến chiều Lão Lục cùng hai công tử đến, đầu đội mũ lụa, một người mặc áo tía thêu kim tuyến, một người mặc áo xám nhạt thêu kim tuyến, chân đi giày đen đế trắng, mang theo bốn người hầu, ngay giữa ban ngày cũng xách hai cái đèn lồng, một cái đề “Đô đốc phủ”, một cái đề “Nam Kinh hương thí”. Hai người vào ngồi. Hai cô gái cúi chào. lão Lục đứng bên cạnh. Người lớn tuổi hơn là Thang Do, nói:
- Anh Lục, có ghế đây, ngồi xuống chứ!
- Vâng, vâng! Xin hỏi ông cả, ông hai, còn hai cô đây thì có cho phép ngồi không ạ?
Thang Thực nói:
- Sao lại không? Bảo hai cô ngồi xuống chứ! Hai người con gái làm ra vẻ rón rén, rụt đầu rụt cổ, ngồi lên một cái ghế dài lấy khăn tay che miệng cười.
Thang Thực nói:
- Hai cô năm nay bao nhiêu tuổi?
Lão Lục đáp hộ:
- Một cô mười bảy, một cô mười chín.
Vương Nghĩa An mang trà lên, hai người con gái tay bưng chén trà, lấy khăn tay lau xung quanh chén cho khô rồi mang đến đưa cho hai công tử. Hai người tiếp chén trà và uống. Lão Lục hỏi:
- Khi nào hai ông đi?
Thang Do nói:
- Ngày mai, vì quan chủ khảo đã đến Nam Kinh rồi, cho nên chúng tôi không thể ở nán lại nữa.

Trong khi Lão Lục nói chuyện với Thang Do thì Thang Thực kéo cô Tế lại ghế của mình và sờ tay, sờ chân, âu yếm một hồi.
Lát sau, rượu đem lên. Họ đã thuê một người bếp Hồi giáo dọn những món ăn Hồi giáo: yến sào, thịt vịt, thịt gà, cá. Lão Lục tự rót rượu, mời hai công tử ngồi ghế khách; còn mình ngồi dưới tiếp, hai cô ngồi hai bên. Đồ ăn đem lên, hết món này đến món khác. lão Lục tay chân lúng túng, ngồi dưới uống rượu. Lão Lục hỏi:
- Hai ông lên Nam Kinh thì có vào trường ngay không? Từ canh năm ngày mồng tám, trước tiên đọc tên thí sinh phủ Thái Bình. Khi đọc đến phủ Dương Châu, sợ có muộn quá chăng?
Thang Do nói: - Đâu đã đọc ngay đến thí sinh phủ Thái Bình? Trước tiên ở trước viện nổ ba phát súng và cái cổng lớn mở ra. Sau đó, nổ ba phát nữa, cái cửa chính mở, lại nổ ba phát nữa thì cửa Long Môn mở. Có tất cả chín phát súng.
Thang Thực tiếp lời: “Súng ở đấy nhỏ hơn súng ở trước viên môn ông cụ tôi”.
Thang Do nói:
- Nhỏ, nhưng không nhỏ hơn lắm. Sau khi đã nổ súng, người ta đặt hương án ở nhà “Chí Công Đường”. Quan Phủ Doãn phủ Ứng Thiên mang đồ lễ mặc áo mãng bào ra làm lễ. Khi ngài đứng dậy có hai cái lọng che. Quan Bố chính quỳ xuống mời “Tam giới phục ma đại đế quan thánh đế quân” đến để trấn áp trường thi. Sau đó lại mời “Chu tướng quân” ra để kiểm soát trường thi. Cái lọng rẽ ra, quan Phủ Doãn lại ra làm lễ. Thư biện của quan Bố chính ra quỳ mời “Thất khúc văn xương”, “Khai hóa tử đồng đế quân” ra trường làm chủ khảo, mời “Khôi Tinh” ra để soi sáng. Lão Lục lè lưỡi:
- Mời những vị thần, Phật kia ra cả như thế rõ ràng là một việc lớn!
Cô Thuận nói:
- Hai ông thật là to gan, dám đến cái nơi có nhiều thần phật như thế! Chúng em thì thà chết cũng không dám vào!
Lão Lục nói:
- Hai ông đều là, sao “Văn khúc tinh” ở trên trời, có phải như thứ các cô đâu?
Thang Do nói:
- Sau khi đã mời “Văn xương” quan Phủ Doãn lại vái ba vái và Thư biện mời tất cả những người cha mẹ có công đức của những người đi thi.
Lão Lục hỏi: - Thế nào là cha mẹ có công đức? Thang Thực nói:
- Cha mẹ có công đức là cha mẹ những người đỗ tiến sĩ và ra làm quan. Chỉ có những người này mới được mời mà thôi. Còn hạng thi tú tài đến già đời và hạng bách tính thì mời ra làm gì?

