watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
11:36:2518/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50 - Trang 11
Chỉ mục bài viết
Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 11 trong tổng số 14

Hồi 44
Thang tổng trấn thành công về cố hương
Dư minh kính nâng chén bàn táng sự

Thang tổng trấn bàn bạc với hai con thu xếp hành lý để về. Lôi tri phủ đưa ra bốn lạng bạc nhờ bọn bếp của Thang làm một bữa tiệc rồi mời Thang đến nha môn của mình ăn. Hôm Thang lên đường, các quan trong thành đều đi tiễn. Thang đi đường thủy đến Thường Tức, qua hồ Động Đình theo Trường Giang về Nghi Trưng. Trên đường vô sự. Thang hỏi hai con về việc học hành hàng ngày và ngắm xem phong cảnh trên sông. Trong vòng hai mươi ngày đến đảo Sa Mã, Thang sai một người đầy tớ về nhà trước để chuẩn bị đón tiếp. Lão Lục nghe tin liền đến bến Hoàng Nê đón, chào chú và hai em họ và nói chuyện ở nhà. Thang thấy hắn ăn nói liến thắng nên rất bực và nói:
- Ta đi đã ba mươi năm về thấy mày đã lớn, nhưng mày học ở đâu cái lối ăn nói hạ lưu ấy?
Rồi Thang để ý thấy thằng cháu hễ mở miệng thì một là “bẩm cụ” hai là “bẩm cụ” nên nổi giận:
- Đồ hạ lưu! Sao mày ăn nói như thế! Tao không phải chú của mày sao? Tại sao mày không gọi tao là “chú” mà cứ gọi là “cụ”.
Nhưng Lão Lục thì vẫn cứ nói với hai công tử là “ông cả” “ông hai”. Cái đó càng làm cho Thang tổng trấn nổi giận hơn nữa:
- Đồ ăn cướp, mày đáng chết! Mày đã không lo dạy dỗ em họ mày, lại gọi nó là ông cả, ông hai à!
Lão Lục bị mắng mất hồn cúi mặt xuống.
Về đến nhà, Thang tổng trấn lạy tạ tổ tiên và mở hành lý ra. Người anh nguyên là tri huyện Cao yếu nay cũng cáo lão về nhà, anh em gặp nhau rất vui mừng, cùng uống rượu mấy ngày liền. Thang không đi ra phố cũng không đi lên phủ thăm các quan, chỉ ở trong cái biệt thự gần bờ sông, vui chơi cầm sách và dạy con học. Tuy vậy sau ba bốn tháng, y vẫn không vừa lòng về những bài văn bát cổ của con mình. Y nghĩ bụng:
- Văn chương như thế này thì không bao giờ thi đỗ! Bây giờ nhân lúc ở nhà, ta phải tìm cho chúng một thầy học.
Và trong lòng y cứ lo lắng về việc ấy.
Một hôm người giữ cổng đi vào báo:
- Có ông Tiêu thứ hai ở Dương Châu đến thăm. Thang tổng trấn nói:
- Đó là con ông bạn ta, nhưng không biết khi gặp anh ta, ta có nhận ra được không?
Bèn bảo mời ngay vào, Tiêu Bá Tuyền vào chào. Tổng trấn thấy y đẹp trai và ăn mặc rất lịch sự; tổng trấn đáp lễ, hai người ngồi xuống. Tiêu Bá Tuyển nói:
- Xin chúc mừng chú đã về. Cháu đáng lý phải đến sớm hơn để hầu thăm. Nhưng gần đây ông cụ Cao hàn lâm thị giảng ở Nam Kinh về hưu, cụ Cao đi qua Dương Châu nên cháu có giữ cụ ở lại ít hôm. Vì vậy cháu đến đây hơi muộn.
- Anh đã thi đỗ vào trường chưa? - Cháu được may mắn là ông chủ khảo trước đây đã lấy cháu vào ở trường bác sĩ. Tuy điều này không phải là hiếm nhưng cháu rất mừng là cách đây ba hôm cả thành đều học văn chương của cháu, điều đó chứng tỏ nhận xét và sự cân nhắc của quan chấm thi không phải là thiên lệch.
Thang tổng trấn thấy y ăn nói linh lợi, nên giữ lại thư phòng ăn cơm, gọi hai con ra tiếp. Chiều hôm ấy, Thang nói với y rằng mình muốn tìm một thầy học để giảng cử nghiệp cho hai con. Tiêu Bá Tuyền nói:
- Cháu gần đây có biết một người, ông ta tên là Dư Đặc, tự là Hữu Đạt người huyện Ngũ Hà đỗ khoa minh kinh, rất thông thạo về cử nghiệp. Hiện nay ông ta dạy trong nhà một người buôn muối, nhưng ở đấy ông ta không vừa ý lắm. Nếu chú muốn mời thầy dạy thì mời ông ta là hơn cả. Chú gửi một cái thư cho ông ta và cho một trong hai anh cùng đi với cháu thì ông Dư sẽ đến ngay. Tiền nuôi mỗi năm chẳng qua chỉ đến năm mươi lạng bạc thôi.

Thang tổng trấn nghe vậy rất mừng, giữ Tiêu Bá Tuyền ở luôn hai đêm, sau đó viết thư mời và bảo người con cả thuê một chiếc thuyền con cùng đi với Tiêu đến Dương Châu, đến cái nhà ở bên bờ sông của một người buôn muối họ Ngô để thăm Dư tiên sinh. Tiêu Bá Tuyền bảo Thang Do viết một tờ danh thiếp đề “văn sinh”, sau này ông Dư đã làm thầy rồi thì sẽ đổi là “môn sinh, Thang Do nói:
- Ông ta vừa là thầy vừa là bạn mà thôi. Bèn viết “bạn học và em”.
Tiêu Bá Tuyền không làm thế nào được, đành phải miễn cưỡng cầm danh thiếp và cùng đi đến nhà Dư. Người giữ cửa đưa thiếp của Tiêu và mời vào thư phòng. Thấy Dư đi ra đầu đội mũ vuông, mình mặc áo màu lam, chân đi giày đỏ, da mặt trắng, râu ba chòm, mắt cận thị, trạc độ năm mươi. Sau khi vào thư phòng, Dư chào hai người và ngồi xuống:
- Anh Bá Tuyền! Hôm trước anh đi Nghi Trưng phải không? Anh về đây từ bao giờ thế?
- Tôi đi Nghi Trưng thăm chú tôi là Thang tổng trấn. Chú tôi giữ tôi lại mấy hôm. Đây là người con của chú tôi là anh Thang Do.
Tiêu lấy ở trong ống tay áo ra một tờ danh thiếp. Sau khi nhìn tờ danh thiếp Dư đặt nó trên bàn nói:
- Như thế này thật là hân hạnh cho tôi quá! Tiêu nói Thang tổng trấn muốn mời Dư làm thầy dạy học!
- Vì thế cho nên chúng tôi đến đây. Nếu anh vui lòng nhận, tôi sẽ đưa thư và tiền.
Dư Hữu Đạt cười, nói:
- Cụ nhà làm quan cao, các công tử lại tài giỏi, tôi già nua và dốt nát dám đâu dạy! Xin để cho tôi suy nghĩ rồi sẽ trả lời.
Hai người từ biệt ra đi. Hôm sau, Dư Hữu Đạt đến thăm Tiêu Bá Tuyền, Dư nói:
- Anh Bá Tuyền ạ! Tôi không thể làm được việc anh nói hôm qua.
- Tại sao thế?
- Nếu ông ta đã nhận tôi làm thầy, tại sao lại viết danh thiếp đề là “em”. Rõ ràng ông ta không muốn học gì ở tôi. Sự việc là như thế. Tôi có một người bạn cũ nay làm tri châu ở châu Vô Vi. Hôm trước đây, tôi có nhận được thư của ông ta mời tôi đến đấy, cho nên tôi định đến thăm. Nếu ông ta giúp đỡ tôi một ít thì còn hơn là dạy học một năm. Trong vài ngày nữa tôi sẽ từ biệt ra đi. Nhờ anh thưa lại và tiến cử người khác cho quan tổng trấn.

