watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
11:36:4118/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50 - Trang 12
Chỉ mục bài viết
Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 12 trong tổng số 14

Hồi 46

Cửa Tam Sơn người hiền tiễn biệt
Huyện Ngũ Hà thế lợi nức lòng

Sau khi đã chôn cất cha mẹ, Dư Hữu Đạt bàn với em rằng mình muốn trở lại Nam Kinh để cảm ơn Đỗ Thiếu Khanh và tìm một chỗ dạy học vì tiền bạc đã hết. Hữu Đạt thu xếp hành lý quan sông Dương Tử đến nhà Thiếu Khanh ở bên bờ sông, Thiếu Khanh hỏi về vụ án, Hữu Đạt kể lại tỉ mỉ mọi việc xảy ra, Thiếu Khanh hết sức thán phục Dư Hữu Trọng. Hai người đang nói chuyện thì ở ngoài có người vào báo rằng cụ Thang ở Nghi Trưng đến chơi. Dư hỏi cụ Thang là ai. Thiếu Khanh nói:
- Cụ chính là người đã nhờ anh dạy con học. Anh cũng nên gặp cụ một chút.
Hai người đang nói chuyện thì Thang tổng trấn vào, vái chào rồi ngồi xuống. Thang nói:
- Ông Thiếu Khanh! Ngày tôi được hân hạnh gặp ông ở nhà ông Ngu, bỗng nhiên, bao nhiêu thói xấu xa quê mùa của tôi đều tiêu tan hết. Tôi liền đến nhà ông, nhưng không được gặp làm cho tôi chờ đợi suốt ngày. Vị này là ai?
- Đó là người anh họ của tôi là Dư Hữu Đạt, năm ngoái bác có mời anh ấy đến dạy học.
Thang cười vang mà rằng:
- May mắn quá, không ngờ lại được gặp một vị hiền sĩ ở đây. Thật là hân hạnh.
Thang đứng dậy vái chào một lần nữa rồi ngồi xuống. Dư Hữu Đạt nói:
- Ngài đã khó nhọc đối với xã tắc, nay lại về nhà ở ẩn, không hề nhắc đến công lao của mình. Thực là phong thái của những vị tướng ngày xưa.
Thang đáp:
- Đó chẳng qua là tình thế bắt buộc, không thể nào làm khác. Ngày nay nghĩ lại, thấy mình không quá nóng nảy chưa làm được việc gì có ích cho triều đình chỉ làm cho các quan trường thêm tổ ghét. Nhưng nay hối cũng muộn rồi.
Dư Hữu Đạt nói:
- Ngài làm việc như thế nào thiên hạ đều biết cả. Ngài không cần phải khiêm tốn quá đáng như vậy.
Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Bác đến Nam Kinh lần này có việc gì? Hiện nay bác ở đâu?
- Ở nhà không có việc gì tôi mới lên Nam Kinh để được gặp các vị danh sĩ. Hiện nay tôi ở nhà Thừa Ân. Tôi định đến chào Ngu bác sĩ, Trang thiệu Quang và người cháu của ông.

Uống trà xong, Thang từ biệt đi ra, hai người tiễn Thang lên kiệu, Dư Hữu Đạt ở tạm tại nhà Đỗ Thiếu Khanh. Nhưng khi Thang tổng trấn đến trường Quốc Tử Giám và đưa danh thiếp vào thi Ngu bác sĩ không ở nhà. Thang lại đến cầu Bắc Môn thăm Trang Trạc Giang. Trang liền mời vào. Thang xuống kiệu và đi vào nhà khách. Chủ nhân đi ra, hai người vái chào ngồi xuống, đều nói mình mấy lâu ngưỡng mộ nay mới gặp. Thang nói ý định muốn đến thăm Trang Thiệu Quang ở Hậu Hồ.
Trang Trạc Giang nói: - Chú tôi hiện nay ở đây. Ông có muốn gặp không? - Thế thì còn gì hơn nữa!
Trang Trạc Giang bảo người nhà mời Trang thiệu Quang ra. Trang Thiệu Quang ra chào Thang tổng trấn rồi ngồi xuống. Mấy người lại uống một lượt trà, Trang Thiệu Quang nói:
- Lần này cụ đến đây vừa đúng lúc ông Ngu sắp đi nơi khác. Ngày trùng cửu gần đến, tại sao chúng ta không hội họp một buổi nhân tiện tiễn ông Ngu, lại vui chơi được một ngày tròn.
Trang Trạc Giang nói:
- Hay lắm! Đến ngày ấy chúng ta có thể gặp nhau ở đây.
Thang tổng trấn ngồi một lát rồi đứng dậy ra về, nói:
- Vài hôm nữa vào ngày họp, tôi sẽ đến. Chúng ta sẽ nói chuyện suốt cả ngày.
Hai người tiễn Thang ra cửa. Thang lại đến thăm Trì Hành Sơn và Vũ Thư. Trang Trạc Giang sai đầy tớ đem năm lạng bạc đến nhà trọ của Thang để thay cho bữa tiệc. Ba ngày sau người quản gia của Trang Trạc Giang mang giấy mời các vị khách đến sớm. Trạc Giang ngồi ở nhà đợi. Thiệu Quang cũng đã ở đấy. Một lát sau, Vũ Thư, Trì Hành Sơn và Đỗ Thiếu Khanh đều đến. Trang Trach Giang sai dọn dẹp một gian phòng rộng, bốn phía đều trồng hoa cúc. Bấy giờ là mồng năm tháng chín, trời trong sáng, mọi người mặc áo kép, vừa ngồi nói chuyện vừa uống trà. Một lát sau, Thang đô đốc, Tiêu thủ bị và Ngu bác sĩ đến. Mọi người đón chào. Thi lễ xong, tất cả ngồi xuống Thang nói:
- Chúng ta đều là những kẻ chân trời góc bể, nay may mắn được chủ nhân mời đến gặp nhau ở đây, thực là duyên nợ ba sinh! Chỉ tiếc rằng ông Ngu chẳng bao lâu nữa sẽ đi. Cuộc gặp gỡ như thế này chẳng biết bao giờ lại có.
Trang Trạc Giang nói:
- Các vị là những bậc kỳ tài, hôm nay đến đây thực là vinh dự cho nhà chúng tôi. Quả thực những người hiền nhân năm trăm dặm xung quanh bây giờ đều ở đây cả!
Mấy người ngồi xuống, người nhà bưng trà lên. Nhìn nước trà trong như nước lã, nhưng hương đặc biệt thơm, váng trắng nổi trên mặt nước. Sau đó lại uống trà Thiên Đô. Trà này tuy cất đã một năm nay nhưng hương lại càng thơm hơn. Ngu bác sĩ uống trà, mỉm cười hỏi:
Lúc ở trong quân ngũ, tôi chắc hai vị không bao giờ thấy thứ trà như thế này.
Tiêu Vân Tiên nói:
- Không những ở trong quân ngũ mà thôi, suốt cả sáu năm ở thành Thanh Phong, tôi cho được uống nước lã đã là may mắn rồi. Nó còn hơn nước đái ngựa.
Thang tổng trấn nói:
- Bấy giờ ở thành Thanh Phong có đủ nước và cỏ cho quan sĩ sống mấy năm.
Trang Thiệu Quang nói:
- Ông Tiêu có thể sánh với Thôi Hạo thời Bắc Ngụy(1) được.
Trì Hành Sơn nói:
- Mỗi thời mỗi khác! Ngày nay hoàn cảnh khác trước.
Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Những người tế tướng phải là những người đọc sách đã đành, nhưng tướng soái cũng cần phải là những người đọc sách. Nếu không có học thức, Tiêu tiên sinh làm gì có được những công lao to tát như vậy!
Vũ Thư cười mà rằng:
- Tôi thấy cái này rất buồn cười: vị tướng ở biên cương không biết có nước và có thể mà hạng thư biện khi tính đến việc đó lại biết là có. Vậy thì đó là quan thượng thư có học vấn hay là hạng thư biện có học vấn?