Thang Do nói: - Trước mỗi phòng có một lá cờ đỏ, dưới cắm lá cờ đen. Dưới lá cờ đỏ là linh hồn những người mà thí sinh đã cứu giúp, dưới lá cờ đen là linh hồn những người có thù oán với thí sinh. Sau khi quan Phủ Doãn trở về chỗ, Thư biện hô lên: “Ân quỉ vào, oán quỉ vào!” và ở hai bên đốt vàng giấy. Một trận gió thổi ào ào, các linh hồn theo vàng giấy vào ngồi dưới những lá cờ đỏ và những lá cờ đen.
Cô Thuận nói: - A di đà phật! Cho hay ai là người tốt thì đến lúc ấy mới thấy rõ ràng!
Lão Lục nói: - Như cụ nhà ta ở biên cương có nhiều công đức, cứu được bao nhiêu nhận mạng thì ân quỉ chắc là không biết bao nhiêu mà kể. Ở dưới cờ đỏ chắc là không đủ chỗ mà ngồi.
Thang Do nói:
- Cũng may anh Lục không đi thi. Chứ nếu đi thi thì các “oán quỉ” nó lôi anh đi mất.
- Tại sao thế?
- Cứ xem anh Nghiêm bạn tôi ở Nghi Xương thi khoa trước thì biết. Anh là một ông tú tài hay chữ. Ở trong trường thi anh đã viết xong bảy bài văn và đang cao giọng ngâm nga thì bỗng có một trận gió nhẹ làm cho ngọn nến lảo đảo, cái vải che cửa bị kéo ra một bên và một cái đầu thò vào. Anh Nghiêm nhìn kỹ thì thấy đó là đầu một cô gái giang hồ đã cùng sống với mình. Nghiêm nói:
- Người đã chết rồi còn đến đây làm gì?
Người con gái nhìn nghiêm cười khanh khách. Nghiêm hoảng hốt cầm thẻ số hiệu đập một cái, nghiên mực bị lật đổ, mực đen đổ lên quyển thi thành vết bẩn to tướng. Sau đó, người kia biến mất. Nghiêm thở dài mà rằng: số ta phải như thế. Khi Nghiêm nộp quyển thì trời mưa to, anh liều ướt về nhà, bị ốm ba ngày liền. Lúc tôi đến thăm, anh ta nói đến việc đó, tôi nói:
- Chắc vì anh đã làm hại đến đời cô ta nên cô ta tìm đến anh. Anh Lục! Trong đời anh, anh đã làm hại bao nhiêu người? Như thế anh có vào trường thi được không?
Hai cô gái điếm vỗ tay reo:
- Này ông Lục! Ông đã làm hại đời chúng tôi! Nếu ông đi thi thì hai chúng tôi sẽ làm oán quỉ của ông đấy.
Ăn xong. Lão Lục giở cái giọng khàn khàn ra hát một bài, hai công tử vỗ đùi cùng hát một bài. Cố nhiên hai cô gái cũng hát. Ồn ào mãi đến canh ba, hai người mới sai xách đèn để về nhà.
Hôm sau, hai người thuê một cái thuyền lớn đi Nam Kinh. Lão Lục cũng tiễn chân đến tận thuyền mới trở về. Hai người ở trên thuyền nói chuyện suông, bàn đến cái cảnh náo nhiệt khi vào thi. Thang Thực hỏi:
- Anh bảo năm nay sẽ ra đầu đề gì? - Ta đoán nhất định sẽ ra đầu đề về chuyện phụ thân chúng ta đánh dẹp bọn Miêu năm ngoái ở Quí Châu.
- Đề ấy thì chắc sẽ ra ở Quí Châu. - Nếu vậy thì sẽ ra về việc cầu người hiền hay miễn thuế gì đấy thôi, chứ không có gì khác.
Họ nói chuyện suốt trên đường đến Nam Kinh. Người quản gia là Vưu Râu tiếp họ, mang hành lý đến đường Điếu Ngư.
Hai người đi vào nhà, đi quanh một cái nhà hai từng qua một cái cửa nách vào ba gian nhà sạch sẽ, mát mẻ nhìn ra sông. Ngồi đấy nhìn qua bên kia sông là một dãy nhà lan can màu đỏ, song cửa sổ sơn xanh và treo rèm trúc. Những người đỗ tú tài ở các nơi đều về, ở đó có thể nghe tiếng ngâm thơ bình văn.
Hai người vừa đến đó liền sai ngay Vưu Râu mua hai cái mũ vuông mới, giành, siêu đồng, vải che lều, vải che cửa, hoả lò, cọc sáp, kéo cắt bấc, đèn sáp bao đựng quyển thi mỗi thứ hai cái. Rồi họ vội vàng đến chùa Tựu Phong viết tên vào quyển rồi đem đi. Họ lại sắp sẵn những món ăn, bánh mặt trăng, mứt cam, mứt sen, long nhãn, nhân sâm, cốm, dưa muối, gừng, vịt muối. Người anh nói với em:
- Em nên mang theo một ít “a nguỳ”(1) ở Quí Châu đi, thứ đó làm tỉnh trí, khi viết chữ có sai thì không hoảng hốt.
Họ sửa soạn một ngày mới xong; hai người soát lại tỉ mỉ từng cái một, nói:
- Công danh là chuyện to, không có thể làm chơi được! Sáng ngày mồng tám, hai người giao hai cái mũ vuông cũ của họ cho hai người đầy tớ đội, để cho họ có thể sách giành đến chực sẵn ở trường thi. Trên con đường đi từ cầu Hoài Thanh, hai bên là hiệu sách của những người học trò nghèo dựng lên bán những quyển văn tuyển văn bát cổ bìa đỏ, bìa xanh do Tiêu Kim Huyễn, Gia Cát Thiên Thân, Quý Điềm Dật, Khuông Siêu Nhân,
Mã Thuần Thượng, Cừ Dật Phu ... chọn lọc. Đến mãi chiều tối, mới đọc xong danh sách những người tú tài ở Nghi Trưng và đọc đến tên hai người. Hai người phải thân hành xách giành, mang hành lý vào. Khi họ đang ngồi xuống đất để cởi áo và tháo giày thì thấy ở hai bên củi đốt lên, lửa cháy bốc cao tận trời và nghe ở trong có tiếng hô:
- Phải khám xét cẩn thận!

Hai người cùng với những thí sinh khác đi vào cái cổng thứ hai để nhận quyển rồi đi qua cửa Long Môn trở về chỗ ngồi của mình. Đến ngày mồng mười thì xong cả, hai người mỏi mệt, mỗi người ăn một con vịt rồi đánh một giấc.
Thi tam trường xong, đến ngày mười sáu, họ bảo đầy tớ mang danh thiếp của “Đô đốc phủ” thuê một ban hát để tạ ơn thần Phật.
Một lát sau, người hầu trà đến bên. Họ theo Hồi giáo cho nên có người bếp riêng của mình không thuê người ngoài. Những người trong ban hát mang rương hòm đến, theo sau là một người mang mười mấy cái đèn lồng trên có ba chữ “Tam nguyên ban”. Đằng sau là một người có một đứa đầy tớ nhỏ đi theo, tay cầm một hộp danh thiếp. Đến cửa, y nói với quản gia nhờ mang danh thiếp vào. Thang Do mở ra thì tờ danh thiếp kia viết:
“Tôi là Bão Đình Tỷ, đưa hai cây sáp, và một ban hát đến chúc mừng”.
Thang Do biết Bão là chủ ban hát, bèn gọi vào. Bão Đình Tỷ gặp hai người nói:
- Con có một ban hát nhỏ ở đây, chuyên hầu các văn nhân và các quan. Hôm qua nghe nói hai vị bảo diễn tuồng, hôm nay con xin đến đây hầu hai vị. Thang Do thấy Bão Đình Tỷ vui tính, giữ y lại cùng ăn cơm. Một lát, mấy người hát tuồng đến. Họ đốt ngựa giấy cứng “Văn xương đế quân” và “Quan thánh đế quân” trong cái nhà nhìn ra sông. Hai người sụp lạy. Lễ xong, họ cũng Bão Đình Tỷ ngồi vào một bàn. Tiếng thanh la và tiếng trống vang lên. Mở đầu diễn bốn vở ngắn trước khi ăn cơm. Đến tối ở trong sân đốt lên mười mấy ngọn đèn chiếu sáng khắp nhà. Tuồng diễn mãi canh ba mới xong. Bão Đình Tỷ nói:
- Những đứa trẻ của tôi chơi trò cưỡi ngựa rất hay! Để tôi bảo nó diễn hầu các công tử xem cho tỉnh rượu!