Tiêu Bá Tuyền biết không sao ép nài được nữa, nên nói lại với Thang Do để tìm người khác.
Vài hôm sau quả nhiên Dư Hữu Đạt cáo từ nhà chủ, thu xếp hành lý để trở về ngũ Hà. Nhà Dư ở đường Kim Gia. Mới bước ra cửa, người em ruột đã chạy ra. Người này là Kim Trì tự là Hữu Trọng cũng là một trong những người tú tài giỏi nhất ở Ngũ Hà.
Bấy giờ ở ngũ Hà, họ Bành có mấy người đỗ tiến sĩ, hai người được vào hàn lâm. Người ở Ngũ Hà vốn tầm mắt hẹp hòi, cho nên tất cả huyện đều kính phục họ. Lại có một gia đình khác họ Phương, người Huy Châu, mở hiệu cầm đồ ở Ngũ Hà, sau chuyển sang buôn muối, mạo nhận là người ở địa phương và muốn lấy người địa phương đó. Trước đây, họ Dư ở đường Dư Gia vẫn đời đời kết hôn với gia đình họ Ngu là gia đình hương thân. Lúc đầu, cả hai họ đều không muốn kết hôn với họ Phương. Nhưng về sau, cũng có một vài người bất tài và vô liêm sỉ tham của hồi môn của họ Phương nên bắt đầu lấy con gái họ Phương và hai bên thành bà con. Nhưng sau nhiều đám cưới như thế thì họ Phương không những không cho của hồi môn mà lại nói vung lên rằng họ Dư và họ Ngu tham tiền họ Phương nên đến cầu thân.
Trong họ Ngu và họ Dư có hai hạng người không kể gì đến thể diện ông cha. Một bọn là bọn ngốc. Hành động của họ tóm lại trong tám chữ “Lấy gái họ Phương, chơi bạn họ Bành”. Một bọn thì tinh ranh hơn, hành động của họ tóm lại trong tám chữ “Bụng nghĩ họ Phương, miệng nói họ
Bành”. Hai câu đó đủ nói lên họ là người vô sỉ như thế nào. Giả thử không phải họ Phương mà mạo nhận là người Ngũ Hà thì chắc họ sẽ không sao có vợ, và nếu họ Bành không có ai đỗ tiến sĩ cả thì họ sẽ không có bạn. Bọn này trong bụng chỉ toàn nghĩ đến thế lợi. Nhưng kỳ thực chỉ là bọn ngốc thượng hạng. Còn như bọn gian giảo thì trong bụng muốn lấy con gái họ Phương, nhưng họ Phương lại không thèm. Đã không dám nhận việc đó cho rồi, chúng lại mở miệng nói quanh nói quẩn để lừa người khác. Người thì nói: “Cụ Bành là thầy học của tôi! Ông Bành thứ ba có mời tôi vào thư phòng, chúng tôi nói chuyện tâm sự nửa ngày trời. Người thì nói: ”Ông Bành thứ tư ở Bắc Kinh mới viết cho tôi một lá thư:
Nhờ cách ăn nói như vậy cho nên khi họ được mời đi dự tiệc, họ thường đem những câu chuyện ấy nói trong bữa tiệc để loè người khác. Phong tục ở Ngũ Hà xấu như vậy.

Nhưng anh em Dư Hữu Đạt và Dư Hữu Trọng thì vẫn giữ lời giáo huấn của ông cha, cho nên đóng cửa đọc sách, không nghĩ gì đến việc thế lợi bên ngoài. Dư Hữu Đạt tuy trong lúc giao du quen nhiều người làm quan ở các phủ, châu, huyện nhưng khi nào về thì không bao giờ ông ta nhắc đến họ. Lý do là vì dân Ngũ Hà yên chí rằng ai đỗ cử nhân, tiến sĩ thì cũng như là tri châu, tri huyện vậy. Khi những người này xin xỏ việc gì, thì nhất định quan tri châu, tri huyện phải y. Nếu có ai nói cho họ biết quan huyện kính trọng người nào đấy vì phẩm hạnh của ông ta hay quan chơi với người nào đấy vì ông ta là một danh sĩ, thì họ sẽ cười méo cả miệng. Đó là không nói đến những người thi hỏng. Nếu họ đưa danh thiếp vào thì dân Ngũ Hà, nói chung, cho rằng gặp tri huyện không phải là việc dễ. Về phẩm hạnh và văn chương, hai anh em họ Dư xưa nay không mấy ai bằng. Nhưng vì quan huyện không bao giờ đến thăm họ và họ cũng không lấy con gái họ Phương, không chơi với họ Bành nên mặc dầu bà con không dám khinh nhưng cũng không kính trọng họ.
Hôm ấy Dư Hữu Trọng đưa anh vào nhà, chào và sửa soạn cơm rượu để tiếp anh. Hai anh em vừa ăn vừa nói chuyện việc xảy ra trong năm. Uống rượu xong, Dư Hữu Đạt không vào phòng nghỉ mà ở lại thư phòng cùng ngủ một giường với em. Đến đêm, Hữu Đạt nói ý định của mình đi châu Vô Vi thăm một người bạn. Dư Hữu Trọng nói:
- Anh ở nhà một thời gian nữa chứ! Em muốn lên phủ thi một chút, anh đợi khi nào em về hẵng đi.
- Em không biết bao nhiêu tiền dạy học ở Dương Châu ta tiêu hết ráo cả rồi à! Bây giờ phải đi ngay đến châu Vô Vi lấy ít tiền để tiêu vào mùa hạ đây! Em cứ lên phủ mà thi. Ở nhà đã có vợ và chị lo liệu cho. Anh em mình bấy lâu vẫn cứ đóng cửa mà sống. Vậy em cần anh ở nhà làm gì?
- Lần này anh đi, nếu có được vài chục lạng thì khi trở về chúng ta có thể chôn cất cho thầy mẹ. Quan tài cha mẹ mười mấy năm nay ở trong nhà. Mỗi khi nghĩ đến việc đó là em không sao an tâm được.
- Phải đấy! Khi nào trở về, ta phải làm việc ấy ngay. Vài ngày sau, Dư Hữu Đạt đi châu Vô Vi. Mười hôm sau, quan chủ khảo đến Phượng Dương. Dư Hữu Trọng thu xếp hành lý đến đấy thuê một cái phòng để ở. Hôm ấy là ngày mồng tám tháng tư. Hôm mồng chín, quan chủ khảo hành hương. Mồng mười, treo bảng nhận đơn. Ngày mười một, niêm yết số học sinh tám huyện ở Phụng Dương được thi. Ngày mười lăm công bố người đỗ: Mỗi huyện ba người đỗ, trong đó có Dư Hữu Trọng. Ngày mười sáu, thi phúc thí. Ngày mười bảy, công bố kết quả. Hữu Trọng đỗ thứ hai trong số hạng nhất. Y ở Phụng Dương đến ngày hai mươi tư tiễn quan chấm thi xong mới trở về Ngũ Hà.