Nếu các quan thượng thư có học vấn thì triều đình trọng văn khinh võ cũng là phải. Nhưng nếu việc này lại chính là do bọn thư biện tính toán, thì cũng thấy rõ phép tắc tính toán không thể thay đổi được.
Nói đến đây, tất cả đều cười rộ. Nhạc dừng lại, mọi người ngồi vào bàn tiệc. Những người diễn tuồng đến chào. Trang Phi Hùng đứng dậy.
- Hôm nay các vị đến đây, con có thuê mười chín người hát tuồng nổi danh ở trong bảng “Lê Viên”. Xin các vị mỗi người chọn một đoạn để diễn.
Ngu bác sĩ hỏi:
- Bảng “Lê Viên” là bảng gì?
Dư Hữu Đạt kể lại câu chuyện phong lưu năm xưa của Đỗ Thận Khanh. Mọi người cười vang. Thang hỏi Đỗ Thiếu Khanh:
- Người anh họ của ông đã được tuyển vào bộ chưa?
Đỗ Thiếu Khanh trả lời:
- Đã!
Vũ Thư nói:
- Sự đánh giá của ông Thận Khanh có thể nói bao giờ cũng công bình và đúng đắn. Nhưng tôi chỉ sợ sau khi làm quan, làm chủ khảo, biết đâu ông ta sẽ quáng mắt trước những màu sắc chói lọi cũng nên.
Mọi người lại cười. Họ ăn tiệc suốt cả ngày, khi tất cả các vở tuồng đều diễn xong, đến hoàng hôn tiệc mới tan. Trang Trạc Giang nhờ một họa sĩ vẽ một bức tranh “Đăng cao tống biệt”(2) ghi lại cuộc tiễn biệt hôm ấy và tất cả mọi người đều đề thơ. Sau đó mọi người lần lượt đến nhà Ngu bác sĩ để tiễn biệt.
Hơn một ngàn gia đình ở Nam Kinh đã đến tiễn Ngu bác sĩ. Ngu cảm thấy mệt quá, cho nên không để ai tiễn mình xuống thuyền. Hôm ấy, Ngu thuê một chiếc thuyền con, cắm sào ở Thủy Tây chỉ để một mình Đỗ Thiếu Khanh tiễn xuống thuyền. Thiếu Khanh bái biệt và nói:
- Chú đi rồi, cháu sẽ không còn có ai nương tựa.
Ngu bác sĩ cũng buồn rầu khôn xiết, mời Đỗ vào khoang thuyền, nói:
- Anh Thiếu Khanh, tôi không giấu gì anh, tuy tôi là anh học trò nghèo nhưng sáu bảy năm nay làm bác sĩ ở Nam Kinh, tôi đã để dành mỗi năm được mấy lạng bạc đủ để mua một thửa uộng, một năm kiếm được ba mươi gánh gạo. Lần này tôi có thể được bổ vào bộ, hoặc bổ đi các châu các huyện. Tôi sẽ làm nhiều là ba năm, ít là hai năm, để dành một ít tiền, mua thêm một thửa ruộng, một năm được thêm hai chục gánh gạo. Như thế vợ con tôi không phải chết đói là đủ lắm rồi. Còn về việc con cháu, tôi cũng không để ý đến. Hiện nay, ngoài việc dạy chữ cho con, tôi còn dạy thuốc cho nó để nó kiếm ăn sau này. Tôi thích gì làm quan? Anh ở Nam Kinh, tôi sẽ gửi thư cho anh luôn.
Hai người gạt lệ chia tay. Đỗ lên bờ chờ cho thuyền của Ngu bác sĩ đi khuất, mới quay về nhà. Dư Hữu Đạt đang ngồi ở đó. Đỗ kể lại những câu Ngu bác sĩ vừa dặn. Dư Hữu Đạt thở dài mà rằng:
- Không thích làm quan, chỉ thích rút lui, ông Ngu thực là một người quân tử. Nếu chúng ta có ra làm quan chúng ta phải bắt chước ông ta.

Hai người tán thưởng một hồi. Chiều hôm ấy. Hữu Đạt nhận được thư của em, thư viết:
 “Thầy học ở nhà Ngu Lương em họ của chúng ta này đã đi nơi khác. Ông ta muốn nhờ anh dạy con ông ta. Xin anh về ngay”.
Dư Hữu Đạt nói cho Đỗ Thiếu Khanh biết rồi từ biệt. Hôm sau Hữu Đạt mang hành lý qua sông, Đỗ Thiếu Khanh tiễn Hữu Đạt sang sông mới trở về.
Hữu Đạt qua sông về nhà. Người em ra đón và đưa cho anh xem bức thư viết:
 “Em họ là Ngu Lương kính mời anh Dư đến dạy cho đứa con của em, mỗi năm tiền công bốn mươi lạng bạc lễ tết không kể.
Dư Hữu Đạt xem xong, hôm sau đến nhà Ngu Lương, Ngu ra đón trong lòng mừng rỡ. Hai người vái chào và ngồi xuống. Người đầy tớ mang trà ra. Ngu Lương nói:
- Cháu nó ngu ngốc, thất học từ nhỏ. Mấy năm nay, em muốn nhờ anh dạy cho cháu, nhưng anh cứ ở xa. Nay anh về đây thực là may mắn cho cháu. Gia đình anh và gia đình em, người thi đỗ ở tỉnh và ở kinh chở hàng xe không hết chẳng phải hiếm hoi gì. Em chỉ mong cháu học được phẩm hạnh của anh, mới là có ích hơn nhiều.
- Anh vốn già và vụng. Hai gia đình ta mấy đời họ hàng với nhau nhưng chỉ có em là tâm đầu ý hợp với anh. Con của em cũng như con của anh cố nhiên anh phải hết lòng dạy dỗ. Về việc nó có đỗ cử nhân tiến sĩ hay không thì ngay bản thân anh cũng chưa đỗ bao giờ, chưa chắc anh đã làm được. Còn về phẩm hạnh và văn chương thì cháu vẫn có nề nếp gia giáo, anh cũng không phải lo đến việc đó.
Hai người đều cười, định ngày tốt mời thầy đến khai trường. Sáng hôm ấy Hữu Đạt dậy thật sớm, đứa con của Ngu Lương ra chào. Nó rất thông minh. Chào xong Ngu đưa nó đến lớp học, Hữu Đạt ngồi ghế thầy. Ngu Lương cáo từ và vào thư phòng. Ngu đang ngồi thì người giữ cửa đưa một người khách đến. Người này là anh ruột của Đường Tam Đàm, tên là Đường Nhị Bồng Thuỳ. Trong khoa thi trước y đỗ cử nhân văn và trước đây cũng vào trường một năm với Ngu Lương. Nhân hôm ấy trong nhà mới nuôi thầy, Đường cũng đến để tiếp thầy học. Ngu Lương giữ Đường Nhị ngồi lại uống trà. Đường Nhị hỏi:
- Hôm nay cháu bắt đầu học phải không?
- Vâng.
- Ông thầy này học rất giỏi, nhưng thiếu kiên nhẫn, lại thích những thứ học nhảm, mà sao lãng việc chính. Còn về việc thi cử, tuy ông không bắt chước thói xấu của bọn học trò ngày nay, nhưng lại muốn theo đòi những nho sĩ thời khai quốc. Như thế cũng đều là quá đáng!
- Cháu nó còn nhỏ quá chưa lo việc thi cử được. Tôi mời anh Dư đến cốt để dạy cho cháu đạo đức, đừng bắt chước bọn tiểu nhân, chạy theo thế lợi, như thế là đủ.
Một lát sau Đường Nhị nói:
- Anh Ngu, tôi có một điều muốn hỏi con người thông thạo cổ học như anh.
- Tôi nào có thông thạo cổ học gì đâu? Anh đùa tôi đấy phải không?
- Không phải đùa đâu. Tôi muốn hỏi thực anh đấy mà! Trong kỳ thi trước đây tôi may mắn đỗ. Tôi có một người cháu, nhà ở phủ Phụng Dương, anh ta cũng thi đỗ ở phủ Phụng Dương. Như thế là cùng đỗ một bảng lại là bạn học. Từ khi anh ta đỗ rồi, chưa bao giờ anh ta đến huyện. Nhưng nhân việc tế tổ, nên hôm qua anh đến nhà tôi, đưa tờ danh thiếp viết: “cháu và bạn học”. Nay tôi đến thăm lại, có nên viết “Chú và bạn học” hay không?