Mấy người diễn tuồng mình mặc áo khoác bằng lông điêu, đầu cắm lông trĩ, áo bên trong rất mới, nhảy ra, nhảy thành nhiều hình khác nhau. Hai người nhìn xem rất thú vị. Bão Đình Tỷ nói:
- Nếu hai vị cho phép, tôi xin chọn hai đứa trẻ ở lại đây để hầu hạ hai vị.
Thang Do nói:
- Những đứa trẻ như thế này thì hầu hạ gì được? Anh phải tìm một trò vui gì khác chứ?
Bão Đình Tỷ nói:
- Cái đó dễ lắm. Bên kia sông là nhà anh Cát Lai Quan. Anh ấy là học trò tôi. Anh ấy đã được nêu tên lên bảng khi ông Đỗ ở Thiên Trường có mở cuộc thi hát ở trong cái đình giữa hồ. Nếu ngài đến ngõ Thủy Miệt thì thấy có cái cửa hàng của thầy thuốc ngoại khoa họ Chu, bên kia cửa hàng có một cái hàng rào đen; đó chính là nhà của Cát Lai Quan.
Thang Thực hỏi:
- Nhà ông ta có đàn bà không? Nếu có, ta cũng muốn đi với anh.
- Ở đây, có cái nhà “Mười hai lầu” nổi tiếng, sao hai ông không đến đó chơi? Thế nào tôi cũng đi theo hầu.
Bấy giờ tuồng đã diễn xong, Bão Đình Tỷ từ biệt ra về. Hôm sau, Thang Do sắp sẵn tám hồ rượu, hai bình huyết sơn dương, bốn tấm gấm Miên, và sáu gói trà ngon, bảo người mang tất cả đến nhà Cát Lai Quan. Gõ cửa, một người đàn bà chân to ra đưa vào. Nhà trước gồm có hai gian, chia thành ba phòng. Cửa ở phía bên trái đi thẳng vào các buồng, phía sau nhìn ra sông. Cát Lai Quan mặc áo cà sa màu ngọc thạch, mười ngón tay búp măng đang mân mê cái quạt lông ngỗng trời, tựa vào lan can hóng mát. Nhìn thấy Thang Do vào, y hỏi:
- Mời ông ngồi! Ông ở đâu đến?
Thang Do nói:
- Hôm qua ông Bão nói với tôi rằng nhà ông nhìn ra sông rất đẹp mắt, cho nên tôi đến đây thăm ông. Tôi có mang theo ít lễ mọn, mong ông nhận giúp.
Gia nhân đưa các lễ vật đến. Lai Quan nhìn thấy vui mừng hiện ra nét mặt nói:
- Tôi dám đâu nhận tất cả những thứ này.
Và gọi người đàn bà chân to:
- Mang vào nhà và nói với bà dọn một bữa ăn.
- Chúng tôi là người Hồi giáo không ăn được thịt.
- Tôi mới mua được mấy con cua Dương Châu rất to. Không biết các ông có dùng được không?
- Nó là sản vật quê tôi đấy, tôi rất thích. Ông bác tôi ở Cao Yếu(2) viết thư cho tôi nói muốn ăn cua lắm mà không tìm được con nào.
- Ông cụ nhà ta có làm quan không?
- Thầy tôi làm đô đốc ở Quí Châu. Tôi về đây đi thi.
Đang nói chuyện, rượu bưng lên. Mây và sương mù bao phủ con sông trước mặt, nhà hai bên bờ sông đều lên đèn. Những người đi thuyền qua lại không ngớt. Cát Lai Quan uống xong mấy chén rượu, mặt bừng bừng đỏ, dưới ánh đèn nến, y giơ mấy ngón tay búp măng mời Thang uống rượu:
- Tôi uống nhiều rượu rồi! Cho tôi chén trà!
Cát Lai Quan bảo người đàn bà chân to dọn cua và các đĩa trái cây, lau bàn, lấy một cái ấm đất và nấu một ấm trà mai phiến. Hai người đang vui thú như thế thì bỗng bên ngoài có tiếng ồn ào. Cát Lai Quan ra cửa nghe, thì thấy ông Chu thầy thuốc ngoại khoa mặt đỏ, bụng phệ đang mắng bà chân to tại sao bà ném cua vào đầy cửa nhà ông ta. Cát Lai Quan ra nói lại bị mắng một mẻ:
- Nhà anh ở là thứ nhà gì mà ăn cua không đổ ra trước cửa nhà mình lại hắt vào cửa nhà người ta. Anh không có mắt hay sao?
Hai người đang mắng nhau thì người quản gia của Thang ra bảo Cát vào nhà. Vừa vào nhà ngồi thì Vưu Râu đã vội chạy vào:
- Con tìm ông khắp nơi! Ông vẫn ở đây sao? - Anh làm gì mà ra vẻ hoảng hốt thế?
Ông Hai cùng đi với ông Bão đến uống trà ở cái nhà nào gần chùa Tựu Phong ở vườn Đông Hoa, nhưng bị mấy thằng côn đồ xông vào lột cả áo quần. Ông Bão hoảng sợ quá nên bỏ chạy mất. Bây giờ ông hai bị giữ lại trong cái nhà ấy và không sao về được. Ông hai như điên cuồng. Có bà Diêu bán hoa ở cạnh đấy nói rằng cô của người con gái đó đã đóng cửa lại không cho ông hai ra.
Thang Do nghe vậy, vội vàng bảo về nhà lấy đèn lồng để đưa đường đến chùa Tựu Phong.
Ở đấy bọn côn đồ kháo nhau: - Đã lâu chúng ta không có dịp nào may mắn! Nếu không có tiền chuộc thì chúng ta không thả ra.
Thang Do hùng hổ gạt mọi người đi vào, đẩy bà Diêu ra một bên và đấm bật cửa sập xuống. Người em thấy anh đến, vội vàng xông ra. Bọn côn đồ muốn cản lại nhưng thấy vẻ mặt của Thang Do hùng hổ, lại thấy cặp đèn lồng
“Đô đốc phủ” thành ra sợ hãi bỏ chạy tản đi nơi khác. Hai người trở về nhà.
Hơn hai mươi ngày sau, người ta đem mực vào trường thi để viết vào “bảng nhỏ”(3), họ biết là kết quả sẽ được công bố.
Hai ngày sau, bảng công bố, cả hai không có ai đỗ. Họ ngồi trong phòng buồn bã, bảy tám ngày liền, rồi đi lấy quyển thi hỏng về, Thang Do lấy ba quyển, Thang Thực lấy ba quyển. Không có quyển nào được đọc suốt từ đầu đến cuối. Họ chửi mắng các quan chấm thi dốt nát. Giữa lúc đó, thì một người nhà từ Quí Châu mang thư của Đô đốc đến. Hai người mở ra đọc. Chỉ nhân phen này khiến cho:
Bẻ quế xem hoa, cảnh ấy chỉ trong giấc mộng, Tranh long đua hổ phen này lại thấy chiến chinh. Muốn biết việc sau thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

