watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:17:0018/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50 - Trang 9
Chỉ mục bài viết
Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 14

Hồi 40

Núi Quảng Vũ Tiêu Vân Tiên thưởng tuyết
Cầu lợi Thiệp Thẩm Quỳnh Chi bán văn


Tiêu Vân Tiên vâng lệnh Thiếu Bảo trông coi việc xây thành làm vất vả mất ba bốn năm mới xong. Thành chu vi mười dặm, có sáu cửa, trong thành có năm nha môn. Tiêu Vân Tiên viết bảng chiêu tập lưu dân đến ở và cho nhân dân đến khai khẩn đất hoang ở ngoài thành.
Tiêu Vân Tiên nghĩ bụng: - Đất này khô, nếu gặp năm đói kém thì nhân dân không có lương thực mà ăn. Ta phải lo việc thủy lợi mới được.
Tiêu Vân Tiên bèn đem tiền và lương thực ra thuê dân phu. Tiêu Vân Tiên thân hành chỉ dẫn nhân dân đào nhiều con sông trên khắp cánh đồng. Sông chảy vào ngòi, ngòi chảy vào lạch, cái cao, cái thấp, trông như cảnh tượng Giang Nam vậy. Khi làm xong, Tiêu Vân Tiên cưỡi ngựa mang theo Mộc Nại đi đến các nơi để khao thưởng, đến nơi nào, Tiêu Vân Tiên cũng giết bò, mổ dê, truyền lệnh gọi nhân dân địa phương đến đông đủ. Tiêu Vân Tiên xây một cái đàn, đặt bài vị Thần Nông ở đấy và mang thịt bò, thịt dê đến tế. Tiêu Vân Tiên đội mũ sa, mặc áo lễ đứng trước đàn, nhân dân đứng đằng sau. Mộc Nại ở bên cạnh xướng lễ. Sau khi dâng hương, rót ba tuần rượu, và lạy tám lạy, Tiêu lại dẫn nhân dân hướng về Bắc khuyết(1) tung hô cúi đầu, cảm tạ ơn đức nhà vua. Sau đó, cho mọi người ngồi thành một vòng, Tiêu ngồi giữa, tuốt kiếm chặt thịt, lấy chén tống ra uống rượu, reo hò cười vui. Họ uống rượu và vui chơi một ngày. Tiêu Vân Tiên quay về phía mọi người nói:
- Ta và trăm họ được uống say hết một ngày trời ở đây là có nguyên do. Ngày nay nhờ ơn hoàng đế lại nhờ sức của trăm họ mới khai khẩn được nhiều ruộng. Ta là Vân Tiên cũng góp một phần vào đấy. Nay ta trồng một cây liễu, mỗi người các ngươi cũng trồng một cây, hoặc liễu, hoặc đào, hoặc mơ đều được, để nhớ công việc hôm nay.
Mọi người reo hò như sấm dậy! Ai cũng đi trồng đào, liễu bên đường cái. Tiêu Vân Tiên và Mộc Nại nay ở nơi này, mai ở nơi khác, cùng nhân dân ăn uống mất mấy mươi ngày, trồng được mấy vạn cây liễu. Nhân dân cảm ân đức của Tiêu Vân Tiên dựng lên miếu “Tiên Nông Từ” ở ngoài thành. Ở chính giữa là bài vị Thần nông, ở bên cạnh có bài vị thờ sống Tiêu Vân Tiên, chúc Tiêu sống lâu và hưởng lộc nhiều. Lại tìm một người thợ vẽ để vẽ trên tường hình Tiêu Vân Tiên đầu đội mũ sa, mình mặc áo lễ, cưỡi ngựa, ở đằng trước vẽ hình Mộc Nại(2) tay cầm một cái cờ đỏ, dắt ngựa tỏ ra khuyến khích nghề nông. Trăm họ, trai gái đến ngày mồng một ngày rằm hàng tháng đến đó đốt hương, thắp đèn và gùi khấn vái.
Năm sau, vào mùa xuân, dương liễu xanh tươi, hoa đào hoa hạnh dần dần nở. Tiêu Vân Tiên cưỡi ngựa, mang theo Mộc Nại ra ngoài chơi. Thấy dưới bóng cây xanh, trẻ con trăm họ, tụm năm tụm ba chăn bò, đứa thì cưỡi trên lưng bò, có đứa lại nằm ngang trên lưng, dắt bò đến ngồi bên ruộng uống nước. Uống xong, bò từ từ đi khuất sau các nhà. Tiêu Vân Tiên trong lòng vui sướng nói với Mộc Nại:
- Xem quang cảnh này thì trăm họ có thể kiếm ăn được. Nhìn đứa trẻ nào cũng xinh xắn và thông minh. Bây giờ phải làm thế nào tìm thầy dạy cho chúng học thì mới được!
Mộc Nại nói:
- Ông không biết sao? Hôm trước có một người quê ở Giang Nam đến ở tại miếu Tiên Nông, có lẽ hiện nay ông ta vẫn còn ở đấy. Ông đi bàn với ông ta xem!
Tiêu Vân Tiên nói:
- Như thế thì tốt lắm!
Tiêu Vân Tiên bèn quay ngựa đến miếu. Hai người bước vào vái chào người kia. Vân Tiên nói:
- Nghe nói tiên sinh quê ở Giang Nam, làm sao lại đến ở nơi biên cương xa xôi này? Xin tiên sinh cho biết họ tên.
Người kia nói:
- Tôi họ Thẩm, người ở Thường Châu. Năm trước, tôi có đến thăm một người thân thích buôn bán ở Thanh Phong, không ngờ gặp cảnh chiến tranh, tôi phải lưu lạc ở đây đã năm sáu năm không trở về nhà được. Gần đây, nghe nói ông Tiêu ở triều đình lại đây đắp thành, lo việc thủy lợi cho nên tôi đến xem. Ông tên họ là gì, nha môn của ông ở đâu?
- Tiểu đệ là Tiêu Vân Tiên, đang lo việc thủy lợi ở đây! Người kia đứng dậy vái chào và nói:
- Ông thật là Định Viễn Hầu đời nay(3) tôi khâm phục vô cùng!
- Tiên sinh đã tới đây, vậy tôi là chủ, xin mời tiên sinh đến công đường chơi.
Vân Tiên bèn gọi hai người mang hành lý của Thẩm, bảo Mộc Nại dắt ngựa, Tiêu Vân Tiên và Thẩm dắt tay nhau về công đường, sai dọn cơm rượu để tiếp đãi và nói đến việc mình mời Thẩm dạy học. Thẩm nhận lời. Tiêu Vân Tiên lại nói:
- Chỉ có một người dạy thì không đủ!