- Anh muốn nói gì vậy?
- Anh không nghe sao? Người cháu cùng đỗ một bảng với tôi, cũng do một quan chấm thi lấy đỗ, viết: “Cháu và bạn học” bây giờ tôi nên viết danh thiếp thế nào?
- Cố nhiên hai người cùng được một quan giám khảo lấy đỗ cả thì gọi nhau là “bạn học”. Nhưng viết chữ “cháu và bạn học” thì nó quái gở, ngớ ngẩn thế nào ấy?
- Tại sao lại ngớ ngẩn?
Ngu ngẩng mặt lên trời cười mà rằng:
- Từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ nghe một việc lạ như thế này.
Đường Nhị biến sắc mặt nói:
- Anh không nên giận tôi! Mặc dầu anh là con nhà gia thế, nhà anh có nhiều người thi đỗ, nhưng anh chưa thi đỗ. Có lẽ anh không rõ những nghi lễ trong quan trường. Người cháu của tôi đã gặp nhiều cụ lớn ở kinh, anh ta viết như vậy chắc là có duyên cớ, không thể nói là viết bừa được.
- Nếu anh đã cho như thế là đúng thì anh hỏi tôi làm gì?
- Anh không hiểu. Đợi ông Dư ra đây ăn cơm, tôi sẽ hỏi.
Đang nói chuyện thì người đầy tớ vào bẩm:
- Ông Diêu thứ năm vào thăm.
Cả hai đứng dậy, Diêu bước vào vài chào và ngồi xuống. Ngu Lương nói:
- Anh Năm, hôm qua sau bữa cơm anh đi đâu? Buổi chiều rượu đã sẵn sàng cả nhưng anh không tới.
Đường Nhị nói:
- Ông Năm, hôm qua ông ăn cơm ở đây sao? Chiều qua tôi gặp ông thì nói rằng ông vừa ăn cơm với cụ Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân xương”. Tại sao ông lại nói dối như vậy?
Người đầy tớ đem cơm ra, mời Dư Hữu Đạt ăn. Dư ngồi ghế đầu. Đường Nhị ngồi đối diện, Diêu ngồi ghế khách, chủ nhân ngồi tiếp. Ăn cơm xong, Ngu cười đem chuyện danh thiếp ra kể lại với Dư Hữu Đạt. Dư mặt đỏ gay, gân cổ nổi lên nói:
- Ai dám nói như vậy? Tôi hỏi ở trên đời việc tổ tiên, cha ông quan trọng hơn hay việc công danh quan trọng hơn?
Ngu nói:
- Cố nhiên là việc tổ tiên quan trọng hơn. Cái đó không cần bàn nữa!
Dư Hữu Đạt nói:
- Nếu vậy tại sao vừa mới đỗ cử nhân lại vứt tổ tiên đi, gọi chú là bạn học? Như thế là có tội với đạo đức luân lý. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy điều đó. Ông ta có đỗ cử nhân cũng là một anh dốt đặc cán mai. Nếu cháu tôi mà như vậy thì tôi lôi ra trước bàn thờ tổ tiên đánh cho mấy chục gậy!
Đường Nhị và Diêu thấy Dư Hữu Đạt nóng mặt, biết rằng Dư nổi giận nên nói lảng sang chuyện khác.
Một lát sau uống trà xong, Dư trở lại lớp học. Diêu đứng dậy nói:
- Tôi đi chơi một lát rồi sẽ trở lại.
Đường Nhị nói:
- Hôm nay đi ra chắc ông sẽ nói vừa ăn cơm với cụ Bành thứ hai.
Diêu cười mà nói:
- Hôm nay tôi ngồi tiếp thầy học ở đây, ai mà chẳng biết, không thể nói tôi ăn cơm đâu được.
Diêu cười và đi ra, một lát quay trở lại nói:
- Ông Ngu, ở ngoài sảnh có người khách đến thăm. Ông ta nói ở nha môn quan phủ đến. Hiện nay ông ta đang ngồi đợi ngoài nhà khách. Ông mau ra mà tiếp.
- Ông ta ở đâu? Tôi chẳng quen biết bao giờ. Đang lúc phân vân thì người đầy tớ đưa danh thiếp vào. Danh thiếp đề: “Bà con và bạn học là Quí Vi Tiểu đến thăm

Ngu Lương ra ngoài sảnh tiếp. Quý Vi Tiêu vái chào ngồi xuống rồi đưa ra một bức thư mà rằng:
- Tôi ở Bắc Kinh lại. Tôi nhân cùng quan phủ đến huyện này, người anh họ của ông là ông Đỗ Thận Khanh có nhờ tôi mang bức thư cho ông. Hôm nay được gặp ông đây, thực là hân hạnh.
Ngu Lương cầm bức thư giở ra xem, hỏi:
- Ông có phải là bạn với Lệ tri phủ ở phủ tôi không?
- Lệ tri phủ là học trò của bác tôi là cụ Tuân. Vì vậy ông ta mời tôi đến làm việc trong nha môn.
- Ông đến đây có việc gì?
- Ở đây chẳng có ai, tôi có thể nói cho ông biết. Lệ tri phủ nhận thấy những hiệu cầm đồ ở đây cho vay nặng lãi quá, bóc lột dân, cho nên bảo tôi đến đây xem xét. Nếu quả thực như vậy thì phải làm thế nào để trừ bỏ cái tệ ấy đi.
Ngu Lương kéo ghế lại gần Quý Vi Tiêu và nói thầm:
- Như thế đủ thấy rõ việc cai trị của quan phủ thực là nhân đức. Trong huyện tôi không ai cho vay nặng lãi trừ hai hiệu cầm đồ của họ Phương là hiệu “Nhân Xương” và hiệu “Nhân Đại”. Họ đều là bậc hương thân, lo việc buôn muối đồng thời lại quen biết các quan phủ, huyện, cho nên họ muốn làm gì thì làm. Nhân dân rất căm ghét nhưng không ai dám nói ra. Muốn trừ cái tệ này thì chỉ cần trị hai nhà kia. Nay cụ lớn đường đường là một ông phủ cần gì phải đi lại với những người như thế! Tôi nói như vậy để ông nghe thôi ông đừng cho ai biết tôi nói đấy nhé!
- Tôi xin lĩnh giáo.
- Được ông đến thăm, tôi cũng muốn mời ông ăn một bữa cơm xoàng để cùng nói chuyện. Nhưng tôi sợ làm không ra gì. Ở đây tai vách mạch rừng, ông ăn không tiện.
Ngày mai tôi sẽ đưa một bữa ăn đến nhà ông. Xin ông đừng chối từ.
- Tôi đâu dám thế!
Nói xong Vi Tiêu từ biệt đi ra. Ngu quay vào thư phòng. Diêu đón hỏi:
- Có phải ông ta ở nha môn quan phủ lại đây không?
- Chứ gì nữa!
Diêu lắc đầu, cười mà nói:
- Tôi không tin.
Đường Nhị trầm ngâm:
- Ông Diêu nói có lẽ đúng, khi nào ông ta lại ở nha môn đến đây? Quan phủ không phải là chỗ quen biết với ông. Quan phủ chỉ có đi lại thân thiết với cụ Bành thứ ba và cụ Phương thứ sáu mà thôi. Nghe nói ông kia đến, trong bụng tôi cũng lấy làm ngờ. Nếu ông ta quả ở nha môn quan phủ đến thì ông ta nhất định đã đến nhà cụ Bành, cụ Phương trước, chứ đến nhà anh để làm gì? Nói ra khó tin lắm! Tôi sợ rằng anh chàng kia là một tên lường gạt, tự cho rằng mình ở nha môn quan phủ đến để lừa người ta lấy tiền thôi. Anh phải đề phòng mới được.
Ngu nói:
- Có lẽ ông ta chưa đến nhà hai người kia.
Diêu cười và nói:
- Cố nhiên là chưa đến. Nếu đã đến nhà họ thì còn đến nhà anh làm gì?
Ngu nói:
- Không phải quan phủ bảo ông ta đến đây. Người anh họ của tôi là Đỗ Thận Khanh người Thiên Trường, hiện nay ở Bắc Kinh có nhờ ông ta đưa cho tôi một bức thư. Ông ta là Quý Vi Tiêu, một danh sĩ nổi tiếng.