------------------------
(1) A nguỳ: chất nhựa cây rất hôi dùng để làm thuốc, người ta còn cho nó trừ được ma.
 (2) Tức là tri huyện Thang ở hồi bốn.
 (3) Bảng nhỏ “lam đơn” hay “lam băng” là cái bảng ghi tên những người phạm quy. Ngày xưa thường gọi là “băng gót” trái với bảng gỗ ghi những người thi đỗ.


Hồi 43
Đầm Đã Dương tướng quân giết giặc
Nơi hát múa tù trưởng cướp dinh

Thang Do và Thang Thực sau khi lấy những quyển thi của mình về đang ngồi buồn bã thì một người nhà từ phủ Trấn Viễn ở Quí Châu đến đưa cho họ một phong thư. Họ mở ra và cùng đọc:
“ Bọn Miêu càng ngày càng thêm hung dữ. Sau khi treo bảng rồi bất kỳ đỗ hay hỏng, các con phải về ngay trấn thự của ta...”
Thang Do nói với em:
- Phụ thân muốn ta về nha môn. Chúng ta hãy về Nghi Trưng, thu xếp đồ đạc rồi sẽ đi.
Họ bảo Vưu Râu thuê một chiếc thuyền và trả tiền thuê phòng. Sau đó hai người lên kiệu, bảo đầy tớ mang hành lý đi ra cửa Thủy Tây lên thuyền. Cát Lai Quan nghe nói họ đi, bèn mang theo hai con vịt muối và trà đến thuyền để tiễn.
Thang Do lại dúi ngầm cho y một gói bốn lạng bạc. Sau đó Cát lai Quan ra về. Đêm ấy, thuyền nhổ sào và sáng hôm sau đến Nghi Trưng. Hai người lên bờ về nhà. Họ vừa rửa mặt xong và ngồi uống trà thì người giữ cổng vào báo:
- Có ông Lục đến.
Lão Lục vào, có một người lạ đi theo. Lão Lục nói:
- Tôi nghe tin cụ nhà đem quân đi đánh giặc dẹp quân Miêu. Quân Miêu bị đánh tan. Sang năm, triều đình nhất định mở khoa thi và cả hai ông nhất định đỗ. Cụ nhà ta sẽ được phong hầu. Cái gì chứ chức tập ấm nhất phẩm thì hai ông không cần và sẽ thưởng cho tôi chức ấy. Bây giờ tôi sẽ đem mũ sa ra khoe với cô Tế và cô ta sẽ càng kính phục tôi thêm.
Thang Do nói:
- Anh Lục! Anh muốn có một cái mũ sa để cho cô Tế sợ không? Nếu vậy tôi sẽ cho Vương Nghĩa An một cái.
Thang Thực nói:
- Các anh cứ lo chuyện mà thôi. Còn anh này thì ở đâu đến?
Người kia cúi đầu chào, lấy ra một bức thư. Lão Lục nói:
- Anh này tên là Tang Kỳ, người huyện Thiên Trường. Thơ này là của ông Đỗ Thiếu Khanh. Ông Đỗ nói Tang Kỳ là một con người có thể tin cậy được nên cho anh ta đến đây để hai công tử sai vặt.