Bèn chọn lấy mười người biết nhiều chữ nhất trong số hai ba ngàn quân sĩ đóng ở đấy nhờ Thẩm hàng ngày dạy cho họ học thêm và mở luôn mười lớp học. Những đứa trẻ nào hơi thông minh một chút đều được nuôi ở học đường để dạy dỗ. Được hơn hai năm. Thẩm dạy cho họ cái trò “phá đề” “phá thừa”, “khơi giảng” vân vân. Những người làm được đều được Tiêu Vân Tiên tôn trọng tỏ rằng mình ưu đãi. Những người kia cũng biết việc học là một việc sang trọng.
Sau khi công việc đã xong. Tiêu Vân Tiên viết một công văn sai Mộc Nại mang đi. Mộc Nại yết kiến Thiếu Bảo, Thiếu Bảo hỏi tỉ mỉ sự tình thưởng cho y chức Bá Tổng(4) và căn cứ vào tờ công văn của Tiêu, viết một tờ công văn trình lên bộ Binh.
Nhưng bộ Công viết giấy hạch toán như sau:
“Việc Tiêu Vân Tiên xây đắp thành Thanh Phong đã được quan phụ trách báo cáo lên: Về gạch, vôi, thợ nề cộng tất cả tiền mất 19.360 lạng 12 phân 1 ly 5 hào.
Nay xét lại, thì nơi ấy có nước gần, việc làm gạch làm vôi rất dễ. Dân lưu tán lo việc công dịch lại nhiều. Không thể để tùy ý xa phí như thế được! Như vậy, phải rút ra
7.525 lạng bắt quan sở tại chịu. Xét ra, viên quan này là người phủ Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Vậy báo cho các quan địa phương biết để lưu ý làm sao cho số tiền này được trả đúng hạn. Chỉ này đã được hoàng đế y".
Sau khi Tiêu Vân Tiên nhận được của quan trên bản sao về công văn này và lệnh trả tiền của quan trên, Tiêu Vân Tiên chỉ còn cách thu xếp hành lý trở về Thành Đô. Về đến nhà, thấy cha đã nằm liệt trên giường bệnh không sao dậy nổi. Tiêu Vân Tiên đến trước giường hỏi thăm sức khỏe của cha, và kể lại từ đầu đến đuôi mọi việc xảy ra từ khi đầu quân. Sau đó, cúi đầu nằm xuống đất không đứng lên nữa.
Tiêu Hạo Hiên nói:
- Con không làm việc gì sai trái, tại sao con lại không đứng lên?
Tiêu Vân Tiên kể chuyện về việc xây thành, bị bộ Công hặc rút bớt chi phí nên phải bồi thường và nói:
- Người con hiếu phải giúp đỡ cha mẹ. Nay con chẳng giúp đỡ cha được mảy may nào lại làm mất hết cả sản nghiệp của cha. Thực là con không bằng người ta, cho nên con rất lấy làm hổ thẹn!
- Đó là mệnh lệnh của triều đình, chứ không phải là con tiêu tiền hoang phí, con không nên buồn bã làm gì cho vô ích. Sản nghiệp của ta nhặt nhanh tất cả cũng được chừng bảy ngàn lạng. Con cứ làm giấy giao hết cho triều đình.
Tiêu Vân Tiên khóc và vâng lời. Nhìn thấy cha bệnh nặng. Tiêu Vân Tiên không kịp thay quần áo, chăm sóc cha mười ngày đêm liền, nhưng cũng không ăn thua gì. Tiêu Vân Tiên khóc mà hỏi:
- Cha có trối lại gì không?
Tiêu Hạo Hiên nói:
- Con nói gì mà ngốc thế! Ta còn sống ngày nào thì còn làm chủ ngày ấy, ta chết đi rồi thì tất cả đều là việc của con. Ở đời cốt nhất là phải làm con người trung, hiếu, còn ngoài ra đều là việc vặt hết!
Nói xong Hạo Hiên nhắm mắt qua đời.
Tiêu Vân Tiên kêu trời gào đất hết sức đau xót và lo việc chôn cất chu đáo theo đúng tang lễ. Vân Tiên một mình thở dài:
- Người ta nói: “Tái ông mất ngựa biết đâu là họa hay là phúc(5) Nếu không bị quan bắt bồi thường thì chắc chắn ta không thể về nhà. Như thế, thì không sao mà lo liệu được việc tống táng cha. Cho hay việc về nhà lần này cũng không thể nói là bất hạnh được.
Chôn cất xong, Vân Tiên đem tất cả gia sản ra bồi thường còn thiếu trên ba trăm lạng. Quan địa phương vẫn thúc bách gắt gao. May gặp lúc quan tri phủ vì án trộm cướp nên bị giáng chức đi nơi khác. Quan tri phủ mới đến là người được Bình Thiếu Bảo đề cử khi Thiếu Bảo còn làm Tuần Vũ. Sau khi nhậm chức, tri phủ biết Tiêu Vân Tiên là người của Thiếu Bảo cho nên làm một tờ trình rằng Tiêu Vân Tiên đã thanh toán khoản bồi thường kia rồi, và khuyên Vân Tiên đến gặp Bình Thiếu Bảo để tìm cách bồi thường sau. Thiếu Bảo trông thấy Tiêu Vân Tiên an ủi một lúc và viết một cái giấy lên bộ Binh. Quan đương sự nói:
“Việc Tiêu Vân Tiên xây thành không có lệ thăng thưởng. Phải cứ làm chức Thiên tổng cũ nhưng cho ăn lương bổng của thủ bị. Khi nào khuyết chân thủ bị thì sẽ dẫn đến bộ yết kiến”.
Tiêu Vân Tiên đợi năm sáu tháng trong bộ mới được thăng làm thủ bị ở vệ Giang Hoài, phủ Ứng Thiên. Khi lên kinh yết kiến thì nhận được chiếu chỉ phải đi ngay đến nơi nhận chức.
Tiêu Vân Tiên mang công văn ra khỏi kinh theo đường phía đông về Nam Kinh. Đi qua cầu Chu Long, đến vệ Quảng vũ, buổi chiều vào nghỉ trong một cái quán. Bấy giờ là lúc giữa mùa đông. Trời rất lạnh. Vào khoảng cuối canh hai, chủ quán nói với các hành khách:
- Các ông mau mau tỉnh dậy! Ông Bả tổng Mọc Nại đi soát.

Mọi người đều khoác áo ngồi dậy. Thấy bốn năm người lính mang đèn lồng soi đường cho ông Bả tổng đi khám xét danh sách hành khách. Tiêu Vân Tiên nhìn ra thì chính là Mộc Nại. Mộc Nại thấy Vân Tiên mừng rỡ khôn xiết hỏi thăm sức khỏe, vội vàng mời Vân Tiên về chỗ mình làm việc nghỉ một đêm.
Hôm sau Tiêu Vân Tiên muốn đi. Mộc Nại giữ lại nói: - Ông hãy thư lại một hôm. Trời này sắp có nhiều tuyết. Hôm nay hãy đến xem đền thờ Nguyễn Công ở núi Quảng Vũ và ông hãy cho con làm tròn trách nhiệm người chủ.
Vân Tiên bằng lòng.
Mộc Nại bảo sửa soạn hai con ngựa, cùng Vân Tiên cưỡi ngựa, lại bảo một người lính mang theo nem, thịt và một hồ rượu đến đền thờ Nguyễn Công ở núi Quảng vũ. Đạo sĩ ra tiếp, mời vào ngồi ở lầu phía sau. Đạo sĩ không dám ngồi tiếp chỉ mang trà đến Mộc nại nhân tiện mở sáu cái cửa sổ nhìn ra núi Quảng Vũ.
Trên núi cây cối tiêu điều, gió bắc thổi, làm cho quang cảnh thê lương. Những bông tuyết từ trên trời rơi xuống. Tiêu Vân Tiên thấy vậy, nói với Mộc nại:
- Ở thành Thanh Phong hai chúng ta đã thấy tuyết không biết bao nhiêu lần rồi! Nhưng không lúc nào thấy nó thê lương buồn bã như hôm nay. Quả thật lạnh buốt xương!
Mộc Nại nói: - Nhờ tới hai ông đô đốc lúc bấy giờ mặc áo điêu áo cừu đứng bên lửa, chắc là họ vui sướng lắm nhỉ!
Uống rượu xong, Tiêu Vân Tiên đứng dậy đi dạo chơi. Ở lầu bên phải có một cái gác nhỏ, trên tường có nhiều danh nhân đề thơ ngâm vịnh. Tiêu Vân Tiên xem thấy ở trong đó có một bài đề là “Quảng Vũ sơn hoài cổ”, đọc lên là một bài thơ thất ngôn cổ phong. Tiêu đọc đi đọc lại mấy lần không ngờ rơi nước mắt. Mộc Nại đứng bên cạnh không hiểu tại sao. Tiêu Vân Tiên lại nhìn ở đắng sau có một hàng chữ đề “Do Vũ Thư hiệu là Chính Tự ở Nam Kinh viết”. Vân Tiên xem xong ghi nhớ trong lòng, sau đó thu thập hành lý về chỗ làm việc của Mộc Nại, ở lại đấy một đêm nữa. Hôm sau, trời sáng, Tiêu Vân Tiên từ biệt Mộc Nại ra đi. Mộc nại tiễn đến trạm Đại Liễu mới trở về.
Tiêu Vân Tiên qua sông Dương Tử ở Phố Khẩu rồi đến kinh thành. Sau khi đưa giấy tờ, Tiêu đến nhận chức mới. Tiêu xét lại số người vận chuyển, số thuyền và bàn giao với người đã làm trước. Hôm ấy Tiêu hỏi người làm việc vận chuyển:
- Anh có biết ở đây có ai họ vũ hiệu là Chính Tự không?
- Tôi không biết. Ông hỏi ông ta vì cớ gì?
- Ta ở Vệ Quảng vũ thấy thơ của ông ta nên muốn gặp.
- Nếu là người làm thơ thì con đến trường Quốc Tử Giám hỏi là biết.
- Thế thì anh đi hỏi nhanh đi!