Đường Nhị hoa tay nói:
- Thế lại càng khó tin nữa! Quý Vi Tiêu là một nhà danh sĩ đã chấm thi ở trong cuộc thi những người hát tuồng. Là một danh sĩ như vậy, chắc chắn ông ta biết các nha môn và các viện hàn lâm ở kinh. Hơn nữa, Đỗ Thận Khanh người Thiên Trường lại rất thân với ông Bành thứ tư. Nếu ông Vi Tiêu mang thư ở Bắc Kinh về cho anh, có lẽ nào lại không mang thư đến cho ông Bành! Nhất định không thể là Quý vi Tiêu được.
Ngu nói:
- Chuyện ấy bây giờ không cần bàn đến. Ta nói sang chuyện khác.
Và quay lại mắng đầy tớ:
- Tại sao tiệc rượu mãi đến giờ vẫn chưa xong?
Một người đầy tớ khác bước vào, vai mang hành lý, nói:
- Cụ Thành ở nhà quê lên.
Một người bước vào, đầu lốm đốm bạc, trông mặt ra vẻ một tay bợm rượu, đội mũ vuông, mặc áo vải xanh, đi giầy vải đế mỏng. Y vào vái chào và nói:
- May quá! Tôi đến vừa đúng lúc ông mới mời thầy dạy học, nhân tiện vào uống vài chén rượu để chúc mừng.
Ngu bảo đầy tớ đem nước ra để cho cụ Thành rửa mặt, kỳ cọ sạch bùn trên quần áo và bắp chân. Sau đó Ngu mời tất cả mọi người vào phòng khách. Trong phòng khách, tiệc đã dọn. Dư ngồi ghế đầu, mọi người ngồi tiếp. Trời đã tối, Ngu bảo thắp một cặp đèn. Cặp đèn này là do hoàng đế lấy ở điện “Vũ Anh” ra tặng người cố của Ngu xưa kia làm thượng thư, đến nay đã hơn sáu mươi năm nhưng vẫn hoàn toàn như mới. Dư nói:
- Cổ nhân có câu: “Nhà xưa, cây cao”. Câu ấy thực là đúng. Tôi không thấy gia đình nào trong huyện ta lại có những cái đèn như thế này.
Cụ Thành nói:
- Ông Dư, “cứ ba mươi năm thì nhân dân ở phía đông bờ sông phát đạt, rồi lại đến lượt nhân dân ở phía tây”. Cách đây ba mươi năm, hai gia đình của hai ông thịnh vượng biết là dường nào! Chính mắt tôi trông thấy điều ấy. Nhưng ngày nay gia đình họ Bành và họ Phương mỗi năm làm ăn một khá hơn. Không nói gì khác cứ xem quan phủ và quan huyện Vương đi lại với họ thân mật như thế nào, có chuyện gì cũng sai thơ lại trong nha đến bảo họ. Như vậy dân đen ai mà chả sợ họ. Đấy cứ xem những người thơ lại kia chẳng vào nhà ai bao giờ đâu!
Đường Nhị hỏi:
 - Gần đây có người thơ lại nào ở nha môn quan phủ đến đây không?
Cụ Thành nói:
- Gần đây có một người họ “Cát”(3) đến có việc gì đấy. Ông ta ở với vị tăng trong chùa Bảo Lâm. Sáng hôm nay, ông ta đến hiệu Nhân Xương của cụ Phương thứ sáu. Cụ Phương thứ sáu lại mời cụ Bành thứ hai đến nhà để tiếp khách. Cả ba người vào thư phòng nói chuyện một ngày trời. Không biết trong nhà quan phủ làm việc gì không hay nên mới sai ông Cát kia đến đây hỏi.
Đường Nhị liếc mắt nhìn Diêu và cười nhạt: - Thấy không!
Dư Hữu Đạt nghe vậy lấy làm chán ngán, bèn hỏi cụ Thành:
- Năm ngoái cụ có nhận được áo và mũ tú tài không?(4) Cụ Thành đáp:
- Có, may quá, người giám khảo lại là bạn học với cụ Bành thứ tư. Tôi nhờ cụ Bành viết cho một bức thư nên nhận được áo mũ ngay.
Dư cười và nói: - Khi quan giám khảo thấy bộ mặt đỏ gay của cụ thì chắc gì ông ta đã cho?
Cụ Thành nói:
- Tôi nói là cái mặt tôi nó bị sưng lên đấy.
Mọi người đều cười rộ và cùng uống rượu. Cụ Thành nói:
- Ông Dư, tôi với ông đều là những người già cả bỏ đi rồi. Bây giờ hạng anh hùng là thuộc những người trẻ. Tôi mong rằng anh Ngu đến kỳ thi tới đây sẽ đỗ cao, cùng với ông Đường cả hai đều đỗ tiến sĩ. Như vậy, tuy không làm quan to như cụ Bành thứ tư, thì hai ông cũng được làm quan huyện như cụ Bành thứ ba, thứ hai, như thế cũng làm vinh hiển cho tổ tiên và chúng tôi cũng được mở mày mở mặt.
Câu nói ấy lại càng làm cho Dư Hữu Đạt chán ngấy.
Dư nói:
- Thôi chúng ta đừng bàn chuyện ấy nữa, chúng ta hãy chơi trò uống rượu đi.