Thang Thực mở phong thư và cùng anh xem. Lá thư bắt đầu hỏi thăm sức khoẻ rồi đến: “Tang Kỳ đã làm việc ở Quí Châu và thông thạo đường núi ở đấy, có thể dùng hắn để tiện sai khiến”. Thang Do xem xong nói với Thang Thực:
- Đã lâu chúng ta không gặp anh Đỗ. Nếu anh đã tiến cử người này thì ta giữ lại mà sai vặt.
Tang Kỳ chịu cúi đầu lạy tạ và lui ra.
Người giữ cửa lại vào:
- Ông Vương Hán Sách đến, đang đợi ở ngoài nhà sảnh. Thang Do nói với Thang Thực:
- Em ra ngoài xem ông ta muốn gì, còn anh và anh Lục đi ăn cơm.
Thang Thực ra tiếp khách, trong khi đó Thang Do bảo dọn cơm và cùng ngồi ăn với Lão Lục. Hai người đang ngồi ăn thì Thang Thực vào nói đã tiễn khách đi rồi. Thang Do hỏi:
- Ông ta nói gì thế?
- Ông ta nói ông chủ của ông ta là Vạn Tuyết Trai có hai thuyền muối hai ngày nữa sẽ đi. Ông ta mong rằng khi đi đường chúng ta để ý đến thuyền muối giúp ông ta.
Thang Thực ngồi xuống ăn. Ăn xong, Lão Lục nói:
- Tôi phải đi đây. Ngày mai tôi sẽ lại tiễn hai ông. Ông hai có rảnh đến thăm cô Tế một chút. Tôi sẽ bảo cô ta đợi ông.
Thang Thực nói:
- Anh Lục! Anh thực là cái con ma đòi nợ không bằng. Anh muốn giết người ta à? Bây giờ còn thì giờ đâu mà thăm cái của nợ ấy nữa!
Lão Lục cười, đi ra. Hôm sau, hai người thuê một chiếc thuyền lớn, Vưu Râu, Tang Kỳ mang hành lý xuống thuyền. Cờ biển cắm ở đầu thuyền rất oai nghiêm. Lão Lục đến bến Hoàng Nê nói dăm ba câu rồi từ biệt gọi một chiếc thuyền nhỏ để về nhà.
Người ta đốt pháo khi chiếc thuyền bắt đầu đi ngược dòng. Lúc sắp đến Đại cô đường thì gặp gió to. Thang Thực ra lệnh gọi mọi người lại buộc thuyền. Trên sông Dương Tử sóng bạc cuồn cuộn trắng xóa như tuyết. Hai chiếc thuyền muối bị gió đánh giạt vào bờ ở đấy có hai trăm chiếc thuyền con từ trong lạch chèo ra có chừng hai trăm người mặt mày hung ác, cùng reo lên:
- Thuyền muối đã giạt vào bờ rồi! Chúng ta mau ra khiêng đi thôi!
Chúng liền chèo thuyền con, nhảy lên hai thuyền lớn, và nhanh như chớp, cướp hết bao này đến bao khác, mang tất cả muối lên những chiếc thuyền nhỏ. Khi hai trăm chiếc thuyền kia đã đầy muối rồi, mỗi người vớ một cái chèo, chèo như bay, phút chốc đều chèo vào trong lạch chạy biến mất, không để lại một dấu vết gì!
Người lái thuyền và người coi muối nhìn nhau ngơ ngác, bó tay không biết làm thế nào. Nhìn xa, thấy cái thuyền bên cạnh mang cờ hiệu “Quí Châu tổng trấn đô đốc phủ” họ nhớ ra đó là thuyền của anh em họ Thang. Họ liền đến quỳ, kêu van thảm thiết:
- Chúng con là những người trong hai chiếc thuyền muối của ông Vạn vừa bị cướp giữa ban ngày! Các vị cũng thấy rõ ràng. Xin các vị nghĩ cách gì cứu chúng con với!

Hai người nói:
- Chúng tôi tuy là người cùng huyện với ông chủ các anh, nhưng việc mất cướp là do quan sở tại xét. Các anh phải đến nha môn mà trình với quan địa phương.
Những người kia đành phải nghe theo. Họ viết đơn và đưa đến huyện Bành Trạch. Quan huyện nhận lá đơn xong, liền ra công đường gọi người lái thuyền, người coi muối và những người chèo thuyền đến.
- Tại sao thuyền muối của các anh lại không nhổ neo mà đi. Tại sao các anh lại dừng thuyền ở huyện ta? Nói cho ta biết tên những kẻ ăn cướp! Các anh có biết chúng không?
Người lái nói:
- Thuyền chúng con bị gió đánh tạt vào bờ. Ở đấy có một cái lạch. Trong lạch có hai trăm chiếc thuyền con với hàng trăm bọn côn đồ xông ra cướp hết cả muối của chúng con để ở trên thuyền.
Quan huyện nghe vậy nổi nóng:
- Huyện ta là một huyện pháp lệnh nghiêm minh, dân cư vô sự, làm gì có những việc ấy! Rõ ràng là chúng mày đã thông đồng với anh coi muối bán hết cả muối để lấy tiền đi chơi gái và đánh bạc. Sau khi ăn cắp và bán hết cả ở dọc đường, chúng mày bày ra cái trò này để hòng thoát thân chứ gì! Nay đã đến huyện ta, có thế nào thì phải nói thực.
Và không cần hỏi han gì, y ném một nắm roi xuống. Bọn lính như lang như sói nhảy vào đè người lái xuống đánh hai mươi roi cho đến khi bật máu tươi. Rồi tri huyện lại chỉ vào người coi muối:
- Mày cũng là tay can dự vào vụ này! Có nói thực ra không?
Nói xong lại túm lấy bó roi ném ra.
Tên coi muối này vốn là người lớn lên trong cảnh ăn chơi. Gần đây hắn mọc mấy sợi râu nên chủ mới sai hắn đi theo thuyền muối lần đầu. Da thịt vốn non nớt, bị roi vọt thì chịu sao nổi. Cho nên thấy thế, hắn sợ đái ra quần, tri huyện bảo hắn nói gì thì hắn nói thế, không dám cãi lại một câu. Hắn lạy như tế sao và xin tha tính mạng! Sau đó tri huyện mắng bọn thủy thủ một trận nên thân dọa bắt giam tất cả đến ngày mai sẽ đem ra xử(1). Mất hồn, mất vía, tên coi muối cho một người chạy về nói với Thang Do ở ngoài thuyền và nhờ giúp. Thang Do sai Tang Kỳ mang thiếp của mình đến quan huyện. Tang Kỳ nói:
- Người nhà Vạn thật không cẩn thận gì hết! Nhưng số muối mất đi thì cũng không nhiều. Nay ngài đã phạt người lái để sau này hắn cẩn thận hơn. Vậy xin ngài rộng lượng mà khoan thứ cho họ.
Quan huyện bảo Tang Kỳ mang thiếp về nói với hai công tử rằng quan huyện gửi lời thăm, và xin theo đúng lời dặn.
- Đáng lý phải giải chúng mày đến huyện Giang Đô để bồi thường. Nhưng nay ta tha cho vì lần này là lần đầu!