Hôm sau người kia trở về nói:
- Tôi đến hỏi trường Giám, người ta nói có ông Vũ, gọi là Vũ Thư là giám sinh hiện ở Hoa Bài Lâu.
- Mau gọi một người đi theo không cần mang theo gì. Ta muốn gặp ông ta lắm.
Vân Tiên đi ngay đến Hoa Bài Lâu. lầu này quay mặt về hướng đông. Tiêu Vân Tiên đưa danh thiếp, Vũ Thư ra gặp. Vân Tiên nói:
- Tôi là một kẻ vũ phu mới đến đây; nhưng ngưỡng mộ bậc hiền nhân quân tử. Hôm trước, ở trên tường núi Quảng Vũ, tôi được đọc bài thơ hoài cổ của ông cho nên muốn đến đây bái yết.
- Bài thơ ấy của tôi, chẳng qua là xúc cảm trong lúc ấy mà làm không ngờ làm bẩn mắt ngài.
Vũ Thư mang trà ra cùng uống. Vũ Thư nói: - Ông từ Quảng Vũ đến đây, tôi chắc là ở kinh phái đến. - Không giấu gì ông. Việc nói ra thì dài. Sau khi tôi lấy lại được thành Thanh Phong, tôi sửa chữa thành lãng phí, nên vừa mới trang trải xong số tiền bồi thường. Vừa đây, tôi được thăng từ chức thiên tổng đến làm ở vệ Giang Hoài này. Nay được gặp tiên sinh, tôi rất mừng, có điều gì mong tiên sinh chỉ giáo.
- Tôi cũng mong được ông dạy bảo.
Nói chuyện xong Tiêu Vân Tiên đứng dậy ra về! Vũ Thư tiễn ra ngoài cửa, thấy một người làm việc ở Giám chạy vào nói:
- Cụ Ngu muốn gặp ông ở nhà.
Vũ Thư bèn đến thăm Ngu bác sĩ, Ngu bác sĩ nói:
- Việc sắc phong của bà cụ đã bị bác ba lần vì đơn xin quá chậm. Nay mới được chuẩn y. Tiền để làm nhà bia(6) hiện nay ở nhà tôi, anh mau đến mà lấy.
Vũ Thư cảm tạ đi ra. Hôm sau Vũ Thư mang thiếp đến thăm Vân Tiên, Vân Tiên mời vào nhà, rót nước, mời ngồi, Vũ Thư nói:
- Hôm qua ông hạ cố đến thăm tôi, tôi rất lấy làm cảm kích. Bài thơ của tôi lại được ông khen quá đáng trong lòng không an. Hiện nay tôi có mang theo đây một số bài thơ mong ông chỉ giáo.
Vũ Thư rút trong ống tay áo ra một quyển thơ. Tiêu cầm lấy, xem mấy trang, nức nở khen. Tiêu mời Vũ vào thư phòng ăn cơm. Ăn xong, Tiêu lấy ra một quyển tranh đưa cho Vũ Thư và nói:
- Đây là một tranh vẽ một vài việc tôi đã làm! Mong ông trổ tài văn chương đề vài bài thơ hay một bài văn để cho công việc làm của tôi sau này khỏi mai một đi.
Vũ Thư nhận lấy, đặt lên bàn, giở ra xem. Tờ ngoài có bốn chữ “Tây chinh tiểu ký”. Ở trong có ba bức vẽ: Bức thứ nhất: “Phá địch ở Ỷ Nhi Sơn. Bức thứ hai: ”Đánh lấy thành Thanh Phong". Bức thứ ba: “Mùa xuân khuyến khích việc nông”. Dới mỗi bức tranh có viết tỉ mỉ sự việc xảy ra. Vũ Thư xem vui mừng nói:
- “Phi tướng quân” gặp số không may(7). Xưa nay đại khái thế cả! Ông công lao như thế, ngày nay vẫn làm chức thấp! Còn việc làm thơ thì tôi xin lĩnh giáo. Vì ông địa vị thấp nên công danh sự nghiệp to tát như thế vẫn không được ghi vào sử sách. Nay cần phải có vài tay văn tài kể lại, như thế văn tập sẽ được lưu truyền và lòng trung nghĩa của ông sẽ không bị mai một.
- Tôi xứng đâu với lời khen như thế! Nhưng nhờ văn tài của ông, tôi cũng nhờ đó mà không bị mai một.
- Không phải thế đâu! Tôi xin mang tập tranh này về. Ở đây có mấy vị danh sĩ, rất thích tán dương những người trung hiếu. Nếu họ thấy sự nghiệp của ông chắc họ sẽ làm thơ ngâm vịnh. Như thế việc làm của ông sẽ được lưu truyền mãi.
- Theo ý ông, tôi có thể đến thăm các vị ấy không?
- Được chứ!

Tiêu Vân Tiên lấy ra một tờ thiếp đỏ và bảo Vũ Thư viết tên và chỗ ở Ngu Dục Đức, Trì hành Sơn, Trang Thiệu Quang, Đỗ Thiếu Khanh. Vũ Thư viết xong, giao cho Tiêu Vân Tiên còn mình thì mang tập tranh về nhà.
Hôm sau, Tiêu Vân Tiên đến thăm những người kia và họ đều đến thăm lại. Sau đó Vân Tiên vâng lệnh mang lương thực vận chuyển đến miền Hoài. Tiêu xuống thuyền đi đến Dương Châu. Trước cửa sở thuế chật ních những thuyền. Đang lúc ồn ào thấy đằng sau có một chiếc thuyền, trên thuyền có một người đứng. Thấy Tiêu, người kia kêu lên:
- Ông Tiêu! Sao ông lại ở đây?
Tiêu Vân Tiên ngoảnh lại:
- A! Té ra ông Thẩm! Ông đến đây lúc nào thế?
Tiêu Vân Tiên bèn bảo ghé thuyền lại gần. Thẩm nhảy lên thuyền. Vân Tiên nói:
- Từ lúc xa nhau ở thành Thanh Phong đến nay đã mấy năm. Ông về Nam từ bao giờ?
- Từ khi khi được ông đoái tới, tôi dạy học được hai năm dành được ít tiền trở về làng, đem con gái tôi đến gả cho nhà họ Tống ở Dương Châu. Hiện nay tôi đang đưa cháu về nhà chồng.
- Chúc mừng lệnh ái!
Tiêu bảo tùy tùng đưa cho người con gái một lạng bạc để làm lễ mừng và nói:
- Tôi phải vận lương về phương Bắc cho nên không dám chậm trễ. Khi trở về nơi làm việc, tôi sẽ gặp ông.
Hai người vái chào nhau và từ biệt.
* * *
Thẩm đem con gái là Quỳnh Chi lên bờ thuê cho nàng một cái kiệu nhỏ, và thân hành mang hành lý vào trọ ở hiệu “Đại Phong Kỳ” gần cửa Khuyết Khẩu. Những người buôn ở đấy tiếp đón và báo với chủ hiệu muối họ Tống, tên là “Vi Phú”(8). Tống Vi Phú cho người nhà đến nói:
- Ông chủ bảo đưa cô dâu vào trong nhà, còn cụ Thẩm cụ thì cứ ở lại hiệu và dọn tiệc mời cụ ăn.
Thẩm Đại Niên nghe vậy, nói với Quỳnh Chi:
- Ta định ở lại đây đợi ngày tốt sẽ đưa dâu. Tại sao ông ta lại vội vàng như thế? Xem tình hình này thì chắc ông ta không lấy con làm vợ chính đâu? Việc này nên làm như thế nào đây! Con ơi, con định như thế nào?
- Thưa cha, cha cứ yên tâm. Ta chưa làm giấy tờ gì và cũng chưa nhận tiền gì của họ, thì đời nào con lại chịu làm thiếp? Nếu ông ta đã lập mưu như thế mà cha lại sinh sự với ông ta thì chỉ làm cho người ngoài chê cười. Bây giờ cứ để con lên kiệu, đến đó xem ông ta đối đãi với con như thế nào.
Thẩm Đại Niên đành phải nghe lời con, nhìn con tô điểm; đầu đội mũ, mình mặc áo đỏ rộng, vái chào cha lên kiệu. Người nhà họ Tống đi theo kiệu, đưa đến bến sông vào một cái cửa lớn. Mấy bà vú em bồng con ông chủ đang nói chuyện bông đùa với người quản gia. Nhìn thấy kiệu đến họ hỏi:
- Có phải cô dâu họ Thẩm đấy không? Xin mời xuống kiệu, đi vào nhà theo ngõ bên cạnh.
Thẩm Quỳnh Chi nghe vậy, không nói gì, bước xuống kiệu, đi thẳng vào phòng khách, Quỳnh Chi nói:
- Mời ông chủ ra! Tôi họ Thẩm ở Thường Châu chứ không phải con nhà hèn hạ! Ông ta đã muốn lấy tôi; thì phải treo đèn, kết hoa, chọn ngày tốt để làm lễ cưới. Tại sao ông lại cho mang tôi lén lút như mang một người thiếp? Tôi không hỏi gì chuyện khác, chỉ cần ông đưa tôi xem tờ hôn thú có chữ ký của cha tôi, có thế mà thôi!