Mọi người bèn chơi trò gọi là “trò uống rượu vui”. Họ cười mãi đến nửa đêm, tất cả mọi người đều say mềm. Cụ Thành được đưa vào phòng ngủ. Người nhà Ngu mang đèn lồng dẫn Dư Hữu Đạt, Đường Nhị, Diêu về nhà. Cụ Thành ngủ, nửa đêm tỉnh dậy vừa mửa vừa đi đồng. Không đợi đến trời sáng, cụ gọi một người đầy tớ vào để quét tước. Sau lại bảo nhỏ một đứa đầy tớ gọi hai người quản gia lo về việc thu tô vào để bàn bạc. Mấy người thì thầm với nhau một lúc, không biết nói chuyện gì. Sau đó mời Ngu Lương vào.
Chỉ nhân phen này khiến cho:
“Ở chốn làng quê, thói mộ thế nghĩ mà chán ngắt;
 trước nơi trường học, việc lăng nhăng lại thấy xảy ra”.
Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

---------------
(1) Thôi Hạo thời Bắc Nguỵ giỏi cả văn chương và quân sự.
 (2) Lên chỗ cao tiễn nhau.
 (3) Tức là Quý vi Tiêu. Theo âm Trung Quốc, chữ “Cát” và chữ Quý đọc gần như nhau.
(4) Tú tài đến một tuổi nào đó có thể mặc áo quần tú tài.

Hồi 47
Gác Huyền Vũ, Ngu tú tài tu lý,
Đền Tiết Hiếu, Phương diêm thương làm ồn


Ngu Lương không phải là hạng người vừa. Từ năm lên bảy, lên tám, Ngu đã là thần đồng. Về sau, Ngu đọc tất cả kinh sử, bách gia chư tử, không có cái gì là không đọc, không có cái gì là không tinh và không có cái gì là không thông suốt. Năm hai mươi tuổi, học vấn toàn tài, tất cả mọi việc từ binh pháp, canh nông, nghi lễ, âm nhạc, thủ công, săn bắn, thủy lợi... đều biết. Văn chương hay như Mai Cao, Tư Mã Tương Như(1). Thi phú như Lý Bạch, Đỗ Phủ. Người cố làm thượng thư, ông làm hàn lâm, cha làm tri phủ, thực là một nhà nổi tiếng. Mặc dầu Ngu học vấn sâu rộng, người ở Ngũ Hà đều không coi Ngu ra gì. Phong tục ở Ngũ Hà nghe nói ai có phẩm hạnh là họ cười méo cả miệng. Nghe nói người nào là dòng dõi thế gia mấy chục năm trước đây thì họ khịt mũi chế nhạo. Ai đi làm thơ phú cổ văn thì họ cau mày mà cười. Hỏi họ ở huyện Ngũ Hà có phong cảnh núi non gì thì họ nói: “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có sản vật gì kỳ lạ, họ nói “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có ai có tài năng và đạo đức, họ nói “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có ai được mọi người kính trọng, họ cũng nói “Cụ Bành”. Lại còn một việc làm cho họ phục nhất là việc gia đình họ Phương ở Huy Châu kết hôn với gia đình họ Bành. Mọi người để ý nhất đến việc họ Bành bỏ số bạc lớn ra để mua ruộng. Ngu Lương sống trong cái nơi phong tục hủ bại này, lại vì có mấy mẫu ruộng vườn, không đi đâu được, cho nên càng thêm bực tức. Người cha làm tri phủ thanh liêm ngay lúc làm quan, gia đình cũng sống một cách thanh bạch. Ở nhà, Ngu Lương ăn tiêu tiết kiệm nên để dành được một ít tiền. Bấy giờ người cha về hưu không lo gì việc nhà. Mỗi năm Ngu Lương dành dụm được vài lạng bạc, nhờ anh em mua giúp mảnh ruộng hay một cái nhà. Nhưng khi bàn bạc gần xong thì Ngu lại mắng anh em một trận và không chịu mua nữa. Cả huyện đều cho Ngu là một người điên, nhưng họ thèm mấy lạng bạc của y, cho nên cũng làm quen.

Cụ Thành là người cầm đầu việc mối lái về ruộng đất. Hôm ấy cụ bảo những người quản gia mời Ngu vào thư phòng và nói:
- Hiện nay có một thửa ruộng ở bên trái nhà tôi. Ruộng này không phải lo gì hạn hán và nước lụt, mỗi năm có thể thu về được sáu trăm đấu gạo. Họ đòi hai ngàn lạng bạc. Hôm kia, ông Phương thứ sáu đã muốn mua, người chủ đã định bán cho ông ấy; nhưng người ở trại đấy không bằng lòng.
- Tại sao họ không bằng lòng?
- Bởi vì hôm ông Phương xuống thăm ruộng, chủ ruộng đòi người ở trại đó phải bày “hương án” đón tiếp ông ta. Nếu như tô nộp không đủ thì họ sợ bị đánh cho nên họ không chịu bán!
- Đã không bán cho ông ta thì còn bán cho tôi làm gì? Tôi xuống thăm ruộng họ có bày “xú án”(1) ra đón tiếp không? Tôi không đánh họ thì họ có đánh tôi không?
- Không phải vậy! Người ta biết rằng ông là người rộng rãi nhân đức, chứ không phải ác nghiệt như người khác, cho nên tôi đến đây bàn với ông. Không biết ông có sẵn tiền không?
- Tiền thì tôi có đấy, để tôi bảo đầy tớ mang ra cho cụ xem.
Ngu bảo đầy tớ mang ra ba mươi đĩnh bạc đặt lên trên bàn. Bạc lăn long lóc. Cặp mắt của cụ Thành cũng nhấp nháy theo những đĩnh bạc. Ngu bảo đem bạc vào nhà cất đi và nói với cụ Thành:
- Tôi không phải lừa cụ đâu, cụ cứ về làng thu xếp công việc cho xong, thế nào tôi cũng mua.
- Tôi còn phải ở lại đây mấy hôm chưa về làng được.
- Có việc gì thế!
Ngày mai tôi phải đến thăm quan huyện Vương để lĩnh tiền làm một cái “nhà bia” cho người thím của tôi đã chết được khen là có tiết hạnh. Đồng thời tôi muốn nộp thuế luôn. Ngày kia tôi phải đến chúc thọ người con gái cụ Bành đúng mười tuổi. Ngày kia lại là ngày ông Phương thứ sáu mời tôi đến ăn cơm trưa. Tôi phải đến đấy rồi mới về quê được.
Ngu khịt mũi cười, giữ cụ Thành ở lại ăn cơm trưa. Khi cụ Thành đến Nha Môn, Ngu sai một người đầy tớ mời Đường Tam Đàm đến. Vì họ Phương hàng ngày chỉ mời Đường Nhị đã đỗ cử nhân đến ăn tiệc, mà không mời Tam Đàm, cho nên Đường Tam Đàm luôn luôn dò la tin tức họ Phương: Ông ta biết hôm nào gia đình họ Phương mời khách, mời bao nhiêu người và cách dò la của ông ta bao giờ cũng đúng. Ngu biết ông ta có cái tật ấy nên mới đến nhà hỏi:
- Ông làm ơn hỏi xem ông Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân Xương” chừng ba hôm nữa có mời cụ Thành đến ăn tiệc không? Nếu ông hỏi dò đúng thì hôm ấy tôi mời ông ăn một bữa cơm.
Đường Tam Đàm nhận lời, đi một lát rồi trở về nói: - Không có việc ấy đâu. Ba ngày nữa ông Phương thứ sáu không mời ai hết.
- Tốt! Tốt lắm! Ba ngày nữa ông đến đây từ sáng sớm và chúng ta ăn tiệc suốt ngày.
Đường Tam Đàm đi rồi, Ngu bảo đầy tớ đến hiệu buôn hương, sáp nhờ người làm công ở đấy viết giúp một tờ thiếp đỏ, trên đề mấy chữ: “Trưa mười tám mời ông đến nhà tôi ăn cơm”. Dưới đề: “Phương thược”. Tờ thiếp được bỏ vào phong bì và dán lại. Ngu sai bỏ trên án thư trong phòng cụ Thành ngủ. Sau khi đã nộp thuế xong, cụ Thành trở về thấy tờ danh thiếp mời, mừng quýnh, nghĩ bụng:
- Ta thế mà gặp may! Nói liều một cái mà lại hóa đúng.
Cụ Thành vui vẻ đi ngủ.
Đến ngày mười tám, Đường Tam Đàm đến từ sáng sớm. Ngu mời cụ Thành vào nhà khách cụ Thành thấy đầy tớ lần lượt đi qua cổng xuống nhà bếp. Người thì mang rượu, người thì mang gà vịt, người lại mang cá, dò lợn, người mang bốn gói mứt, người mang một đĩa bánh nướng. Cụ biết là có bữa tiệc nhưng không hỏi gì. Ngu hỏi Đường:
- Anh có nói với những người thợ nề và thợ mộc về việc sửa nhà Nguyên Vũ không?
- Tôi đã nói rồi. Cần rất nhiều vật liệu. Tường ngoài đã đổ, cần phải xây lại, lại phải làm một cái nền mới. Như thế, thợ lợp nhà phải làm mất ba tháng. Cột nhà kèo cần phải thay và xà nhà phải đóng đinh. Cần nhiều thợ mộc. Nhưng trong việc sửa chữa nhà, thợ mộc, thợ nề chỉ làm nửa ngày thôi. Họ nói mất ba trăm lạng nhưng tôi sợ phải mất đến năm trăm lạng mới chữa xong.
- Tổ tiên ông ngày xưa đã dựng nên nhà Nguyên Vũ, nó đã làm cho nhiều người ở trong huyện này thi đỗ. Nhưng nay lại phát về họ Bành. Như vậy họ Bành phải xuất tiền ra chữa mới phải. Việc đó có liên quan gì đến ông, tại sao ông lại chịu mất nhiều tiền như vậy?