Sau đó, cho tất cả mọi người ra.
Tên coi muối dẫn người lái đến thuyền Thang Do để vái chào và cảm tạ. Rồi mọi người in lặng trở về thuyền.
Hôm sau gió lặng, thuyền lại giương buồm ra đi. Sau khi đứng ở nhiều nơi, hai người lên bộ và đi đến phủ Trấn Viễn. Họ sai Vưu Râu chạy đi trước để báo tin họ đã về và cùng đến nha môn.
Hôm ấy Thang tống trấn đang tiếp khách. Người khách là tri phủ Trấn Viễn tên là Lôi Ký tự là Khanh Tích, tiến sĩ xuất thân, năm nay ngoài sáu mươi. Ông là khoa mục lâu năm, quê ở huyện Đại Hưng, do bộ bổ ra đây và sau năm sáu năm làm việc, ông rất thuộc tình hình người Miêu ở đây. Sau khi cùng ăn cơm uống trà với quan tổng trấn ở nhà khách phía tây, hai người bắt đầu nói chuyện về dân Miêu. Tri phủ nói:
- Có hai thứ Miêu, bọn Miêu lành là bọn Miêu dữ. Bọn Miêu lành thì rất tuân theo pháp luật không bao giờ làm điều gì bậy bạ. Trái lại bọn Miêu dữ thì luôn luôn nổi dạy. Bọn Miêu ở Thiên Thạch Nhai và Kim Cẩu Động thì lại tệ nhất! Hôm trước đây, quan địa phương là Điền Đức có bẩm: “Tú tài Phùng Quân Thụy bị bọn Miêu ở Kim Cẩu Động cầm đầu là Biệt Trang Yến bắt đi, Biệt Trang Yến không chịu trả, bắt phải có số tiền chuộc là năm trăm lạng”. Theo ý cụ thì việc này nên làm như thế nào? Phùng Quân Thụy là một người tú tài của ta, cái đó quan hệ đến danh dự của triều đình. Tên Biệt Trang Yến sao lại dám bắt cóc để đòi tiền chuộc? Như thế thật là không coi phép nước ra cái gì nữa! Cách duy nhất bây giờ là kéo quân vào động quét sạch bọn Miêu nghịch tặc kia bắt Phùng Quân Thụy về giao cho quan địa phương để xét xem thủ pham là ai mà trị tội. Ngoài ra không còn cách gì khác.
Lôi tri phủ nói:
- Ý định của cụ rất phải. Nhưng nay vì việc của một người mà ta huy động binh mã, tôi sợ không nên. Theo ý tôi chi bằng đưa Điền Đức đến động gặp tù trưởng Miêu, bảo nó trả Phùng Quân Thụy lại. Như thế công việc có thể xong.
- Ông nói thế là sai rồi! Bây giờ nếu cho ông Điền đến động lại bị bọn Miêu bắt cóc đi và đòi chuộc một ngàn lạng, rồi đến ông thân hành đến thuyết phục, nó lại bắt ông và đòi chuộc một vạn lạng ... như thế thì làm thế nào? Vả chăng, mỗi năm triều đình tốn hàng triệu bạc lương, tiền nuôi lính tráng để làm gì? Nếu cứ sợ huy động binh mã thì đừng nuôi những người ăn không còn hơn.
Lôi tri phủ không biết nói sao, đành nói: - Thế cũng được! Tôi sẽ viết một công văn trình rõ việc này để quan trên phê như thế nào! Chúng ta sẽ tuân theo lệnh mà thi hành.
Sau đó Lôi tri phủ cám ơn và về nhà môn. Ở viên môn súng nổ và cửa đóng lại. Thang tổng trấn sau khi tiễn khách ra, trở vào phòng. Hai con ra chào và hỏi thăm sức khoẻ. Tang Kỳ cũng cúi đầu chào. Thang tổng trấn hỏi qua về việc nhà mấy câu, mọi người đi ngủ.
Vài ngày sau, có lệnh quan tổng đốc đưa xuống: “Giao cho quan tổng trấn lĩnh binh mã của mình đi dẹp bọn Miêu phản nghịch để nêu phép tắc và kỷ luật. Mệnh lệnh này phải thi hành ngay!”.
Thang tổng trấn nhận được công văn lập tức sai gọi người thư biện của phòng binh ở phủ đến và cho y vào thư phòng rồi khóa lại. Thư biện hoảng sợ không hiểu tại sao. Đến gần nửa đêm, tổng trấn mới đến thư phòng và ra lệnh cho bọn tôi tớ đều phải rút lui hết. Y đưa ra năm mươi lạng bạc đặt ngay ở trên bàn và nói:
- Nhờ ông cầm lấy cho! Tôi mời ông đến đây là chỉ có việc này thôi: Tôi muốn mua của ông một chữ.
Thư biện run cầm cập:
- Xin cụ nói cho con biết cái gì; nếu con có thể làm được thì xin làm. Nhưng dù chết con cũng không dám nhận một cái gì của cụ thưởng.
- Đừng nói thế! Ta không làm việc gì liên lụy đến anh đâu! Ngày mai có lệnh cấp trên cho ta đem quân đi. Khi nào lệnh này đến phủ, anh chỉ việc thay cái chữ “đem binh mã của mình” bằng “đem nhiều binh mã”. Đây là tiền thưởng công cho anh. Tôi không đòi hỏi gì nữa.