Bà vú và người nhà giật mình kinh ngạc, chạy vào nhà sau báo với chủ. Tống Vi Phú bấy giờ đang ở trong phòng thuốc xem người điều chế nhân sâm. Nghe vậy, Tống đỏ mặt nói:
- Bọn nhà buôn chúng tao, mỗi năm lấy ít nhất là bảy tám người thiếp. Nếu đứa nào cũng bướng bỉnh thế này thì còn sống sao được nữa. Nó đã bước vào đây thì có bay đi đằng trời!
Y suy nghĩ một lát rồi bảo a hoàn:
- Mày ra nói với cô dâu: hôm nay ông chủ không ở nhà, cô cứ tạm vào phòng. Muốn nói gì thì đợi ông về hãy nói.
A hoàn trở lại nói như vậy. Thẩm Quỳnh Chi nghĩ bụng:
- Ngồi ở đây cũng không ăn thua. Chi bằng ta hãy cứ vào đó xem sao. Bèn theo a hoàn ra sau sảnh theo một cái cửa nhỏ. Quỳnh Chi qua ba gian nhà gỗ hương, một cái sân rộng, xây núi giả lấy đá từ Thái Hồ về, men theo một con đường nhỏ ở bên trái núi giả, vào một cái vườn hoa. Ở đấy, bụi trúc xen nhau, đình đài rộng rãi, một cái ao cá vàng rất rộng. Hai bên bờ ao toàn là lan can màu đỏ sát với một cái hành lang. Ở cuối là một cái động nhỏ hình tròn có bốn cái cửa thiếp vàng. Bước vào là ba gian nhà, một gian là phòng phủ, bày biện gọn gàng đẹp đẽ, có riêng một cái sân. Người vú già đưa trà vào, Thẩm Quỳnh Chi uống trà và nghĩ bụng:
- Nơi này hết sức tĩnh mịch, chắc gì chàng kia đã thưởng thức nổi! Thôi ta hãy nghỉ lại đây vài hôm đã.
A hoàn trở lại bẩm với Tống Vi Phú
- Cô dâu là người rất xinh đẹp, nhưng xem ra có vẻ bướng bỉnh, không thể trêu chọc được đâu?
Hôm sau, Tống Vi Phú bảo quản gia đến hiệu buôn nói với người chủ hiệu đưa ra năm trăm lạng bạc cho cụ Thẩm bảo cụ trở về nhà để Quỳnh Chi ở lại đấy. Vi Phú cho rằng cụ Thẩm không ăn nói vào đâu được. Cụ Thẩm nghe vậy nói:
- Hỏng rồi! Thế rõ ràng là nó lấy con tôi làm thiếp, như thế sao được?
Thẩm Đại Niên lập tức đến huyện Giang Đô, phát đơn kiện. Tri huyện xem đơn nói:
- Thẩm Đại Niên đã là cống sinh ở Thường Châu, cũng là một con người áo mũ, làm sao lại chịu để con gái đi làm thiếp? Bọn buôn muối ngang ngược đến thế là cùng.

Và nhận lá đơn, Tống biết thế, vội vàng cho tay chân mang đơn lên kiện Thẩm và đút lót trên dưới để làm khó dễ. Hôm sau, quan phê vào đơn kiện: “Thẩm Đại Niên nếu đã gả con gái cho Tống Vi Phú làm vợ chính thì tại sao lại đưa con thầm lén đến nhà Tống, rõ ràng ông ta gả con làm thiếp nhưng đặt điều nói bậy(9). Đơn kiện của ông ta bị bác”.
Và trên lá đơn kiện của Tống thì viết:
“Xem lời phê trong lá đơn của Thẩm Đại Niên”.
Thẩm Đại Niên lại làm một lá đơn khác. Tri huyện nổi giận cho ông ta là đồ gây sự kiện tụng, viết giấy sai hai tên sai nhân giải về Thường Châu.
Thẩm Quỳnh Chi ở trong nhà họ Tống mấy ngày không có tin tức gì, nghĩ bụng:
- Hắn lại tìm cách đến bảo cha ta im, và sau đó sẽ làm khổ ta chứ gì! Chi bằng ta cứ trốn khỏi nhà này rồi sẽ liệu sau.
Quỳnh Chi bèn gói ghém tất cả số châu báu, chén bát bằng bạc và đồ trang sức, mặc bảy cái quần, cải trang làm đầy tớ gái và đút tiền cho a hoàn. Vào canh năm Quỳnh Chi chạy ra cửa sau, sáng tinh mơ thì đi qua cửa sở thuế và xuống thuyền. Thuyền này có cả gia quyến của chủ thuyền. Quỳnh Chi nghĩ bụng:
- Nếu ta về Thường Châu với cha mẹ, thì người làng sẽ chê cười.
Lại nghĩ:
- Nam Kinh là nơi có nhiều danh nhân, ta lại biết làm vài ba câu thơ, sao ta không lên đó bán thơ mà sống? Biết đâu gặp may cũng nên.
Chủ ý đã định, nàng đến Nghi Trung đáp thuyền đi thẳng lên Nam Kinh.
Chỉ nhân phen này khiến cho:
Nữ sĩ bán thơ, lại hóa ra phường trốn tránh;
Nho sinh khoa cử, sẽ làm kẻ khách phong lưu.
Muốn biết việc sau thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

-----------
(1) Cửa khuyết ở phía bắc cung điện nhà vua, vì vậy khi quay về phía kinh đô người ta cũng gọi là quay về bắc khuyết. Khuyết là cái cửa gồm hai cột trụ trên có lầu ở giữa để trống.
 (2) Quá trình biến đổi của Mộc Nại cũng đáng chú ý.
 (3) Định Viễn Hầu: Ban Siêu đời Đông Hán đi xa lập nhiều quân công ở Tây Vực; có công được phong làm Định Viễn Hầu.
 (4) Bá Tổng: chức quan võ nhỏ.
 (5) Tái ông mất ngựa: Có ông già ở chửa ải mất con ngựa, những người xung quanh đến chia buồn. Ông nói: ”Biết đâu đó lại là phúc". Sau con ngựa ấy về với một con ngựa khác, những người xung quanh đến mừng, ông nói: “Biết đâu đó là hoạ!” Đứa con trai của ông cưỡi ngựa ngã gãy chân, những người xung quanh đến chia buồn, ông lại nói: “Biết đâu đó là phúc!”. Một năm sau người Hồ xâm lăng, những người trai tráng đều phải đi lính nên phần lớn chết trận, đứa con trai của ông vì què nên sống sót. Ý nói việc may rủi không thể biết ngay được.
 (6) Nhà để biểu dương một người nào.
 (7) Vũ Thư ví Tiêu Vân Tiên với Lý Quảng đời Hán hiệu là: “Phi tướng quân”, Lý Quảng đánh trận giỏi nhưng vì không được ai nâng đỡ nên đến già vẫn không được phong hầu.
 (8) Trong sách cổ có câu “Vi phú bất nhân” nghĩa là những kẻ làm giàu thì không có nhân nghĩa gì. Ngô Kinh Tử đặt cái tên cho anh chàng này thật là thích đáng.
 (9) Quan huyện thay đổi ý kiến quá dễ dàng.