Ngu nói:
- Đúng đấy! Nhờ cụ làm ơn nói hộ với họ Bành để họ giúp tôi ít tiền. Tôi sẽ trả ơn cụ sau.
- Khi tôi gặp họ, tôi sẽ nói việc đó. Mặc dầu trong gia đình ấy có nhiều người làm quan, tự phụ và khinh người, nhưng họ vẫn tin nhưng điều lão già này nói lắm.
Người đầy tớ của Ngu thì thầm với một người bán cỏ ở cửa sau, đưa cho người kia bốn đồng tiền bảo vào trước cổng gọi:
- Cụ Thành, tôi ở nhà ông Phương thứ sáu lại đây, ông Phương mời cụ đến chơi. Ông đang đợi cụ ở nhà.
- Cụ Thành nói:
- Về bẩm với cụ tôi sẽ lại ngay.
Người bán cỏ ra ngay. Cụ Thành chào Ngu Lương đi thẳng đến hiệu Nhân Xương. Người giữ cổng đưa vào, chủ nhân là ông Phương thứ sáu ra đón. Hai bên thì lễ rồi ngồi xuống. Phương hỏi:
- Cụ đến đây bao giờ?
Cụ Thành kinh ngạc đáp:
- Đến đây hôm kia.
- Cụ ở đâu?
Cụ Thành lại càng hoảng sợ trả lời:
- Ở nhà ông Ngu Lương.
Đầy tớ bưng trà vào. Cụ Thành nói:
 - Hôm nay tốt trời!
- Phải.
- Cụ đã gặp quan phụ mẫu chưa?
- Tôi đã gặp hôm kia.
Hai người ngồi không biết nói gì, chỉ uống trà. Cụ thành nói:
- Quan phủ mấy lâu nay không xuống huyện. Nếu quan phủ xuống huyện thì thế nào cũng đến nhà cụ trước. Ngài thân với cụ nhất. Thực ra cụ là người nhà ngài kính trọng nhất chẳng ai có thể sánh được!
- Quan án sát mới đã đến. Tôi chắc quan phủ thế nào cũng xuống huyện.
- Phải đấy!

Hai người ngồi, uống một lượt trà nữa nhưng không thấy có khách nào đến và cũng không thấy tiệc tùng gì bày ra. Cụ Thành rất phân vân, trong bụng lại đói, đành phải cáo từ một tiếng để xem cụ Phương nói thế nào. Bèn đứng dậy nói:
- Tôi xin chào cụ.
Phương cũng đứng dậy nói:
- Cụ ngồi chơi lát nữa.
- Không, tôi bận phải đi.
Cụ Thành từ biệt, Phương tiễn ra cổng. Cụ Thành ra khỏi cổng vò đầu, gãi tai, trong lòng suy nghĩ:
- Hay là ta đến sớm quá chăng?
Lại nghĩ:
- Hay là ta đã làm phật ý ông ta chăng? Lại nghĩ:
- Hay là ta đọc tờ danh thiếp sai chăng? Cụ chỉ suy nghĩ mãi nhưng không sao hiểu được. Rồi lại sức nhớ:
- Ở nhà ông Ngu hiện nay có bữa tiệc. Mình phải về ăn ngay, rồi sau hẵng hay.
Cụ Thành đi một mạch về nhà Ngu. Ngu đang ngồi ăn với Đường Tam Đàm, Diêu và hai người nhà ở trong thư phòng. Trước mặt là năm sáu bát đổ ăn, hơi bốc nghi ngút. Họ đang ăn uống vui vẻ thì thấy cụ Thành vào. Tất cả đứng dậy.
Ngu nói:
- Cụ Thành bỏ chúng ta đến nhà cụ Phương ăn một bữa tiệc ngon hơn.
Rồi lại thêm:
- Mau mau đưa một cái ghế ra đây cho cụ ngồi. Rót một chén trà lâu năm cụ uống cho tiêu cơm.
Đầy tớ đem ra một cái ghế đặt trước mặt mời cụ Thành ngồi. Lại rót trà liên tiếp cho cụ uống, hết chén này đến chén khác. Cụ Thành càng uống càng đói, cực quá nói không ra lời. Mắt nhìn thấy người ta xới thịt lợn, thịt vịt, cá, ba ba, mà thèm chảy nước dãi tức phát điên lên được. Họ ăn mãi đến tối mà cụ Thành thì phải nhịn đói tràn. Đợi cho Ngu tiễn khách ra cửa, cụ Thành mới gọi quản gia vào phòng xin một bát cơm rang qua rồi ăn. Sau đó cụ vào buồng ngủ, nhưng giận quá không sao ngủ được. Hôm sau, cụ Thành từ biệt Ngu Lương về làng. Ngu Lương nói:
- Bao giờ cụ trở lại?
- Khi nào việc ruộng kia thu xếp xong xuôi tôi sẽ trở lại. Nếu chưa xong, tôi phải đợi cho đến khi bà thím của tôi được vào đền thờ tiết hạnh tôi mới trở lại.
Nói xong cụ từ biệt ra về.
Một hôm Ngu Lương ở nhà không có việc gì. Đường Nhị đến chơi, hỏi:
- Anh Ngu, ông họ Quý hôm trước quả thật là ở nhà quan phủ đến đây. Ông ta ở chùa Bảo Lâm. Ông Phương thứ sáu và ông Bành thứ hai đều gặp ông ta rồi. Anh nói đúng thực!
- Hôm trước chính anh nói là không đúng, hôm nay lại chính anh nói là đúng. Nhưng thôi, đúng hay không ta cũng không cần bàn chuyện đó nữa.
Đường Nhị cười và nói:
- Tôi chưa bao giờ gặp quan phủ. Thế nào anh cũng đến phủ thăm ông Quý vậy cho tôi cùng đi để được gặp quan phủ có được không?
- Như thế cũng được.
Mấy hôm sau, hai người thuê hai cái kiệu đến phủ Phụng Dương. Đến nha môn, họ đưa danh thiếp. Ngu lại đưa một danh thiếp khác gửi cho Quý Vi Tiêu. Sau khi nhận danh thiếp, một người ra nói:
- Ông Quý đã đi Dương Châu rồi. Cụ mời các ông vào. Hai người vào, tri phủ tiếp ở thư phòng. Sau khi đi ra, hai người vào trọ trong một gian phòng ở phía đông thành phố. Tri phủ viết thiếp mời họ ăn cơm. Đường Nhị nói với Ngu Lương:
- Quan phủ mời chúng ta đến mai ăn cơm nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây đợi cho quan phủ cho người đến tìm thì không tiện. Ngày mai chúng ta cứ vào chùa Long Hưng ở trước cổng phủ, hễ thấy quan sai người đến mời là chúng ta vào luôn.
Ngu cười mà nói:
- Cũng được!
Hôm sau, ăn cơm trưa xong, hai người đến ngồi đợi trong nhà một vị hòa thượng ở chùa Long Hưng. Nghe ở nhà một vị hòa thượng bên cạnh có tiếng đàn, tiếng hát rất hay. Đường Nhị nói:
- Hát hay lắm. Tôi phải sang xem mới được. Đường đi xem nhưng quay trở lại ngay, mặt mày giận dữ trách Ngu Lương:
- Anh chơi tôi một vố cay quá. Anh có biết ai hát ở đấy không? Đó là cụ Phương thứ sáu chủ hiệu Nhân Xương ở huyện ta với công tử con quan phủ. bữa tiệc hết sức sang trọng. Mỗi người lại ôm một con hát tuồng. Quả thực họ ăn chơi sung sướng quá. Nếu tôi biết họ thân thiết với nhau như vậy thì hôm qua tôi đã cùng cụ Phương thứ sáu đến thăm quan phủ rồi. Nếu tôi cùng đến với ông ta thì nay tôi đã cùng ngồi một chỗ với công tử. Còn tôi đi với anh thì tuy được gặp mặt quan phủ đấy nhưng không sao thân mật như đi với cụ Phương được. Quả thực là tiếc!
- Đó là anh nói với tôi đấy chứ! Tôi có ép anh đâu. Bây giờ cụ Phương ở đây, anh cứ việc vào nhập bọn với ông ta cũng được chứ sao!
- Đã cùng đi với nhau thì phải đi cho trót. Tôi đã cùng anh đến thăm quan phủ, thì cùng phải đến ăn tiệc ở đấy chứ.