Thư biện vâng dạ, lấy số tiền và được thả về.
Mấy hôm sau, tri phủ đưa lệnh xuất quân đến giục Thang tổng trấn, trong lệnh có câu “đem nhiều binh mã” Thang lấy ba “dinh” và hai “hiệp”(2) do mình điều khiển.
Quân sĩ đều chuẩn bị lương thực sẵn sàng.
Đêm giao thừa, tham tướng và thủ bị ở hai hiệp Thanh Giang và Đống Nhân bẩm:
- Binh pháp tránh dùng binh ngày hối.(3)
- Không can gì! Dùng binh kỳ diệu là tuỳ theo người! Hôm nay bọn Miêu đang ăn tết, ta có thể nhân lúc chúng sơ hở mà đánh.
Tổng trấn ra lệnh cho tham tướng Thanh Giang dẫn quân của mình từ Tiêu Thạch Nhai đến Cổ Lâu Pha để cắt đứt đường rút lui của địch. Lại sai thủ bị Đông Nhân dẫn quân của mình đi từ núi Thạch Bình thẳng đến gò Cửa Khúc để đánh vào phía trước. Còn mình dẫn trung quân đến Dã Dương. Điều động xem, bắt đầu tiến quân. Thang nói:
- Sào huyệt của bọn Miêu phản nghịch ở đầm Dã Dương. Nếu chúng ta theo đường cái mà đánh vào thì chúng sẽ đựa vào chỗ hiểm, cứ ung dung đợi chúng ta đến để đánh và do đó khó lòng đánh thắng được.
Thang tổng trấn hỏi Tang Kỳ:
- Ngươi có biết đường nhỏ nào đi xuyên về phía sau không?
- Tôi biết. Nếu đi từ sườn núi Hương Lô vượt núi đến khe Thiết Khê đi quặt ra phía sau thì có thể bớt được mười tám dặm. Nhưng suối ấy lạnh lắm, nay đã đóng băng rồi và đi cũng khó.
Thang tổng trấn nói:
- Không ngại.
Bèn ra lệnh cho đội kỵ binh mang giày da sơn dầu và đội bộ binh mang giày trèo núi. Rồi tất cả trung quân đi theo con đường đã định.
Bấy giờ, tù trưởng Miêu đang tụ tập đông đủ đàn ông đàn bà ở trong động để ăn mừng năm mới, uống rượu và chơi nhạc, Phùng Quân Thụy vốn là một thằng lưu manh, đã lấy con gái của tù trưởng Miêu, đang ngồi với bố vợ nhìn những người đàn bà Miêu mặc áo xanh, áo đỏ đánh trống và thanh la, múa hát theo điệu Miêu. Đột nhiên người lính canh chạy vào!
- Nguy rồi! Hoàng đế đã sai binh mã đến đây tiêu diệt chúng ta! Họ đã đến gò Cửu Khúc rồi!
Tù trưởng hồn vía bay lên mây, vội vàng ra lệnh cho hai trăm người mang giáo ra đối địch. Một tên lính canh khác lại chạy vào báo:
- Rất nhiều binh mã đã đến sườn Cô Lâu! Nhiều vô kể! Tù trưởng và Phùng Quân Thụy đang hoảng hốt không biết tính sao thì nghe tiếng súng nổ, đằng sau núi, đuốc sáng rực trời và tiếng hò hét “giết! giết!” vang trời, rồi quân lính từ trên cao ào ào đổ xuống như mưa. Tù trưởng dẫn quân ra liều mạng giáp chiến. Nhưng địch làm sao nổi quân lính của Thang, tay cầm giáo, kích quét sạch đến đầm Dã Dương. Binh lính Miêu chết và bị thương quá nửa. Tù trưởng và Phùng Quân Thụy tìm một con đường nhỏ chạy đến một động Miêu khác.
Tiền quân của thủ bị Đồng Nhân và hậu quân của tham tướng Thanh Giang đều gặp nhau ở đầm Dã Dương. Họ lùng tất cả các sào huyệt, giết tất cả những người Miêu sống sót, bắt gái Miêu thổi cơm hầu hạ trong doanh trại. Thanh tổng trấn ra lệnh cho ba quân đóng ở đầm Dã Dương. sau đó, tham tướng và thủ bị đến trướng để chúc mừng thắng trận. Thang nói:
- Hai tướng quân không nên coi thường. Mặc dầu bọn Miêu bại trận, nhưng chúng đã chạy đến động khác rồi. Chắc chắn chúng đã xin quân cứu viện và tối nay sẽ đánh vào dinh trại chúng ta. Chúng ta phải phòng bị mới được.
Và hỏi Tang Kỳ: - Động gần đây nhất là động gì?
- Có động Thụ Nhãn cách đây không đầy ba mươi dặm.
Thang tổng trấn nói:
- Ta đã có cách!
Và quay lại nói với tham tướng và thủ bị:
- Hai vị tướng quân! Hãy đem binh mã của mình mai phục ở cầu Thạch Trụ vì chắc chắn bọn Miêu sẽ đi theo đường ấy. Đợi đến khi chúng rút lui và nghe tiếng súng hãy ra lệnh cho tất cả nhảy xổ ra quét sạch chúng.