Hồi 41

Sông Tần Hoàn Trang Trạc Giang nói chuyện xưa,
Huyện Giang Đô Thẩm Quỳnh Chi bị áp giải

Thành Nam Kinh mỗi năm từ rằm tháng tư trở đi, phong cảnh sông Tần Hoài càng thêm xinh đẹp. Ở ngoài sông, thuyền đều cất lầu, gác mui và chèo ra giữa sông. Mỗi thuyền ở giữa khoang đặt một cái bàn vuông thiếp vàng. Trên bàn bày một ấm Nghi Hưng, những chén sứ xinh xắn từ thời Thành Hóa, Tuyên Đức. Trà là thứ ngon hạng nhất pha bằng nước mưa. Khách chơi thuyền mang theo rượu, trong khi thuyền từ từ qua sông. Đến tối, mỗi thuyền treo hai cái đèn lồng hình bánh ú, đi đi lại lại, ánh sáng phản chiếu xuống dòng sông. Từ cầu Văn Đức đến cầu Lợi Thiệp, cửa Đông Thủy, đêm đến tiếng sáo tiếng hát không lúc nào ngớt. Lại có những du khách mua thứ “pháo chuột’ ném xuống sông. Khi ném xuống ”pháo chiếu sáng loè từ mặt nước bay lên như những cành hoa lê. Đêm nào cũng vui chơi đến canh tư mới thôi.
Sinh nhật của giám sinh Vũ Thư vào cuối tháng tư. Nhà Vũ thư nghèo, không mời khách được. Đỗ Thiếu Khanh phải sửa soạn các thứ quả, mấy cân rượu, gọi một chiếc thuyền bồng nhỏ cùng Vũ Thư đi chơi ở giữa sông. Từ sáng sớm, Thiếu Khanh đã mời Vũ Thư đến ăn cơm ở cái nhà bên sông. Rồi hai người theo cửa sau xuống thuyền. Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Anh Vũ Thư, chúng ta đến nơi nào yên tĩnh mà chơi đi!
Thiếu Khanh bảo chủ thuyền chèo đến khúc Tiến Hương, rồi lại quay về. Hai người khoan thai uống rượu. Đến chiều, cả hai ngà ngà say. Thuyền đỏ ở cầu Lợi Thiệp, hai người lên bờ nhìn thấy ở bến có một cái biển trên viết “Thẩm Quỳnh Chi” người nữ sĩ ở Tỳ Lăng, thạo nghề thêu thùa viết thơ trên quạt, ở tại bên ao Vương Phủ ngõ Thủ Bạc. Khách hàng nhớ để ý đến “Tỳ Lăng Thẩm”.
Vũ Thư xem xong cười rộ: - Anh Đỗ! Anh thấy ở Nam Kinh có nhiều việc lạ không? Những nơi này chỉ có gái điếm ở thôi. Cô này xem ra cũng là gái điếm thôi, nhưng lại treo biển thì thật là buồn cười!
- Đó là việc người ta, liên quan gì đến mình? Ta cứ trở về thuyền pha trà uống đi!
Hai người xuống thuyền, không uống rượu nữa, pha trà uống rồi nói chuyện suông. Một lát, quay đầu nhìn vầng trăng đã hiện lên, ánh bạc chiếu sáng khắp mạn thuyền. Con thuyền cứ từ từ trôi trên mặt nước, đến ao Nguyệt Nha, thấy bao nhiêu thuyền đang chơi pháo hoa ở đấy. Ở trong số này có một chiếc thuyền lớn, treo bốn cái đèn ú to, đang bày tiệc rượu. Trên thuyền trải một chiếc chiếu. Có hai người khách ngồi ở phía trước, đằng sau là một người ngồi địa vị chủ, đầu đội mũ vuông, mình mặc áo sa trắng, chân đi giày mùa hè, da mặt vàng, gầy gò, râu bạc thưa thớt. Bên cạnh là một chàng thanh niên lún phún mấy sợi râu, da mặt trắng đang liếc ngang liếc ngửa nhìn những cô gái trên các thuyền. Khi chèo lại gần, Đỗ Thiếu Khanh và Vũ Thư nhận ra hai người khách trong thuyền lớn kia là Lư Tín Hầu và Trang Thiệu Quang, còn hai người nữa thì không nhận ra là ai. Trang Thiệu Quang trông thấy hai người liền đứng dậy gọi:
- Anh Thiếu Khanh! Mời anh sang đây chơi!
Đỗ Thiếu Khanh cùng Vũ Thư đi sang cái thuyền lớn, chủ khách chào nhau. Người ngồi địa vị chủ hỏi:
- Cho biết quí tính?
Trang Thiệu Quang nói:
- Vị này là ông Đỗ Thiếu Khanh ở Thiên Trường, vị này là ông Vũ Thư.
Người chủ nói:
- Ông Đỗ! Trước đây có một vị làm Thái thú ở Cống Châu có phải là người nhà của ông không?
Đỗ Thiếu Khanh kinh ngạc nói:
- Thưa đó là cha tôi.
- Cách đây bốn mươi năm tôi cùng ông cụ nhà chơi với nhau suốt ngày. Đứng về mặt ngôi bực mà nói cụ nhà anh là anh họ tôi.
Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Thế cụ có phải là cụ Trang Trạc Giang không?
- Chính tôi.
- Lúc ấy cháu còn bé, cháu chưa dược gặp chú, hôm nay may mắn được gặp.

Đỗ cúi đầu chào Trang Trạc Giang. Vũ Thư hỏi Trang Thiệu Quang:
- Vị này có phải cùng họ với ngài không?
Trang Thiệu Quang cười mà rằng:
- Ông ta là cháu tôi, lại là học trò của phụ thân tôi. Tôi với ông ta xa nhau đã bốn mươi năm nay, gần đây ông ta mới ở Hoài Dương lại.
Vũ Thư nói:
- Còn vị này?
Trang Trạc Giang đáp:
- Đó là con tôi.
Người thanh niên bước ra chào. Tất cả ngồi xuống. Trang Trạc Giang bảo lấy rượu mới ra mời các vị cùng uống. Trang Trạc Giang hỏi:
- Anh Thiếu Khanh đến đây từ bao giờ? Hiện nay anh ở đâu?
Trang Thiệu Quang nói:
- Ông ta ở Nam Kinh đã bảy tám năm nay, hiện nay nhà ở gần sông ...
Trang Trạc Giang kinh ngạc nói:
- Nhà của ông có vườn, nhà nghỉ mát, cây cối vào hạng nhất ở Giang Bắc, tại sao ông lại dời lên đây?
Trang Thiệu Quang kể lại những cử chỉ hào hiệp của Thiếu Khanh, do đó ngày nay tiền bạc hết nhẵn. Trang Trạc Giang khôn xiết thán phục nói:
- Tôi còn nhớ cách đây mười bảy, mười tám năm, khi tôi còn ở Hồ Quảng, ông Vi ở Ô Y có viết cho tôi một bức thư nói rằng tửu lượng của ông ta rất khá, hai mươi năm nay chưa có một bữa nào thật say. Chỉ có một lần ở Tứ Thư Lâu ở phủ Thiên Trường được uống một chum rượu giữ chín năm là say mềm một đêm. Ông ta thích quá nên cách xa ngoài ba ngàn dặm, viết thư cho tôi. Bấy giờ tôi không biết ai là chủ nhân ở phủ ấy. Nay nhắc đến, biết ngay là anh Thiếu Khanh chứ chẳng còn ai vào đấy.
Vũ Thư nói:
- Ngoài ông ấy ra, còn ai dám chơi nhã như thế nữa? Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Bác Vi cũng bạn với chú sao?
Trang Trạc Giang nói:
- Chúng tôi quen nhau từ thời còn để chỏm. Lúc cụ nhà ta còn nhỏ, thật là một vị hiền công tử, không ai không kính trọng. Bây giờ nhìn hình dung, diện mạo ông, tôi nhớ lại như thấy cụ nhà ở trước mặt.
Lư Tín Hầu và Vũ Thư nói đến việc tế ở đền Thái Bá. Trang Trạc Giang vỗ đùi than:
- Tiếc quá! Một việc quan trọng như thế mà mình lại đến chậm không dư được! Thế nào tôi cũng phải tìm một việc gì lớn để hội họp tất cả các vị thì mới thích!
Bốn năm người kể lại chuyện cũ, cùng uống mãi đến nửa đêm. Trước nhà Đỗ Thiếu Khanh ở bên sông, những ngọn đèn lồng ở giữa dòng sông còn le lói; nhưng tiếng đàn, tiếng ca đã dần dần tắt. Chợt bên tai nghe tiếng sáo ngọc, mọi người nói:
- Thôi chúng ta chia tay.