Khi người anh là Hữu Đạt đến châu Vô Vi, tri châu ở đấy nhờ tình bạn cũ, giữ lại mấy ngày nói:
- Tôi mới làm quan ít lâu nên không có tiền cho anh. Nay có một việc anh có thể giúp và tôi sẽ chuẩn y. Con người ấy có thể đưa ra bốn trăm lạng chia cho ba người. Như vậy, phần của anh là một trăm ba mươi lạng. Khi trở về anh có thể dùng số tiền ấy để chôn cất hai bác. Sau này tôi sẽ giúp anh việc khác nữa.
Hữu Đạt mừng lắm cám ơn tri châu và tìm bị cáo. Hắn là Phong Ảnh can tội giết người. Dư nói giúp hắn Quan tri châu chuẩn y. Hắn đưa tiền ra và Dư từ biệt tri châu, thu xếp hành lý để về nhà.
Đường về đi qua Nam Kinh, Hữu Đạt nghĩ bụng: Đỗ Thiếu Khanh bây giờ đang ở cái nhà bên sông gần cầu Lợi Thiệp. Ông ta là em họ mình; mình nhân tiện đến thăm chơi.
Hữu Đạt bèn vào thành đến tìm Đỗ Thiếu Khanh. Thiếu Khanh ra tiếp. Thấy Dư, Đỗ Thiếu Khanh mừng rỡ.
Chào nhau xong, hai người cùng ngồi, ôn lại những chuyện xảy ra hơn mười năm từ khi xa nhau. Dư thở dài mà rằng:
- Cả cái cơ nghiệp đồ sộ như thế, thật là đáng tiếc. Em trước là con một ông quan, nay phải viết văn mà sống. Cuộc đời sa sút như thế thì chịu làm sao được!
- Tôi ở đây vui với bạn bè sông núi. Bây giờ cũng quen rồi. Không giấu gì anh, tôi là cái thằng quê mùa mộc mạc, vợ chồng nuôi mấy đứa con, áo vải ăn rau, trong lòng bình thản. Việc cũ đã qua có tiếc cũng vô ích.
Nói xong Thiếu Khanh bưng trà mời anh họ uống. Uống trà xong, Đỗ đi vào nhà hỏi vợ xem có thể dọn một bữa tiệc mời Hữu Đạt ăn không. Bấy giờ Đỗ Thiếu Khanh đã nghèo, không dọn được tiệc nên đang nghĩ đến việc đem cái gì để cầm. Hôm ấy là mồng ba tháng năm, vừa gặp lúc nhà Trang Trạc Giang gửi đến một gánh lễ vật tết Thiếu Khanh. Người đầy tớ mang một cái quả trong có một con cá, hai con vịt rán, một trăm bánh nếp, hai cân đường trắng, lại có bốn lạng bạc. Đỗ Thiếu Khanh nhận lễ vật xong viết thiếp cảm ơn và đưa cho người đầy tớ cầm về. Đỗ Thiếu Khanh nói với vợ:
- Thế là có thể tiếp khách rồi đấy!
Thiếu Khanh sai mua thêm ít thức ăn nữa và vợ Đỗ thân hành dọn tiệc. Trì Hành Sơn và Vũ Thư vẫn ở cạnh. Thiếu Khanh cũng viết giấy mời họ đến gặp Dư Hữu Đạt. Khi họ đến, hỏi thăm sức khoẻ xong mọi người cùng ngồi vào bàn uống rượu. Trong khi ăn tiệc, Dư nhắc đến ý định của mình muốn tìm một chỗ để chôn cất cha mẹ. Trì Hành Sơn nói:
- Này anh! Miễn là đất khô ráo, không có gió và mối là anh có thể chôn cất hai cụ. Còn cái chuyện phát phú, phát quí, hoàn toàn là bịa đặt tất.
Dư nói:
- Đúng thế! Nhưng ở quê tôi, người ta chú ý việc này lắm. Do việc tìm đất rất khó khăn nên họ thường hoãn việc chôn cất cha mẹ. Tôi không bao giờ để tâm đến việc phong thủy. Các anh có biết nguồn gốc câu chuyện về Quách Phác(1) như thế nào không?Trì thở dài:
- Từ khi chức quan coi việc chôn cất bị bỏ bê, lệ chôn theo họ(2) không được tôn trọng nữa. Nhiều người có học thức cũng chạy theo thuyết phong thủy. Nhưng càng chạy theo phong thủy thì càng tỏ ra bất hiếu.
Dư kinh ngạc:
- Anh nói gì thế?
- Để tôi đọc anh nghe mấy câu thơ:
Khí tản gió xông đất chẳng lành
Tiên sinh điểm huyệt lẽ sao đành?
Giữa trưa chưa khỏi vòng tai nạn.
Người thế tin gì sách táng kinh!