Hai người vâng lệnh ra đi. Sau đó, Thang tổng trấn sai chọn những người đàn bà Miêu hát hay nhất, bảo họ chải tóc, mặc quần áo thêu rồi hát và múa ở trong trướng trung quân, trong khi tất cả lính, ngựa và tướng sĩ ẩn sâu vào trong núi. Quả nhiên, canh năm đêm ấy, tù trưởng Miêu dẫn binh lính từ động Thụ Nhãn mang dao, giáo, im lặng sang qua cầu Thạch Trụ. Chúng thấy đèn lồng và đèn sáp sáng trưng trong trướng trung quân ở đầm Dã Dương, lại nghe tiếng hát và tiếng nhạc. Chúng vừa xông vào vừa reo hò. Nhưng chúng lầm! Trong trướng ngoài mấy mươi người đàn bà Miêu thì không còn ai nữa. Biết là bị mắc mưu, chúng lao ra ngoài. Bấy giờ binh mã mai phục sẵn ở trong núi nhất tề xông ra, tiếng hò reo vang tận trời xanh. Tù trưởng Miêu liều mạng dẫn quân xông ra phía cầu Thạch Trụ. Vừa lúc ấy, súng nổ vang và quân mai phục dưới cầu nhảy lên, vây lấy quân Miêu. Cũng may, quân Miêu da chân rất dày, không sợ núi đá cũng như gai nhọn. Cho nên nhanh như những con khỉ hay những con thỏ, chúng trèo lên núi trốn thoát.
Tổng trấn đại thắng. Sau khi điểm lại người ngựa ba “dinh” hai “hiệp” thì thấy tổn thất rất ít. Họ đắc thắng trở về, đến phủ Trấn Viễn, ở đấy Lôi tri phủ ra gặp và chúc mừng.
Sau đó tri phủ hỏi về tù trưởng Miêu là Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy. Thang nói:
- Chúng ta đã đánh thắng mấy trận, chúng chạy bán sống bán chết. Tôi cho rằng chúng chết rấp ở ngòi rãnh nào rồi!
Lôi nói:
- Đành rằng thế! Nhưng các quan trên hỏi việc ấy thì khó mà trả lời ngay. Nói như thế có vẻ qua loa quá!
Thang không biết trả lời sao. Y trở về nha môn, hai con chào đón và hỏi thăm sức khoẻ. Nhưng vì việc trên, y cứ áy náy không yên, đêm đó không sao ngủ được. Sáng sau, y gửi một báo cáo tỉ mỉ về việc xuất binh và thắng trận. Lời phê của tổng đốc cũng y như lời nói của Lôi tri phủ. Tổng đốc chỉ hỏi về hai người tội phạm chính là Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy:
“Phải bắt được chúng ngay và gửi về nha môn, sau đó mới tâu lên trên được”.
Thang hoảng sợ không biết tính sao. Bấy giờ Tang Kỳ đang đứng bên cạnh quỳ xuống mà bẩm:
- Con biết tất cả mọi con đường ở trong động Miêu. Để con đi tìm xem Biệt Trang Yến ở đâu, rồi cụ hãy nghĩ cách bắt hắn.
Thang tổng trấn mừng quá, cho Tang Kỳ năm mươi lạng bạc bảo y đi điều tra cho cẩn thận.
Tám chín ngày sau, Tang Kỳ trở lại nói:
- Con đã đi thẳng đến động Thụ Nhãn. Con biết tin vì Biệt Trang Yến mượn binh đánh cướp dinh bị thua nên tù trưởng Miêu ở đấy bực bội với hắn bây giờ hắn lại chạy sang động Bạch Trùng và nghe tin rằng Phùng Quân Thụy cũng ở đấy. Tất cả chỉ có độ trên mười người trong gia đình thôi, không còn một tên lính và một con ngựa nào nữa! Con cũng nghe nói đến cái kế chúng định bày ra ngày mười tám tháng giêng là ngày thần Thiết Khê xuất hiện, khắp thành ai nấy đều đóng cửa ngồi ở trong nhà. Hôm ấy chúng định ăn mặc giả làm ma và vào nha môn ngài để trả thù. Mong ngài nghĩ cách đề phòng.
Thang tổng trấn nói:
- Được rồi!
Bèn thưởng dê và rượu cho Tang Kỳ và bảo y đi nghỉ.
Theo phong tục nhân dân địa phương phủ Trấn Viễn thì ngày mười tám tháng giêng là ngày Thần Long cho em gái đi lấy chồng. Vì cô em xấu xí lắm, nên cô ta không muốn cho ai nhìn mình. Thần Long sai một đoàn binh đi hộ vệ. Nhà nào cũng phải đóng cửa và không ai được ra ngoài nhìn. Nếu ra ngoài, cô ta mà biết thì sẽ làm mưa to gió lớn nước dâng cao ba thước và nhiều người chết. Đó là tục lệ lâu đời ở đấy.
Hôm mười bảy. Thang tổng trấn gọi binh lính tuỳ tùng đến bảo:
- Đây có ai biết Phùng Quân Thụy không?
Trong đó có một người cao lớn ra quỳ xuống bẩm:
- Con biết!
- Tốt lắm!

Thang bảo y mặc một bộ áo trắng đội một cái mũ đen bằng giấy thật cao, lấy phấn bôi mặt cho đúng như câu chuyện tả con quỷ ở đấy. Lại bảo bọn đầy tớ giả làm lũ đầu trâu mặt ngựa Diêm Vương, quỷ dạ xoa, những quái vật rất hung ác. Thang nói với người cao lớn:
- Thấy Phùng Quân Thụy thì ngươi phải túm cho được hắn rồi ta sẽ trọng thưởng.
Khi tất cả đã sẵn sàng, tổng trấn ra lệnh cho người giữ cửa Bắc mở cửa thành trước khi trời sáng.
Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy trá hình là người nhà quê đi xem hội, mang theo trong người một con dao nhọn, đang giữa nửa đêm lẻn đến cửa Bắc. Thấy cửa thành mở, chúng lẻn đến trường chuồng ngựa của Thang tổng trấn, mười người tay cầm vũ khí trèo tường nhảy vào sân. Ánh trăng lờ mờ chiếu sáng cái sân rộng. Chúng đang ngơ ngác không biết đi đường nào, thì bỗng thấy một con quái vật nằm nấp ở bên tường, tay cầm cái thang la, đánh hai hồi lanh lảnh. Tường lung lay như bị đổ, rồi hàng chục ngọn đuốc chiếu sáng và hàng chục con quỷ nhảy ra tay cầm giáo, câu liêm.
Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy hoảng sợ quá chân như bị chôn xuống đất, thần Thiết Khê bước ra, lấy câu liêm móc lấy Phùng và reo lên:
- Tao đã bắt được thằng Phùng Quân Thụy rồi!
Mọi người xông vào, cả bọn Miêu mười mấy người đều bị bắt. Không đứa nào chạy thoát. Chúng bị đưa vào giam nhà thứ hai cho tổng trấn điểm số và hôm sau dẫn cả bọn đến nha môn tri phủ. Lôi tri phủ mừng rỡ thấy tên đầu sỏ và Phùng Quân Thụy đều bị bắt. Sau khi đọc mệnh lệnh nhà vua. Lôi tri phủ đem chém và bêu đầu Biệt Trang Yến và Phùng Quân Thụy để răn dân chúng. Những người Miêu khác cũng bị giết. Sau đó y tâu về kinh. Dụ ở kinh ra trả lời:
“Để trừng trị bọn Miêu ở động Kim Cẩu, Thang Tấn đã khinh suất tiến vào sâu, làm hao tổn tiền và lương. Nay giáng ba cấp và điều đi nơi khác để răn những kẻ khác tham công Khâm thử”.
Thang tổng trấn nhận được bản sao thở dài. Sau đó có công văn ở bộ đến và viên quan mới đến thay. Sau khi bàn giao ấn tín xong. Thang bàn với hai con cùng thu xếp hành lý về nhà.
Chỉ nhân phen này khiến cho:
Tướng quân đi mất, cây cao xơ xác luống bùi ngùi;
Danh sĩ ngồi bàn, mồ mả tiên nhân lo cất đặt.
Muốn biết việc sau thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.

----------
(1) Lối xử kiện của quan huyện thực là kỳ quặc. Có quan huyện như thế không trách gì có nhiều gặc cướp.
 (2) Một dinh cơ năm trăm người, một hiệp có ba nghìn người.
(3) Ngày ba mươi.


<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 185
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com