Vũ Thư cũng lên bộ đi về.
Trang Trạc Giang tuy đã già nhưng rất kính cẩn lễ phép với Trang Thiệu Quang. Khi thuyền đến nhà, Đỗ Thiếu Khanh từ biệt về nhà, Trang Trạc Giang tiễn Trang Thiệu Quang đến cầu Cửa Bắc rồi hai người cùng lên bộ. Người nhà cầm đèn lồng đưa Lư Tín Hầu đến nhà Trang Thiệu Quang rồi mới trở về. Trang Thiệu Quang giữ Lư Tín Hầu ở lại một đêm, sáng hôm sau hai người lại ra vườn hoa giữa hồ chơi. Hôm sau Trang Trạc Giang cùng con cầm tờ thiếp rủ Trang Thiệu Quang và con là Phi Hùng đến thăm Đỗ Thiếu Khanh. Thiếu Khanh lại đến cầu Liên Hoa đáp lễ và ở lại nói chuyện một ngày.
Thiếu Khanh cũng đến hồ Hậu Hồ gặp Trang Thiệu Quang, Trang Thiệu Quang nói:
- Anh cháu họ tôi không phải là tay vừa. Cách đây bốn mươi năm anh hùn vốn với một người khác mở một hiệu cầm đồ ở Tứ Châu. Người kia bị sa sút, anh đem tất cả số tiền kiếm được là hai vạn lạng bạc và cả hiệu cầm đồ nhường cho, rồi vai mang hành lý cưỡi một con lừa gầy, ra khỏi Tứ Châu. Mười mấy năm nay, anh buôn bán miền Việt, miền Sở lại kiếm được mấy vạn lạng bạc, dựng lên được sản nghiệp và đến ở Nam Kinh. Anh ngày thường rất tốt với bạn và tôn trọng luân lý. Khi phụ thân anh mất, anh một mình lo việc tang lễ không hề bắt anh em phải chịu một đồng tiền. Có nhiều người bạn quen chết không có họ hàng thân thích thì anh chôn cất giúp. Anh rất kính trọng lời dạy của thầy tôi, rất quí người văn nhân và ham mê không di tích cổ. Hiện nay anh bỏ ra ba, bốn ngàn lạng bạc để xây miếu Tào Vũ Huệ Vương(1) ở núi Kê Minh. Anh Thiếu Khanh! Khi nào miếu làm xong anh nói với anh Hành Sơn lo việc tế lễ giúp anh ta nhé!
Đỗ Thiếu Khanh nghe vậy trong lòng vui vẻ. Nói chuyện xong Thiếu Khanh từ biệt ra về.
Thấm thoắt hạ qua thu tới, gió hiu hắt báo trước mùa lạnh đã về. Cảnh sông Tần Hoài lại thay đổi hẳn. Người Nam Kinh đều thuê thuyền, nhờ các hòa thượng treo tranh đức Phật ở trên thuyền, đặt đàn tụng kinh niệm phật; họ rải những đồ cúng chúng sinh từ cửa Thủy Tây đến mãi quãng sông Tiến Hương. Trong vòng mười dặm, khói hương nghi ngút bay lên như mây mù. Tiếng thanh la, não bạt và tiếng tụng kinh không lúc nào đứt. Đến tối người ta thả những chiếc đèn hoa sen rất đẹp trôi trên sông. Lại có những chiếc thuyền giấy rất lớn để siêu độ những cô hồn lên trời theo thuyết ngày rằm tháng bảy xá tội vong nhân của đạo Phật. Vì vậy, sông Tần Hoài ở Nam Kinh biến thành nước Tây Vực và Thiên Trúc. Vào ngà hai mươi chín tháng bảy, có lễ Địa Tạng ở núi Thanh Lương. Người ta nói rằng Địa Tạng Bồ Tát nhắm mắt quanh năm, chỉ đến đêm hôm ấy mới mở mắt. Nếu thấy nhân dân cả thành phố bày hương hoa đền sáp thì Bồ Tát sẽ cho rằng suốt năm đều như thế, người sẽ phù hộ. Vì vậy đêm ấy khắp Nam Kinh trước cửa nhà nào cũng bày hai cái bàn trên có một cái lư hương và thắp hai ngọn đèn sáp suốt đêm. Trên con đường dài bảy tám dặm từ cầu Đại Trung đến núi Thanh Lương đèn sáng rực như một con rồng bạc.

Mùi hương xông lên ngào ngạt dù gặp gió to cũng không thể thổi bạt đi được. Tất cả con trai con gái trong thành đều ra đốt hương xem hội.
Thẩm Quỳnh Chi ở một cái phòng ở bên ao Vương Phủ, cùng đi ra với vợ chủ nhà để đốt hương. Từ khi Thẩm Quỳnh Chi đến Nam Kinh đến nay cũng có khách đến thuê làm thơ, viết chữ và thêu thùa. Lại có những bọn vô lại gây sự, kẻ này kháo với kẻ khác kéo nhau đến ngắm sắc đẹp của nàng, điều này xảy ra không phải chỉ một hai ngày. Hôm ấy Quỳnh Chi đi đốt hương về, ăn mặc xinh đẹp nên đằng sau có đến hơn trăm người đi theo. Trang Phi Hùng cũng theo sau. Thấy nàng đến bên ao Vương Phủ, trong lòng Phi Hùng nghi hoặc. Hôm sau Phi Hùng đến nhà Thiếu Khanh nói:
- Cô Thẩm Quỳnh Chi ở bên ao Vương Phủ có một bọn vô lại chạy theo trêu thì cô ta mắng lại. Con người này xem ra kỳ lạ lắm. Anh Thiếu Khanh, ta hãy đến đó xem sao?
- Tôi cũng nghe nói thế. Thời này có nhiều người không vừa ý, biết đâu cô ta không phải vì lánh nạn mà đến nơi đây? Tôi cũng định đến hỏi thăm cô ta.
Thiếu Khanh giữ Phi Hùng ở lại nhà bên sông xem trăng non mới lên, lại mời thêm hai người khách nữa là Trì Hành Sơn và Vũ Thư. Sau khi nói chuyện suông một hồi Trang Phi Hùng lại đem việc Thẩm Quỳnh Chi bán thơ ra nói. Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Vô luận cô ta là người như thế nào, nhưng nếu biết thơ văn thì cũng là hiếm có.
Trì Hành Sơn nói: - Anh không biết thành Nam Kinh thế nào ư? Danh sĩ bốn phương ở đây kể không hết, ai còn hơi đâu xem thơ văn của đàn bà làm quái gì? Đó chẳng qua là mượn cớ để làm cái mồi nhử người ta thôi. Có làm được hay không thì cũng mặc người ta!
Vũ Thư nói:
- Việc này cũng lạ! Một người con gái trẻ tuổi, không có bạn bè gì, lại sống bằng cách bán thơ văn, đó là điều không có trên thế gian này! Chắc có ẩn tình gì đây! Nếu cô ta đã biết làm thơ thì tại sao ta không mời cô ta đến làm thơ chơi?
Mấy người nói chuyện và ăn cơm chiều. Mặt trăng lưỡi liềm đã từ lòng sông nhô lên soi sáng trên cầu. Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Anh Vũ Thư! Hôm nay đã muộn rồi. Ngày mai, anh đến nhà tôi ăn cơm sáng, rồi cùng đi thăm cô ta.
Vũ Thư bằng lòng cùng Trì hành Sơn và Trang Phi Hùng từ biệt ra về.
Hôm sau Vũ Thư đến nhà Đỗ Thiếu Khanh. Sau bữa cơm sáng, hai người cùng đến Vương Phủ, chỉ thấy một gian nhà lụp xụp ở trước cửa có hơn chục người đang hò hét om sòm. Vũ Thư và Thiếu Khanh đến gần, thấy ở trong nhà có một cô gái trạc mười tám, mười chín tuổi, đang mắng nhiếc. Tóc cô ta chải theo lối con gái nhà nghèo, người mặc áo sa rộng màu lam, cổ tròn... Đỗ Thiếu Khanh và Vũ Thư nghe một lát mới hiểu có người đến mua những túi thêu đựng hương, nhưng có mấy tên vô lại vô cớ mắng nhiếc họ, và bị Quỳnh Chi mắng cho một trận. Hai người nghe tất cả rồi mới bước vào. Bọn kia thấy hai người vào bèn lảng ra dần.
Thấy hai người thanh nhã khác thường bước vào. Thẩm Quỳnh Chi vội vàng ra kính cẩn vái chào. Sau khi nói mấy câu chuyện, Vũ Thư nói:
- Ông Đỗ Thiếu Khanh đây là thi bá trong thi đàn, hôm qua chúng tôi nghe nói cô thơ hay cho nên đến đây thỉnh giáo.
- Tôi tới Nam Kinh đã hơn nửa năm nay. Ai đến đây nếu không cho tôi là con gái giang hồ thì cũng nghi là bọn trộm cắp. Những người như thế tôi không thèm chấp. Hôm nay hai vị đến đây không có ý dọa nạt tôi, cũng không nghi ngờ tôi. Tôi thường nghe cha tôi nói: “Danh sĩ Nam Kinh tuy nhiều nhưng chỉ có ông Đỗ Thiếu Khanh là người hào kiệt” Câu nói đó quả không lầm. Nhưng tôi không biết ông lên đây chơi hay là cả phu nhân cũng lên ở Nam Kinh?
- Nhà tôi cũng lên Nam Kinh với tôi, hiện nay ở cái nhà bên bờ sông.
- Nếu vậy tôi đến quí phủ thăm phu nhân, kể lại tâm sự của tôi có được không?