Vừa lúc ấy, trong nha môn có người ra mời, hai người đi vào. Tri phủ ra tiếp nói rằng mình ngưỡng mộ đã lâu, lại hỏi:
- Khi nào những người tiết hạnh ở trong huyện được đưa vào đền thờ, tôi sẽ phải xuống huyện để dự lễ.
Hai người đáp:
- Lúc trở về chúng tôi sẽ định ngày, thế nào cũng xin mời ngài đến.
Ăn cơm xong họ từ biệt ra về. Hôm sau, họ lại viết thiếp cáo từ và trở về huyện. Ngu Lương về nhà được một ngày thì Dư Hữu Đạt đến nói:
- Ngày mồng ba sắp đến sẽ làm lễ đưa những người tiết hạnh vào đền thờ. Hai gia đình chúng ta có nhiều bà bác và bà thím được đưa vào đền thờ. Chúng ta phải sắm đồ tế lễ, tất cả họ hàng đều phải ra để rước vào nhà thờ.
Chúng ta phải sắm đồ tế lễ, tất cả họ hàng đều phải ra để rước vào nhà thờ.
Chúng ta nên đi báo mọi người.
- Cố nhiên, gia đình em có một người, gia đình anh có hai người được phong tiết hạnh. Hai gia đình chúng ta có tất cả non một trăm năm mươi người, chúng ta phải ăn mặc đồ lễ phục để rước vào nhà thờ, như thế mới gọi là làm theo lối một gia đình lớn chứ.
- Tôi sẽ đi báo với gia đình và họ hàng tôi, anh sẽ đi báo với gia đình và họ hàng anh.
Ngu đi thăm họ hàng một lượt, bực bội vô cùng, về nhà cả đêm không sao ngủ được. Sáng hôm sau Dư đến, cặp mắt tròn xoe nói một cách giận dữ:
- Họ hàng của em nói như thế nào?
- Còn họ anh thì sao? Tại sao anh có vẻ tức tối như vậy.
- Em đừng hỏi anh nữa! Anh đem việc ấy nói với họ hàng anh, không ai đi cả, cái đó không cần nói. Nhưng họ lại nói rằng bà cụ Phương được đưa vào đền thờ, thế nào họ cũng phải đi rước và họ lại kéo anh cùng đi. Anh không nghe, họ chế nhạo bảo anh không hiểu gì thời thế hết. Em thấy như thế có tức không?
Ngu cười và nói:
- Họ hàng em cũng thế. Cả đêm em không sao ngủ được. Đến mai em sẽ sắm sửa đồ tế lễ và rước bà thím, không cần gì đến họ.
- Anh cũng phải làm như thế mới được.

Bàn định như thế là xong.
Đến ngày mồng ba Ngu mặc áo, đội mũ mới sai đầy tớ mang một bàn lễ vật đến nhà người em họ thứ tám. Vào cửa, Ngu thấy vắng tanh không có một người khách nào. Người em họ là một anh tú tài xác, áo quần rách rưới ra vái chào. Ngu vào nhà đến trước bàn thờ bà thím vái lạy đưa bài vị lên xe. Họ thuê một cái long đình(2) nhờ bốn người khiêng. Bốn người nhà quê thất thểu khiêng đi. Đằng sau không có một ai đi theo, chỉ có bốn người thổi sáo đi trước thổi lung tung trong khi khiêng long đình đi qua phố. Ngu Lương và em họ đi theo sau. Từ cửa từ đường nhìn ra, hai anh em Ngu Lương nhìn thấy hai cái long đình đã rách, lại không có người thổi sáo, theo sau chỉ có hai anh em Dư Hữu Đạt và Dư Hữu Trọng. Đến trước cửa từ đường bốn người gặp nhau vái chào. Nhìn thấy ở lầu Tôn Kinh trước nhà thờ đã treo đèn, treo cờ bày tiệc rượu. Lầu này rất cao lớn, lại ở ngay giữa đường, đứng ở đâu cũng nhìn thấy. Nhưng người hát tuồng đang mang rương hòm đến. Những người khiêng long đình nói:
- Những người hát tuồng của cụ Phương đã đến rồi.
Họ đứng đấy một lát thì nghe tiếng súng ở cửa tây. Những người khiêng long đình nói:
- Bà cụ Phương đã ra!