Đó là một bài thơ của một nhà thơ viết trên mộ Quách Phác. Không điều gì làm tôi bực mình hơn là bọn thầy địa lý ngày nay, chúng chỉ mượn lời Quách Phác nói: đất này phát tiến sĩ, đất này phát trạng nguyên. Tôi hỏi anh: danh hiệu trạng nguyên là bắt đầu từ đời Đường mới có. Như thế thì Quách Phác sống ở đời Tần làm sao biết được danh hiệu đó mà lại nói đất thế nào thì phát trạng nguyên? Thật là buồn cười vô cùng. Nếu từ xưa có thể đoán được công danh theo địa lý thì tại sao Hàn Tín lúc chôn mẹ tìm một nơi cao ráo rộng rãi, sau đó làm đến Hoài âm hầu nhưng vẫn không khỏi bị tru di tam tộc? Như thế thì đất kia tốt hay xấu? Lại càng buồn cười hơn khi những cái bọn tục nhân kia nói rằng lăng mộ triều ta là do Lưu Cơ chọn đất. Lưu Cơ là con người đại hiền nhất trong triều đại ta. Ông ta lo việc binh, nông, lễ, nhạc, còn chưa đủ thì giờ, hơi đâu mà lo đến việc chôn đất? Không! Khi Hồng vũ lên ngôi thì việc chọn đất là việc bọn thuật sĩ làm chứ Lưu Cơ không có liên quan gì đến đó hết.
Dư Hữu Đạt nói:
- Anh giảng giải như vậy thật là rõ ràng, điếc cũng phải tỏ, mù cũng phải sáng.
Vũ Thư nói:
- Lời của anh Hành Sơn thật là không sai chút nào. Năm trước đây có trong thành này có một chuyện xảy ra, tôi xin nói các anh nghe.
Hữu Đạt nói:
- Tôi muốn nghe lắm, anh nói đi.
- Ở cầu Hạ Phù ngõ Thi gia có nhà thi ngự sử...
Trì Hành Sơn nói:
- Cái việc của Thi ngự sử tôi cũng có nghe nhưng không rõ lắm.
Vũ Thư nói:
- Thi ngự sử có một người em, anh này cho rằng Thi ngự sử đỗ tiến sĩ mà mình thì không đỗ là vì mồ mả bà mẹ không tốt nên chỉ phát về phía người anh mà không phát về phía người em. Ông ta mới nuôi một thầy phong thủy ở trong nhà và suốt ngày bàn bạc về việc chôn cất mẹ. Ngự sử nói: Mẹ chôn cất đã lâu rồi không nên dời đi nơi khác nữa. Nói rồi khóc lóc van xin người em, nhưng người em vẫn cứ đòi dời mả mẹ đi. Anh chàng phong thủy kia dọa dẫm: Nếu ông mà không dời mả mẹ đi thì không những ông hai không bao giờ làm quan mà còn sẽ bị mù mắt. Người em lại càng hoảng sợ, liền nhờ thầy phong thủy đi khắp nơi tìm đất. Người em nuôi sẵn một thầy phong thủy trong nhà nhưng lại quen rất nhiều phong thủy ở ngoài. Khi ông thầy phong thủy này đã tìm ra được đất, người em mời thêm mấy thầy phong thủy khác đến xem. Trò đời thật buồn cười! Mấy ông thầy kia cứ chê bai lẫn nhau chẳng ai chịu ai! Khi một thầy phong thủy tìm được đất này, thì tức khắc thầy phong thủy kia cho đất ấy hỏng.
Cuối cùng, ông thầy phong thủy lại tìm một nơi khác. Hắn đút tiền cho một người thân thích ở bên trái miếng đất kia tung tin rằng một đêm nằm mê thấy bà cụ ông ngự sử mặc áo lễ, đội mũ phượng đã chỉ miếng đất ấy cho hắn, ý muốn được cất mộ ở đấy. Vì chính bà cụ đã chọn đất cho mình, nên tất cả các thầy phong thủy kia không nói vào đâu được. Thế là dời mả mẹ đến để vào đó. Hôm ấy, Thi ngự sử và người em quỳ bên cạnh mả mẹ. Khi mả vừa đào lên thì hơi nóng trong quan tài phụt ra, đập vào mắt người em. Người em mù ngay tại chỗ. Nhưng hắn lại càng yên chí rằng ông thầy phong thủy của hắn là một ông thầy biết cả quá khứ lẫn tương lai. Sau đó, hắn trả cho ông ta mấy trăm lạng.
Dư Hữu Đạt nói:
- Dân ở chỗ tôi rất thích việc dời mả. Anh Thiếu Khanh! Theo anh như thế là đúng hay sai?
- Tôi xin nói thẳng: triều đình phải ra một cái luật bắt buộc ai muốn dời mả thì phải làm một cái đơn đưa đến nha môn và người thầy phong thủy phải cam đoan rành mạch rằng trong quan tài có bao nhiêu tấc nước, có bao nhiêu đấu mối. Nếu mở ra mà quả như vậy thì được. Trái lại nếu có mối có nước mà khi khai quật lên không có, thì người đao phủ đứng bên cạnh sẽ chặt ngay đầu thầy phong thủy chó má, còn người cất mả sẽ bị xử vào tội con cháu mưu giết ông cha và bị xẻo ra từng mảnh. Có thể, cái trò phong thủy mới có thể chấm dứt được.
Dư, Vũ, Trì vỗ tay reo:
- Hay, hay, phải uống một chén rượu mới được!
Nói chuyện một hồi, Dư đem việc Thang tổng trấn mời mình dạy hai người con ra nói, và cười:
- Rõ thật là vũ phu!
Vũ Thư nói:
- Cũng có những người vũ phu nhưng lại nhã hết sức.
Vũ Thư đem chuyện Tiêu Vân Tiên ra kể lại và nói:
- Anh Thiếu Khanh, anh đem tập tranh ấy đưa cho anh Dư xem.

Thiếu Khanh đem tập tranh ra. Sau khi nhìn bức tranh, Hữu Đạt đọc mấy bài thơ của Ngu bác sĩ và của những người khác. Và nhân hơi men, Hữu Đạt làm thêm một bài thơ họa theo vần của mọi người. Ba người kia khen ngợi. Họ uống mãi đến nửa đêm và Dư ở lại với Đỗ liền ba ngày.
Ngày thứ ba, một người buôn vịt ở Ngũ hà đến, mang một bức thư của Hữu Trọng. Khi Dư Hữu Đạt giở ra đọc thì mặt tái ngắt.
Nhân phen này khiến cho:
anh em giúp đỡ, tình cốt nhục nào dám hững hờ;
bầu bạn nhường nhau, nghĩa thanh khí càng thêm quấn quít.
Muốn biết nội dung bức thư thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.

---------------
(1) Quách Phác người đời Tần; tục truyền là tổ phong thủy; làm sách táng kinh. Sau bị Vương Đồn giết khi chính trưa.
(2) Thời xưa có lệ chôn cất theo họ, trong vòng năm đời chôn ở một nơi.