Đỗ Thiếu Khanh vui lòng nhận lời cùng Vũ Thư từ biệt đi ra.
Vũ Thư nói với Thiếu Khanh:
- Theo tôi, cô ta quả là một người lạ! Nếu cô ta là hạng giang hồ thì tại sao không có chút gì dâm đãng. Nếu là hạng tỳ thiếp chạy trốn, thế tại sao không có chút gì tỏ ra hèn hạ? Tôi thấy cô ta tuy là hạng đàn bà nhưng vẫn cóvẻ hào hiệp. Cô ta ăn nói đơn giản, bề ngoài có vẻ thuỳ mị nhưng nhìn hai cánh tay thì phải là tay thạo nghề quyền thuật. Cố nhiên ở thời bây giờ cũng vị tất đã có những người hiệp nữ như Sa Trung Nữ Tử, Hồng Tuyến trong tiểu thuyết đời Đường,(2) nhưng tôi cho cô ta là một người bị bạc đãi hành hạ nên trốn nhà ra đi. Khi nào cô ta đến chơi, anh thử hỏi xem con mắt nhận xét của tôi có đúng không?
Đang nói chuyện, hai người đã đến cửa nhà Đỗ. Nhìn thấy bà Diêu đang đeo một cái giành hoa đi lại, Đỗ nói:
- Bà Diêu! Bà đến đúng lúc quá. Hôm nay tôi có một người khách lạ, bà ở đây mà xem.
Đỗ mời Vũ Thư vào nhà ngồi và cùng bà Diêu vào nói chuyện với vợ. Một lát sau, Thẩm Quỳnh Chi đi kiệu đến. Đỗ Thiếu Khanh mời vào nhà trong, ở đấy vợ Đỗ tiếp và mời uống trà. Thẩm Quỳnh Chi ngồi ghế khách, bà Đỗ ngồi ghế chủ, bà Diêu ngồi tiếp. Đỗ Thiếu Khanh ngồi bên cửa sổ. Sau mấy câu chuyện suông bà Đỗ hỏi:
- Cô Thẩm! Tôi thấy cô còn trẻ như thế tại sao lại ở đây một mình nơi đất khách? Cô có ai là bầu bạn không?
Trong nhà ta ông cụ bà cụ vẫn còn cả chứ? Cô đã hứa hôn với ai chưa?
- Cha tôi bao nhiêu năm đi dạy học ở xa, mẹ tôi đã qua đời. Từ bé, tôi có học qua nghề thêu thùa cho nên đến Nam Kinh làm nghề đó để sinh sống. Vừa rồi, tôi được Đỗ tiên sinh hạ cố đến nhà và hẹn tôi lại đây chơi, nay lại được phu nhân tuy mới gặp lần đầu nhưng đã xem như người thân, thật là người tri kỷ ở nơi góc biển chân trời!
Bà Diêu nói:
- Cô Thẩm thêu đẹp tuyệt trần! Hôm qua con được xem bức tranh thêu “Quan Âm tống tử” ở nhà ông Cát Lai Quan ngay trước cửa nhà ta. Bà Cát mới mua về, nói là của cô thêu. Thực là không bức tranh nào đẹp bằng!
Thẩm Quỳnh Chi nói:
- Tôi làm liều đấy, nó chỉ mua cười mà thôi. Bà Diêu đi ra. Thẩm Quỳnh Chi quì dưới chân bà Đỗ, Bà Đỗ hoảng sợ đỡ dậy. Thẩm Quỳnh Chi đem chuyện tên buôn muối lừa bắt làm thiếp và nàng mang theo đồ tế nhuyễn rồi trốn đi như thế nào kể lại một lượt.
- Tôi chỉ sợ hắn theo dõi, tìm ra tung tích. Vậy xin phu nhân cứu tôi với!
Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Bọn buôn muối giàu có, xa hoa, nhiều bọn sĩ đại phu thấy vậy mà kinh hồn hoảng vía. Nàng là một người con gái yếu đuối lại coi chúng như cỏ rác, thực là đáng kính vô cùng. Cố nhiên, hắn sẽ dò la tung tích, tai họa của nàng ắt không xa. Nhưng cũng không có gì mà phải lo lắm.
Vừa lúc ấy, thì một người đầy tớ vào báo với Thiếu Khanh.
- Ông vũ muốn nói gì với ông.
Đỗ đi ra phòng ngoài, thấy hai người buông thõng tay đang đợi ở cửa giống như hai sai nhân. Đỗ giật mình hỏi:
- Các anh ở đâu đến? Làm sao lại vào mãi đây?
Vũ Thư nói:
- Tôi bảo họ vào đấy! Lạ quá! Quan huyện Giang Đô có giấy bắt cô ta bảo rằng cô ta là nàng hầu của người buôn muối họ Tống trốn đi. Anh thấy tôi xét có đúng không?
- Cô ta hiện nay ở trong nhà tôi. Nếu tôi đưa ra chả hóa ra tôi gây ra việc này sao? Việc này mà truyền đến Dương Châu thì người ta sẽ cho rằng tôi đã giấu cô ta trong nhà. Cô ta trốn hay không cái đó không quan hệ gì đến tôi, nhưng giao cô ta cho sai nhân thì không được.
Vũ Thư nói:
- Vì vậy tôi mới bảo sai nhân vào đấy! Anh Thiếu Khanh ạ. Bây giờ tốt nhất là đưa cho họ một tí tiền, bảo trở về bên ao Vương Phủ. Khi nào cô ta về nhà hãy bắt.