Lát sau nghe tiếng thanh la và tiếng trống. Hai cái dù vàng, tám cái cờ, và bốn đội cưỡi ngựa mang theo những cái biển đề: “Thượng thư bộ lễ”, “hàn lâm học sĩ”, “Đô đốc học viện”, “Trạng nguyên cập đệ”. Những cái biển này đều do gia đình họ Dư và họ Ngu đưa đến cả. Khi đám rước đi qua, tiếng thanh la, tiếng kèn vang lên, khói trầm nghi ngút, đoàn người rước bài vị của bà cụ Phương đến. Bài vị này được tám người đàn bà chân to khiêng đi. Cụ Phương thứ sáu đầu đội mũ sa tròn đi theo sau bài vị. Đằng sau, là hai hàng quan khách, hương thân và tú tài. Trong đám hương thân có ông Bành thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ bảy. Ngoài ra, những người đỗ cử nhân, tiến sĩ, cống sinh, giám sinh trong hai gia đình của Dư Hữu Đạt và Ngu Lương, tất cả đến sáu bảy mươi người đều đội mũ sa mặc áo cổ tròn, ra vẻ cung kính lắm. Lại đến sáu bảy mươi người tú tài của hai gia đình Ngu và Dư mặc áo dài, đội mũ vội vàng chạy theo sau. Người hương thân đi cuối cùng là Đường Nhị, tay cầm một quyển sổ đang ghi chép. Người tú tài cuối cùng là Đường Tam Đàm, tay cũng cầm một quyển sổ đang ghi chép. Bởi vì gia đình họ Ngu và họ Dư là gia đình thi lễ và cũng còn biết tự trọng cho nên khi đến trước bàn thờ, nhìn thấy long đình của người trong họ mình ở đây, cũng có bảy, tám người đến vái lạy. Sau đó tất cả đoàn người xô nhau đưa long đình của bà cụ Phương vào nhà thờ. Đằng sau là tri huyện, đốc học, thơ lại, bá tổng có đủ các đồ chắp sự, kèn trống. Quan huyện, quan học đạo, thơ lại, hương thân, tú tài, nhà chủ lần lượt vào lạy. Lạy xong, mọi người kéo nhau ra, đến lầu “Tôn kinh” ăn uống. Đợi cho mọi người đi hết, Dư và Ngu mang long đình đặt vào đúng chỗ. Trong họ Ngu, thì Ngu Lương soạn một bàn lễ tế, trong họ Dư thì Dư Hữu Đạt sửa lễ tam sinh. Lễ xong, họ khiêng bàn tế ra ngoài. Nhưng không có nơi nào ăn, họ định mượn nhà người giữ trường thi. Dư Hữu Đạt ngẩng đẩu lên nhìn lầu “Tôn Kinh” thấy khách khứa mặc áo gấm đi giày đỏ đang rót rượu chúc nhau. Cụ Phương thứ sáu sau buổi lễ thấy gò bó nên cất cái mũ sa và áo cổ tròn, đội một cái mũ vuông, mặc quần áo thường, đi đi lại lại, ngoài hành lang. Có một người đàn bà bán hoa họ Quyền, có đôi bàn chân to, bước lên lầu vừa cười vừa nói:
- Tôi đến đây để xem đưa bà cụ vào đền thờ. Vẻ mặt cụ Phương thứ sáu vui mừng hớn hở. Cụ đứng dựa vào lan can nhìn những ngọn cờ và những người chơi nhạc, chỉ vào vật này, vật kia và cắt nghĩa cho bà kia nghe. Bà Quyền thì một tay vịn vào lan can, một tay sờ vào lưng bắt rận. Bắt được con nào lại bỏ vào miệng cắn. Nhìn thấy thế, Dư Hữu Đạt chịu không nổi, nói:
- Này em, chúng ta không uống rượu ở đây làm gì, hãy khiêng bàn về nhà chúng ta. Hai anh sẽ đến nhà em ăn. Như thế còn hơn ngồi nhìn cái cảnh tượng này.
Mọi người bèn khiêng bàn thờ về nhà, bốn năm người theo sau. Trên đường cái, Hữu Đạt nói với Ngu Lương:
- Này em! Trong cái huyện này không còn biết lễ nghĩa, liêm sỉ gì nữa, cũng vì ở đây chẳng còn một ông thầy nào ra hồn. Nếu ở Nam Kinh chỗ Ngu bác sĩ thì làm gì có những việc như thế này!

Dư Hữu Trọng nói:
- Ngu bác sĩ không ngăn cấm ai việc gì. Nhưng nhìn những hành động của ông mọi người đều cảm hóa nên không ai làm những việc trái lễ.
Mấy người thở dài, cùng về nhà uống rượu rồi ai về nhà nấy.
Lúc này đã bắt đầu sửa chữa lầu Nguyên Vũ. Ngày nào Ngu Lương cũng đến đôn đốc công việc. Hôm ấy Ngu trở về nhà thì thấy cụ Thành đã ngồi trong thư phòng. Ngu vái chào, sai đem trà ra uống và hỏi:
- Tại sao trong ngày lễ trước đây không thấy cụ đến? - Hôm ấy tôi cũng muốn đến lắm nhưng còn mắc bệnh không thể đến được. Em tôi về làng nói buổi lễ thật là náo nhiệt, người đi đưa đám nhà cụ Phương chật mất nửa đường, quan huyện Vương và nhà cụ Bành cũng đều đi đưa. Ở trên lầu “Tôn Kinh” có ăn uống, hát xướng. Người các nơi đều kéo nhau đến xem, họ nói rằng: Ngoài gia đình cụ Phương ra, không có ai làm được một cái lễ như vậy. Thế nào? Ông cũng có mặt và uống rượu ở trên lầu có phải không?
- Cụ không biết hôm ấy tôi cũng phải đưa bà thím của tôi.
Cụ Thành cười nhạt nói:
- Ông em họ của ông nghèo quá không có tiền mua quần áo mà mặc, còn ai chịu đưa đám làm gì? Chắc ông đùa với tôi đấy thôi. Thế nào ông cũng đưa đám bà cụ Phương.
- Thôi, việc ấy đã qua rồi, nói làm gì nữa.
Ăn cơm chiều xong, cụ Thành nói:
- Người chủ ruộng và người mách mối đều lên đây. Hiện nay họ ở trong chùa Bảo Lâm. Nếu ông muốn mua ruộng thì đến mai là có thể xong.
- Như thế cũng được.
- Lại còn một việc nữa. Tôi chính là người nói cho ông biết về thửa ruộng ấy. Tôi muốn được năm mười lạng về tiền công. Ông phải trả cho tôi số tiền ấy, tôi lại sẽ lấy tiền ở người mách mối nữa.
- Cái đó chẳng cần phải bàn.
Cụ Thành mới kể lại tất cả tô, giá tiền mua ruộng, cân để cân, sổ bạ, giá tiền về gà, cỏ, tiền tô, tiền rượu, tiền chữ ký, tiền biếu nghiệp chủ vân vân... Cụ Thành đem người chủ ruộng, người mách mối đến nhà Ngu Lương từ sáng sớm. Cụ Thành đến, bảo viết khế cho xong. Nhưng khi bước vào thư phòng bảo Ngu Lương ký vào khế bán ruộng thì cụ Thành thấy những người thợ nề, thợ mộc đang lĩnh tiền ở đây. Ngu Lương đem tiền ra phân phát từng đỉnh năm mươi lạng một, một lát phát hết mấy trăm lạng. Chờ cho họ đi hết, cụ Thành đến bảo ký vào khế bán ruộng. Ngu Lương trợn mắt nói:
- Ruộng đắt quá, tôi không muốn mua.
Cụ Thành giật mình không biết nói gì. Ngu Lương nói:
- Thưa cụ, quả thật tôi không muốn.
Và quay lại bảo đầy tớ:
- Mày ra bảo những người nhà quê ở ngoài sảnh đi cho rảnh mắt.
Cụ Thành cau mày nhăn mặt đành phải đi ra.
Chỉ nhân phen này khiến cho:
Lìa nơi ác tục, thói nhà nho lại rạng môn tường;
đến chốn danh bang, người hiền triết tiếc không gặp mặt.
Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

----------
(1) "Xú án" xú là thối ngược với “hương” là thơm. Đây Ngu Lương dùng lối chơi chữ.
 (2) Long đình: Hương án trên có lợp mái, ở trong đề bài vị, hương hoa, có thể khiêng đi.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 180
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com