Hồi 45
Dày hữu nghị thay anh chịu tội lỗi,
Bàn địa lý về quán táng song thân

Dư Hữu Đạt đưa bức thư nhà cho Đỗ Thiếu Khanh xem. Đại khái bức thư viết: “Ở nhà vừa xảy ra một việc, em đang lo liệu. Anh nhất thiết nhớ có về. Nghe tin anh ở đấy với chú. Thiếu Khanh, em rất yên tâm. Anh cứ ở đấy và đừng có bận tâm gì hết. Khi nào thu xếp công việc xong, em sẽ đến đón anh về”.
Dư Hữu Đạt hỏi:
- Có việc gì xảy ra?
Đỗ nói:
- Nếu em anh không muốn nói ra thì anh cũng không có cách gì biết được. Anh cứ ở đây rồi sẽ biết.
Dư Hữu Đạt viết thư cho em: “Có việc gì thế? Em viết tất cả cho anh biết thì anh mới yên tâm được. Em không nói chỉ càng làm anh thêm lo lắng mà thôi”.
Người bán vịt mang bức thư về cho Dư Hữu Trọng. Lúc đó Hữu Trọng đang nói chuyện với một tên sai nhân ở nha môn phái đến. Hữu Trọng cầm bức thư và bảo người bán vịt về. Hữu Trọng nói với tên sai nhân:
- Tờ công văn này là để bắt tên phạm tội Dư Hữu Trọng. Nhưng tôi không bao giờ ở Vô Vi cả. Như vậy tôi đến nha môn để làm gì?
- Ai biết ông đến hay không? Tất cả công việc của bọn sai nhân chúng tôi là cứ chiếu theo công văn mà bắt người. Trong nha môn chúng tôi, khi bắt bọn ăn cắp thì đời nào chúng lại thú nhận, ngay lúc bị kìm kẹp gần chết chúng cũng chẳng nói thực bao giờ!Hữu Trọng đành phải lên nha môn với hắn. Y đến công đường gặp tri huyện, quỳ và bẩm:
- Con không bao giờ đến Vô Vi. Con không biết gì về việc này hết.
- Ta không biết anh có ở đấy hay không! Nhưng ta có một tờ công văn ở châu Vô Vi gửi đến. Anh nói không bao giờ ở châu Vô Vi hết thì hãy nhìn đây.
Tri huyện lấy một công văn có dấu son đỏ, bảo sai nhân đưa cho Hữu Trọng. Hữu Trọng đọc: “Về việc quan tri châu ở châu Vô Vi ăn hối lộ. Dự cống sinh người Ngũ Hà đã nhận của hối lộ...”.
Hữu Trọng nói:
- Việc này thì ngài thấy rất rõ: Tờ công văn này nói “cống sinh Hữu Trọng”. Nhưng con là tú tài, ít nhất cũng phải mười năm nữa mời là cống sinh.
Hữu Trọng nói xong trả tờ công văn và định quay đi ra. Tri huyện nói:
- Ông Dư! Đợi một lát đã! Tôi hiểu lời của ông! Cái đó có thể rõ ngay.
Và quay hỏi người thơ lại:
- Trong huyện có ai là cống sinh Dư Hữu Trọng không?
- Gia đình ông Dư có một người đỗ cống sinh nhưng không phải tên là Hữu Trọng.
Hữu Trọng nói:
- Như thế thật là tờ công văn này nói vu vơ không vào đâu! Hữu Trọng lại đứng dậy định đi ra. Tri huyện nói:
- Ông Dư! Ông về nhà viết một tờ trình nói rõ mình vô tôi. Sau đó tôi sẽ trả lời hộ ông.

Hữu Trọng vâng dạ đi ra. Y cùng với tên sai nhân ra khỏi nha môn vào một tiệm trà để uống trà. Hữu Trọng đứng dậy định đi thì sai nhân nói:
- Ông đi đâu thế? Tôi theo ông từ nhà đến nha môn suốt cả buổi sáng mà chưa hề có cơm nước gì cả. Mặc dầu đấy là việc của triều đình, nhưng ông cũng phải nể tôi thế nào chứ? Tôi giờ hơi sức đâu đi mãi với ông được nữa.
- Quan huyện bảo tôi về nhà viết một tờ trần tình.
- Ở công đường, ông vừa nói rằng ông là tú tài. Nhưng tú tài thì suốt năm viết đơn hộ người khác, còn về đơn của mình lại phải nhờ người khác viết hộ. Bên kia đường sau tiệm trà là chỗ cho các ông tú tài viết đơn. Ông vào đấy mà nhờ người ta viết.
Hữu Trọng và tên sai nhân vào một cái nhà sau tiệm trà. Tên sai nhân nói với một người ngồi đấy:
- Ông Dư muốn viết một cái đơn, anh viết giúp, ông Dư sẽ viết bản nháp và anh chép lại. Nếu ông ta mà không trả tiền cho anh thì thật lại nguy cho tôi. Tôi còn phải đến hàng cơm tìm cái thằng bị nhốt hôm qua, rồi tôi sẽ trở lại đây.
Hữu Trọng vái chào người viết hộ.
Người kia ngồi cái ghế ở bên bàn, đầu đội mũ rách, mặc áo cánh rách, đi đôi giày long cả đế. Hữu Trọng nhận ra là Đường Tam Đàm, một người bạn ở trong huyện, vốn là một người gây kiện tụng, lừa đảo. Đường Tam Đàm thấy Hữu Trọng liền nói:
- Ông Dư! Mời ông ngồi!
- Ông Đường! Ông đến đây sớm thế?
- Nào có sớm gì đâu! Sáng sớm tinh mơ, tôi ăn miến ở nhà ông Phương thứ sáu. Sau khi tiễn ông ta ra khỏi thành tôi mới đến đây. Việc ấy tôi biết cả rồi.
Y kéo Hữu Trọng ra một phía và nói thầm:
- Này ông hai! Việc này tuy không phải là án quan trên đưa xuống, nhưng cũng gần như là án quan trên đưa xuống. Ai lại không biết ông anh của ông hiện nay đang ở Nam Kinh sao? Nhưng trong những việc như thế này, điều quan trọng nhất vẫn là việc xét xử của quan huyện ở đây.
Mà quan huyện ở đây thì họ Bành nói gì là quan làm nấy. Như vậy, ông nên mau mau đến gặp ông Bành thứ ba để bàn bạc. Tất cả gia đình họ Bành đều dữ tợn như sói như cọp cả. Chỉ có ông Bành thứ ba là người tốt mà thôi. Nếu nhờ ông ta giúp đỡ trong lúc nguy cấp thì có lẽ ông ta cũng chẳng nghĩ gì đến việc trước đây anh không đi lại với ông ta. Ông ta là người nhân đức độ lượng, anh không sợ gì hết. Nếu như anh muốn, tôi sẽ cùng đi với anh. Thực ra hằng ngày phải năng lui tới với những người thân sĩ như thế. Tất cả chỉ vì ông anh của anh quá kiêu ngạo. Bây giờ, gặp phải việc này, anh biết nhờ vả vào ai.
- Cám ơn anh có lòng săn sóc đến tôi. Nhưng vừa rồi quan huyện bảo tôi viết tờ trình để cho ngài trả lời hộ. Còn việc kia xin cho tôi suy nghĩ sau.
- Cũng được! Tôi xem anh viết như thế nào.