Thiếu Khanh nghe lời Vũ Thư thưởng cho sai nhân bốn đồng cân bạc, sai nhân ra đi, không dám trái lời. Đỗ Thiếu Khanh lại vào nói với Thẩm Quỳnh Chi. Vợ Đỗ và bà Diêu rất kinh hoảng. Thẩm Quỳnh Chi đứng dậy nói:
- Cái đó không can gì. Sai nhân đâu rồi? Tôi xin cùng đi với họ.
Đỗ Thiếu Khanh nói: - Tôi đã bảo sai nhân đi rồi. Cô hãy ở đây ăn cơm. Ông Vũ Thư có một bài thơ muốn tặng cô. Cô hãy đợi ông ta viết xong đã.
Thiếu Khanh bảo vợ và bà Diêu ngồi tiếp, còn mình ra phòng ngoài lấy một tập thơ đã khắc cùng với bài thơ của Vũ Thư và cân bốn lạng bạc gói lại bảo người đầy tớ đưa cho bà Đỗ biếu Thẩm Quỳnh Chi gọi là món quà khi chia tay.
Thẩm Quỳnh Chi từ biệt lên kiệu đi thẳng về ngõ Thủ Bạc. Hai tên sai nhân đứng sẵn trước cửa cản lại:
- Cô muốn đi kiệu hay là đi bộ theo chúng tôi? Cô không cần phải vào nhà làm gì?
- Các ông ở nha môn quan huyện đến hay ở nha môn quan tuần, quan án đến? Tôi không phải là người phạm pháp, lại không phải là can án gì quan trọng, lẽ nào các ông lại ngăn cản tôi không cho tôi về nhà? Cái lối dọa nạt của các ông chỉ dọa được những người nhà quê ngờ nghệch mà thôi!
Nói xong Quỳnh Chi xuống kiệu khoan thai bước vào nhà. Hai người sai nhân phải để cho nàng đi.
Sau khi đã mang theo tập thơ và tiền bạc bỏ trong một cái hộp nữ trang, Quỳnh Chi đi ra, nói:
- Phu kiệu! Cáng tôi lên quan huyện!
Phu kiệu đòi tiền thêm. Sai nhân vội vàng nói:
- Này cô! Ai sai đâu thì sai chứ bọn “sai nhân” thì không"nói sai" đâu đấy! Chúng tôi dậy từ sáng sớm đứng đợi nửa ngày trước nhà ông Đỗ. Lại muốn giữ thể diện cho cô, chúng tôi để cô đi kiệu về nhà. Cô là đàn bà con gái lẽ nào lại không biết đến việc thết chúng tôi hay sao?
Biết rằng bọn sai nhân đòi tiền, nàng không thèm để ý chỉ cho những người khiêng kiệu thêm hai mươi bốn đồng tiền bảo họ đưa nàng đến huyện. Bọn sai nhân không biết nói sao, chạy vào huyện bẩm:
- Chúng con đã mang Thẩm thị về đây.
Tri huyện nghe nói, sai gọi đến công đường để hỏi. Khi dẫn lên, tri huyện nhìn diện mạo cũng khá bèn hỏi:
- Nàng đã là đàn bà tại sao không chịu ở trong chốn buồng the lại lấy trộm vàng bạc nhà họ Tống rồi trốn đến ở huyện ta làm gì?
Thẩm Quỳnh Chi nói: - Tống Vi Phú ép buộc con gái nhà lương thiện làm thiếp, cha tôi đi kiện ông ta, ông ta đút tiền cho quan nên cha tôi thua kiện. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Vả chăng, tôi tuy bất tài cũng biết qua dăm ba chữ. Tại sao một người con gái có thể lấy Trương Nhĩ lại đi làm nô tỳ cho Ngoại Hoàng?(3) Vì vậy cho nên tôi bỏ trốn. Đó là sự thực.
- Việc này là việc tri huyện Giang Đô ta không xét? Nếu nàng biết chữ, vậy có thể làm một bài thơ ngay trước mặt ta không.
- Xin quan cứ ra đề để tôi được thỉnh giáo.
Tri huyện liền chỉ cây hoè ở dưới sân:
- Lấy cây hoè làm đầu đề.
Thẩm Quỳnh Chi không chút sợ sệt, ngâm một bài thơ bát cú, đã lanh lại hay. Tri huyện tán thưởng, sai người mang hành lý của nàng để ở ngoài sân vào khám xét. Khi mở hộp đồ trang sức thấy một gói bạc vụn, một cái gói trên viết “món quà lên đường’ trong có một quyển sách, một quyển thơ. Tri huyện xem xong, biết nàng đã xướng họa với các danh sĩ ở Nam Kinh. Y viết công văn và dặn sai nhân:
- Chúng bay mang Thẩm Quỳnh Chi đến huyện Giang Đô. Trên đường đi phải săn sóc cô ta, không được gây sự, đến nơi phải lấy giấy chứng nhận đem về đây.
Tri huyện này là bạn đồng khoa với tri huyện Giang Đô, y bí mật viết một cái thơ kèm vào tờ công văn dặn tri huyện tha nàng, trả về với cha nàng để nàng lấy chồng khác.
Thẩm Quỳnh Chi và hai sai nhân ra khỏi huyên. Nàng thuê kiệu đến ngoài cửa thủy Tây, xuống thuyền đi Nghi Hoàng là người giàu và ngốc, sau người ấy lấy Trương Nhĩ được phong làm Triệu Vương.
Trưng. Sai nhân để hành lý ở đầu thuyền và nằm nghỉ ở đấy. Thẩm Quỳnh Chi ở khoang trong. Nàng vừa ngồi xuống thì thấy có một chiếc thuyền bồng chờ hai người đàn bà đến, một người trạc hăm sáu, hăm bảy, một người trạc mười bảy, mười tám. Họ ăn mặc mộc mạc, nhưng điệu bộ có vẻ lẳng lơ. Người đàn ông đi theo đội mũ lông chiên đã rách, mặt đỏ như say rượu, lông mày rậm. Y mang hành lý đưa vào khoang. Hai người đàn bà cùng ngồi cạnh Quỳnh Chi và hỏi:
- Cô đi đâu? - Tôi đi Dương Châu. Có lẽ cùng đi một đường với hai chị.
Người đàn bà lớn tuổi hơn nói: - Chúng tôi đến Nghi Trưng không đi Dương Châu. Một lát sau, người chủ thuyền đòi tiền. Hai người sai nhân nhổ toẹt một cái và đưa công văn ra:
- Coi này! Cái gì đây! Chúng tôi đi việc công không hỏi tiền anh là may rồi! Anh còn hỏi tiền chúng tôi sao?

Chủ thuyền không dám hỏi tiền nữa. Quay lại hỏi tiền những người khác. Thuyền đỗ ở mỏm Yến Tử. Trong đêm đó, gió tây nam thổi, sáng sớm, thuyền đến bến Hoàng Nê. Sai nhân đòi tiền Thẩm Quỳnh Chi.
Quỳnh Chi nói: - Hôm qua tôi nghe rõ ràng các anh nói là việc công không phải trả tiền đò kia mà!
Sai nhân nói:
- Cô Thẩm! Cô cay nghiệt vừa vừa chứ! Chúng tôi giữ chùa thì ăn oản chứ! Nếu ai cũng như cô cả, không chịu mất một đồng nào thì chúng tôi hớp gió mà sống à!
Thẩm Quỳnh Chi nghe vậy nói:
- Tôi không cho các anh tiền, các anh làm gì tôi?
Nàng ra khỏi khoang, nhảy lên bờ, hai chân nhỏ xíu chạy như bay. Sai nhân vội vàng xách hành lý chạy theo, nhưng khi vừa túm được thì liền bị mấy cái đấm ngã hẳn xuống đất. Khi họ đứng dậy thì nàng kêu la ầm ĩ đến nỗi cả chủ thuyền và người đội mũ lông chiên rách phải chạy lại can và thuê cho nàng một cái kiệu. Hai tên sai nhân lẽo đẽo chạy theo.
Người đội mũ lông chiên kia đưa hai người đàn bà đi qua đập Đầu Dạo, thẳng đến ngõ Phong Gia. Vương Nghĩa Ân ra đón nói:
- Cô Tế và Cô Thuận đến đấy phải không? Ông Lý thân hành dẫn đến đây chứ. Công việc làm ăn ở cửa Thủy Tây ở Nam Kinh gần đây ra sao?
Lý Lão Tứ nói:
- Gần đây bọn con hát ở cầu Hoài Thanh nó phá đám nên phải chạy đến nhờ ông đây.
- Tốt lắm! Ở đây đang thiếu hai người!
Vương nghĩa An đưa hai người gái điếm vào một cái nhà tranh ba gian có phên ngăn ra từng buồng, đằng sau có một cái bếp. Một người đang rửa tay ở đấy. Nhìn thấy hai người gái điếm, y vui mừng khôn xiết. Chỉ nhân phen này khiến cho:
Trong làng hoa nguyệt, chỉ ưa cậy thế khoe quan,
Giữa đám bút nghiên, có lúc vì hoa nể liễu.
Muốn biết việc sau thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

----------------------
(1) Tào Bân danh tướng đời Tống lúc chết được phong làm Huệ Vương.
 (2) Hai nữ hiệp ở trong tiểu thuyết đời Đường. Xa Trung Nữ Tử có thuật phi hành nhanh như bay, cứu người trong chốn ngục sâu. Hồng Tuyến đã từng đêm khuya lẩn vào nhà hào phù lấy trộm hộp vàng bên gối nó. Từ đó nhà hào phú sợ không dám giết hại người nữa.
 (3) Thời chiến quốc, có một người đàn bà không chịu lấy Ngoại

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 149
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com