Dư viết ngay tờ trình và nộp cho tri huyện, tri huyện bảo thư biện căn cứ vào đó viết công văn trả lời cho châu Vô Vi. Và cố nhiên thư biện không quên đòi tiền giấy bút. Nửa tháng sau, một công văn khác lại đến. Lần này viết rõ ràng hơn: “Phạm nhân Dư Hữu Trọng là cống sinh ở Ngũ Hà, người tầm thước, mặt trắng và lún phún râu trạc độ năm mươi tuổi. Ngày mồng tám tháng tư, hắn đến châu Vô Vi gặp Phong Ảnh trong miếu Thành Hoàng để dập tắt một vụ án mạng. Ngày mười một, hắn đến nha môn Vô Vi để xin xỏ, ngày mười sáu sau khi thẩm cung ở châu, Phong Ảnh sửa soạn một bữa tiệc đưa đến miếu Thành Hoàng, Phong Ảnh đưa ra bốn trăm lạng chia cho ba người. Dư Hữu Trọng lấy một trăm ba mươi ba lạng về phần mình. Ngày hai mươi hắn rời khỏi nha môn đi Ngũ Hà theo đường qua Nam Kinh. Chúng tôi có những chứng cớ rõ ràng về việc hắn đã nhận số tiền hối lộ. Tại sao lại nói không có người như thế? Đây là một vụ án mạng và luật pháp bị vi phạm. Phiền quí huyện tra xét việc này và giải ngay phạm nhân đến châu chúng tôi để có thể xét xử cho ra manh mối. Việc gấp”.
Tri huyện lại bảo sai nhân đến tìm Hữu Trọng. Hữu Trọng nói:
- Việc này rõ ràng lắm rồi. Để tôi viết một cái đơn khác, xin quan xét giúp cho.
Sau đó, Hữu Trọng về nhà viết một cái đơn khác. Người em vợ là Triệu Lâm Thư nói:
- Anh không nên làm thế. Rõ ràng là ông anh của anh can vào việc ấy! Ngày nay công văn về tới tấp. Anh còn chuốc lấy tội vào thân làm gì? Anh nên trình bày sự thực đi, và nói toạc ra rằng người anh của anh hiện nay ở Nam Kinh, để họ viết công văn đến đó bắt. Như thế là anh vô sự “Con nít không khóc thì bao giờ mẹ cho bú”. Rước quan tài người ta về khóc lóc để làm gì?
- Việc của anh em tôi, tôi sẽ có cách, cậu không phải lo.
- Nếu không phải tôi thì ai nói thế làm gì! Anh xem, tính khí ông anh của anh thật là ngang ngược, cứ sinh sự với người ta. Ông Phương thứ ba ở hiệu “Nhân xương” và ông Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân đại” là hai hương thân khét tiếng ở Ngũ Hà. Họ chơi với quan huyện Vương thân nhau như ruột thịt. Thế mà ông anh của anh lại gây chuyện với họ. Cách đây một hai ngày, con ông Phương thứ hai kết hôn với con gái ông Bành thứ năm. Ông Bành thứ năm lại vừa đỗ tiến sĩ. Tôi nghe nói ông huyện Vương làm mối và đám cưới định vào ngày mồng ba tháng sau. Trong đám cưới thế nào người ta cũng bàn chuyện này. Ông Bành thứ năm không cần nói nhiều về những tật xấu của ông anh anh. Ông chỉ cần nói bóng một câu là quan huyện hiểu. Lúc ấy quan huyện nổi giận cho là anh đã giấu ông ta thế là anh đủ chết. Anh phải nghe tôi mới được.
- Tôi hãy viết tờ trình một lần nữa, nếu quan thúc bách riết lắm, tôi sẽ nói thật cũng chưa muộn.
- Anh có thể nhờ ông Bành thứ năm giúp cho.
- Cái đó hãy khoan!
Triệu Lâm Thư thấy Hữu Trọng không nghe mình, liền bỏ đi. Hữu Trọng viết một tờ trình khác đưa lên huyện. Quan huyện căn cứ theo tờ trình, viết công văn trả lời như sau: “Tờ công văn của quí châu bảo phải bắt phạm nhân Dư Hữu Trọng, cống sinh ở Ngũ Hà, dáng người tấm thước, có râu lún phún, năm mươi tuổi, da mặt trắng, mồng tám tháng tư hắn ở Vô Vi, gặp Phong Ảnh trong miếu Thành Hoàng bàn việc dìm vụ án mạng. Ngày mười một, hắn đến nha môn châu Vô Vi để xin xỏ. Sau khi vụ án đã xét xong, ngày mười sáu Phong Ảnh có làm một bữa tiệc đưa đến miếu Thành Hoàng. Phong Ảnh đưa ra bốn trăm lạng bạc chia đều cho ba người. Hữu Trọng được một trăm ba mươi ba lạng. Ngày hai mươi tám, hắn rời khỏi Vô Vi về Ngũ Hà theo đường qua Nam Kinh. Có những chứng cớ rõ ràng về việc hắn nhận số tiền hối lộ. Sao lại nói là không có con người nào như thế? Đay là vụ án mạng và luật pháp bị vi phạm... Khi chúng tôi nhận được công văn thì lập tức cho người bắt Hữu Trọng. Theo trong lời khai: Hữu Trọng dáng người tầm thước, mặt rỗ, râu lún phún, bốn mươi tư tuổi là một lẫm sinh chưa phải là cống sinh. Ngày mồng tám tháng tư; quan chủ khảo đến Phụng Dương, mồng chín quan hành hương, mồng mười treo bảng, mười một thí sinh tám huyện đều thi. Dư Hữu Trọng cũng đi thi. Ngày mười lăm, công bố kết quả. Hữu Trọng đỗ. Ngày mười sáu Hữu Trọng thi Phúc Thí, đỗ thứ hai trong hàng thứ nhất. Ngày hai mươi tư, Hữu Trọng tiễn quan chấm thi lên đường rồi trở về nhà. Như vậy làm thế nào một người đồng thời thi ở Phụng Dương, đồng thời lấy tiền hối lộ ở Vô Vi? Huyện tôi sau khi hỏi, có đem sổ sách nhà trường ra xem thì quả là y có thi ở Phụng Dương, vì vậy không thể nào đến Vô Vi lấy tiền hối lộ cho nên không thể bắt y được. Chúng tôi nghĩ rằng có tên vô lại nào mạo danh Dư Hữu Trọng báo với ngài như vậy để trốn tránh tội của mình”.
Sau khi tờ công văn gửi đi, không thấy hỏi han gì nữa. Hữu Trọng như người cất được gánh nặng, viết thư cho anh về nhà. Hữu Đạt về nhà hỏi tỉ mỉ xem công việc như thế nào, nói:
- Tất cả thật là đều nhờ ở em hết. Và nói:
- Em tiêu ở nha môn mất bao nhiêu tiền?
- Việc đó anh hỏi làm gì? Nay anh có tiền đem về đây, chúng ta lo việc chôn cất cho cha mẹ.

Vài ngày sau, hai người bàn với nhau đến nhà thầy phong thủy là Trương Vân Phong. Vừa lúc ấy có một người bà con mời hai người đến nhà uống rượu. Sau khi đến thăm Trương Vân Phong, hai người đến nhà người bà con. Ở đấy không có người khách nào, ngoài hai người anh họ là Dư Phu và Dư Ân. Thấy Hữu Đạt và Hữu Trọng đến, hai người ra chào. Mọi người ngồi nói chuyện. Dư Phu nói:
- Hôm nay quan huyện Vương uống rượu ở nhà ông Bành thứ hai.
Người chú nói:
- Quan huyện Vương chưa đến đâu, quan vừa sai thầy bói cầm danh thiếp đến đây.
Dư Ân nói:
- Ông Bành thứ tư lần này làm chủ khảo. Hôm trước tôi nghe nói khi ông ta ở triều ra đi, ông có một câu gì sai nên bị nhà vua tát một cái.
Hữu Đạt cười, nói:
- Không biết ông ấy có nói gì sai không? Nhưng nếu ông ta có nói sai thì nhà vua ở xa làm sao mà tát được?
Dư Ân đỏ mặt nói:
- Không phải thế! Nay ông ta làm quan to, làm hàn lâm viện đại học sĩ. ngày nào ông ta cũng ở trong nội các bàn bạc. Nếu ông ta có nói cái gì sai thì chắc là bị nhà vua đánh. Không có lẽ nhà vua lại sợ ông ta?
Người chủ nói:
- Anh Hữu Đạt, trước đây ở Nam Kinh, anh có nghe quan phủ Ứng Thiên đổi về kinh không?
Dư Ân chưa trả lời, thì Dư Phu đã nói:
- Việc này cũng do ông Bành thứ tư đấy. Một hôm nhà vua hỏi ông ta có nên thay người khác làm tri phủ Ứng Thiên không? Ông Bành muốn tiến cử người bạn học của mình là Thang Tấu liền tâu với vua xin đổi. Ông lại muốn tránh tiếng nên viết một bức thư dặn quan Phủ Doãn lên kinh bệ kiến. Vì vậy cho nên quan Phủ Doãn phải lên kinh.
Hữu Trọng nói:
- Viện hàn lâm không lo việc thuyên chuyển quan lại. Chưa chắc việc này đã đúng!
Dư Ân nói:
- Đó là chính miệng quan huyện Vương hôm trước nói ở bữa tiệc trong hiệu Nhân Đại, không đúng sao được?
Đang nói chuyện thì tiệc rượu bưng lên. Có chín đĩa: thịt xào rau, cá chiên, gà nấu miến, trứng, tôm xào hành, một đĩa hạt dưa, một đĩa sâm, một đĩa lựu, một đĩa đậu phụ khô. Lại có một vò rượu nóng đậy kín mít. Họ uống rượu một lát, người chủ vào phòng lấy ra một cái bao bằng vải đỏ, ngoài buộc sợi dây đỏ, có mấy cục đất. Y hỏi Dư Phu và Dư Ân:
- Hôm nay tôi mời hai ông đến muốn nhờ hai ông xem hộ cái đất này ở trên núi có thể dùng được không?
Hữu Trọng hỏi:
 - Đất này lấy lúc nào?
- Lấy hôm kia.
Dư Phu muốn mở túi ra xem hòn đất thế nào. Dư Ân tranh lấy và nói:
- Để tôi xem đã.
Y giật lấy móc hòn đất ra đặt trước mặt, hết nghiêng đầu về bên phải, lại ngả đầu về bên trái để nhìn, cuối cùng bẻ hòn đất ra, bỏ vào miệng nhai lấy nhai để. Nhai một hồi, Dư Ân đưa hòn đất cho Dư Phu và nói:
- Anh Bốn, anh xem đất này như thế nào?

Dư Phu cầm hòn đất để dưới đèn hết quay bên nọ lại quay bên kia rồi bỏ một miếng vào miệng nhai chầm chậm, mắt nhắm tít, miệng ngậm lại(1). Nhai một hồi lâu mới mở mắt ra và hít cục đất một lát rồi nói:
- Đất này không ra gì thực!
Người chủ hoảng hốt:
- Có thể chôn cất được không?
Dư Ân nói:
- Đất này không thể chôn cất được. Nếu chôn vào đấy thì gia đình nghèo đói ngay lập tức.
Dư Hữu Đạt nói:
- Tôi xa nhà đã mười mấy năm, không ngờ ngày nay hai em lại tinh thông phong thủy như vậy.
Dư Phu nói:
- Không giấu gì anh, đất nào hai anh em tôi đã xem thì không có ai trách vào đâu được nữa.
Dư Hữu Đạt hỏi:
- Đất này lấy ở núi nào?
Dư Hữu Trọng chỉ người chủ nhà nói:
- Đây là đất lấy ở mộ chú Tư. Họ đang làm việc dời mả đấy.
Dư Hữu Đạt tính đốt ngón tay nói:
- Chú Tư chết đến nay đã hai mươi năm, cả gia đình đều bình yên, dời đi làm gì?
Dư Ân nói:
- Sao anh lại nói như vậy? Đất này nước ngấm vào, lại bị mối ăn, làm con cháu mà để cha nằm ở nơi nước ngấm vào, bị mối ăn không dời đi sao còn là người được?
Dư Hữu Đạt nói:
- Bây giờ tìm đất mới ở đâu?
Dư Ân nói:
- Đất này không phải tôi tìm, đất chúng tôi tìm là ở đỉnh núi Tam Tiên. Để tôi nói cho anh biết kiểu đất ấy như thế nào?
Bèn cất hai đĩa ở trên bàn đi, chấm ngón tay vào rượu, vẽ một vòng lên bàn và nói:
“Này anh xem, đây là đỉnh Tam Tiêm mạch bắt đầu từ núi Phố Khẩu chạy xuống, cứ một cồn to lại một cồn nhỏ, ngoằn ngoèo quanh lượn đi mãi, dồn đến gò Chu Gia Cương trong huyện, ”long thần" uốn khúc đi qua, rồi lại một cồn to, một cồn nhỏ, lô nhô mấy mươi cái cồn đi thẳng xuống, kết thành một cái huyệt tình. Huyệt tình này gọi là “hoa sen mặt nước”.
Đang nói chuyện thì người đầy tớ đem vào năm bát miến. Chủ nhà đổ đĩa thịt xào vào bát miến, tưới dấm, rồi mời mấy người ăn, mọi người cầm đũa, bắt đầu ăn. Dư Ân ăn xong lấy ra hai sợ miến đặt nằm ngoằn ngoèo trên bàn giống như con rồng rồi mở tròn đôi mắt mà nói:
- Đất tôi chọn thì phải đỗ trạng nguyên. Nếu đã chôn vào đấy mà đỗ bảng nhãn thì cứ móc mắt tôi đi.
Người chủ hỏi:
- Ông có chắc là chôn ở đây thì phát không?
Dư Phu nói:
- Sao lại không? Phát chứ lỵ! Không phải đợi đến ba bốn năm đâu!
Dư Ân nói:
- Chôn cất xong là phát liền. Ông cứ đem đến đấy thì biết ngay.
Dư Hữu Đạt nói:
- Trước đây, ở Nam Kinh, tôi nghe mấy người bạn nói việc chôn cất chỉ cốt yên lòng cha mẹ, còn việc con cháu phát đạt là việc hoang đường.
Dư Phu nói:
- Không phải thế đâu! Cha mẹ được yên thì con cháu sẽ phát đạt chứ!
Dư Ân nói:
- Đúng thế! Cứ xem mộ của nhà họ Bành thì biết! Móng con rồng vừa nằm ngay vào phía tay trái của ông thân sinh ra ông Bành, vì vậy, nên ông Bành thứ tư bị vua tát đấy. Ông có thể chối không phải là móng con rồng được không? Này anh! Nếu anh không tin, ngày mai tôi sẽ đưa đến mộ xem thì anh thấy ngay.
Uống vài chén rượu nữa, mọi người đứng dậy ra về. Một người đầy tớ mang đèn lồng đưa họ về đường Dư Gia. Mọi người về nhà ngủ.
Hôm sau Hữu Đạt nói với em:
- Theo ý em thì hai người em họ của chúng ta nói như thế nào?
- Nói thì hay lắm nhưng học không đúng thầy. Chúng ta đến mời ông Trương Vân Phong thì hơn.
- Nói như vậy đúng đấy.

Hôm say hai người sửa soạn bữa cơm, mời Trương Vân Phong đến. Trương Vân Phong nói:
- Ngày thường tôi nhờ vả các ông rất nhiều. Bây giờ các ông có việc đại sự tôi xin hết lòng.
Dư Hữu Đạt nói:
- Anh em tôi là học trò nghèo, được ông thương đến, có việc gì thất lễ xin ông bỏ qua cho.
Hữu Trọng nói:
- Chúng tôi chỉ muốn chôn cất cha mẹ cho phải phép, nên đến đây nhờ ông. Chúng tôi không mong phú quí, chỉ mong có chỗ đất khô ráo, ấm áp, không có gió, không có mối như thế là chúng tôi cám ơn ông hết sức.
Trương nhận lời, vài hôm sau Trương tìm được một miếng đất ở bên cạnh mộ tổ. Hữu Đạt và Hữu Trọng cùng Trương Vân Phong đến đây xem. Hữu Đạt đưa ra hai mươi lạng bạc để mua miếng đất, nhờ Trương Vân Phong chọn ngày tốt. Hôm ấy, trước khi chọn được ngày tốt Hữu Đạt ở nhà sảnh, mua hai chai rượu, làm sáu, bảy đĩa nhắm định mời em đến nói chuyện. Vừa lúc ấy vào buổi chiều có tờ danh thiếp đưa đến, viết:
“Chiều nay ở nhà em có bữa cơm rau, mời hai Anh đến chơi, nói chuyện, xin đừng chối từ.
- Ngu Lương”.
Hữu Đạt xem danh thiếp, nói với người đầy tớ.
- Tôi biết rồi, về nói với ông chủ rằng chúng tôi sẽ lại.
Người đầy tớ vừa đi khỏi, thì có một người ở Tô Châu mở hàng rượu cho người mời Hữu Đạt và Hữu Trọng đến nhà để tắm. Hữu Đạt nói với Hữu Trọng:
- Thế nào ông Lăng Phong cũng mời chúng ta đến uống rượu. Chúng ta đến đó trước rồi hãy đến nhà ông Ngu.
Hai anh em đến nhà Lăng Phong. Vừa mới bước vào cửa thì đã nghe thấy tiếng ồn ào. Vì gia đình Lăng Phong không ở đấy nên y có thuê hai cô gái chân to làm việc. Đàn ông ở Ngũ Hà đều thường ngủ với hai cô này. Ngay trong những bữa tiệc của những gia đình lớn, mọi người đều đem việc này ra nói, cười lăn cười lóc, cho đó là vui và chẳng lấy thế làm xấu hổ gì cả. Hai cô gái này ở nhà họ Lăng, ngờ vực lẫn nhau. Người này nghi người kia, lấy được nhiều tiền của chủ, nên mắng mỏ nhau và đánh lẫn nhau. Trong lúc mắng nhau, hai người lại bới móc nhau rằng họ ngủ cả với người thư ký trong hiệu, cho nên người thư ký chạy vào cãi nhau với hai người này. Sau khi đã đập vỡ cả chén đĩa, họ đập vỡ luôn cả thùng nước tắm. Hai anh em họ Dư đến đấy đã không được uống rượu, không được tắm lại phải dàn xếp đến nửa ngày mới xong. hai người cáo từ chủ nhà ra về. Chủ nhà bẽ mặt, cứ xin lỗi hoài và mời hôm sau đến. Hai người ra khỏi nhà Lăng đến nhà Ngu, thì thấy tiệc rượu đã tàn, cổng đã đóng. Hữu Đạt cười, nói với em:
- Thôi chúng ta về nhà ăn tiệc của chúng ta đi.
Dư Hữu Trọng cười, cùng anh về nhà bảo lấy rượu ra uống không ngờ hai chai rượu và sáu bảy đĩa nhắm đã được hai bà vợ dùng hết, giờ chỉ còn trơ lại có chai không, và mấy đĩa không. Dư Hữu Đạt nói:
- Hôm nay chúng ta có ba bữa rượu, rốt cục chả còn bữa nào. Mới biết đến cả việc ăn uống cũng là do trời định trước!
Hai người cười vang, lấy cơm rau ra ăn. Ăn xong, uống vài chén trà, hai người lại trở về phòng ngủ.
Đến canh tư, ở ngoài cửa có tiếng ồn ào. Hai người kinh ngạc nhìn ra thì thấy cửa sổ đỏ rực, mới biết nhà trước mặt bị cháy, hai người vội vàng mang quần áo chạy ra, gọi người láng giềng mang giúp quan tài của cha mẹ ra ngoài đường. Hai cái nhà bị cháy mãi đến sáng mới dập tắt được ngọn lửa. Quan tài vẫn để ngoài đường. Theo như tục lệ Ngũ Hà, nếu quan tài đưa vào nhà thì nhà sẽ nghèo túng. Vì vậy bạn hữu giục Hữu Đạt và Hữu Trọng mang đi và chọn ngày để chôn cất. Hữu Đạt nói với em:
- Theo ý anh thì ta cứ khiêng quan tài vào nhà rồi chọn ngày chôn cất sau.
- Anh nói thế là phải, nếu có nghèo thì cũng chỉ trong hai anh em ta thôi.
Mọi người đều khuyên bảo nhưng họ không nghe, gọi người khiêng quan tài vào nhà, đợi Trương Vân Phong chọn ngày tốt đem chôn theo đúng nghi lễ. Hôm ấy cũng có nhiều người ở Ngũ Hà đi đưa. Gia đình họ Đỗ ở Thiên Trường cũng có mấy người đi. Từ đấy đâu đâu cũng nghe nói đến câu chuyện ấy. Họ cho là anh em họ Dư càng ngày càng ngu ngốc toàn gây những việc rắc rối.
Chỉ nhân phen này khiến cho:
Trong nơi thói xấu phong trần, cũng còn người giỏi;
Ngoài việc tính cơm lường củi, lại có kinh luân.
Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

---------------
(1) Miêu tả cử chỉ của thầy phong thủy thực là sinh động.


<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 168
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com