watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
12:06:1318/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50 - Trang 8
Chỉ mục bài viết
Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 8 trong tổng số 14

Hồi 38

Quách Hiếu Tử núi sâu đụng cọp
Sư Cam Lộ đường hẹp gặp thù.


Đỗ Thiếu Khanh giữ Quách Hiếu Tử ở lại nhà mình ở bên sông để ăn cơm, uống rượu. Sau đó, Đỗ cùng Vũ Thư đến nhà Ngu bác sĩ để nói cho Ngu biết Quách là người như thế nào và xin Ngu viết một bức thư để Quách mang đi Tây An. Ngu bác sĩ chăm chú lắng nghe và nói:
- Cố nhiên, tôi sẽ viết thư! Nhưng viết thư vẫn chưa đủ. Ông ta cần tiền vì đường xa vạn dặm. Anh Thiếu Khanh! Tôi nhờ anh đưa cho ông ta một vài lạng bạc mà không cần nói đó là tiền của tôi.
Ngu liền viết ngay một bức thư, lấy bạc đưa cho Đỗ Thiếu Khanh. Đỗ nhận tiền và thư rồi cùng Vũ Thư về cái nhà ở bên sông. Đỗ cũng đem cầm áo quần của mình lấy bốn lạng bạc. Vũ Thư cũng đem đồ đi cầm được hai lạng nữa. Họ cố tình giữ Quách ở lại thêm một ngày. Trang Thiệu Quang nghe vậy cũng viết một bức thư và đưa cho Đỗ bốn lạng bạc. Sang ngày thứ ba, Đỗ dọn bữa cơm sáng mời Quách ăn. Vũ Thư cũng ngồi tiếp. Ăn xong hai người buộc hành lý hộ Quách, đưa cho Quách hai mươi lạng bạc và hai phong thư. Quách không dám nhận. Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Số tiền này là số tiền của mấy người chúng tôi ở Giang Nam chứ không phải là tiền phi nghĩa, tại sao ông lại không nhận?
Quách Hiếu Tử mới chịu nhận. Ăn cơm xong, Quách cáo từ ra đi. Đỗ Thiếu Khanh và Vũ Thư tiễn đến cửa Hán Tây mới trở về.
Quách ngày đi đêm nghỉ, đi một mạch đến Thiềm Tây. Vì Vưu làm tri huyện ở Đồng Quan, nên Quách Hiếu Tử lại phải đi vòng đến Đồng Quan để gặp Vưu. Ông Vưu tên là Phù Lai tự là Thuỵ Đình, vốn là một danh sĩ ở đất Nam Kinh. Năm ngoái, vừa đến Đồng Quan, Vưu đã làm một việc tốt. Có một người nguyên quán Quảng Đông bị đày lên Thiềm Tây cùng mang vợ đi theo, không ngờ anh ta đi được nửa đường thì chết. Người vợ khóc than thảm thiết. Người đi đường nghe nói đều không hiểu tiếng nên phải đưa lên gặp quan. Vưu thấy chị ta muốn trở về làng, lòng không nỡ, cho năm mươi lạng bạc và sai một sai nhân già đưa về quê quán. Vưu tự mình lấy một miếng lụa trắng viết một bài văn rất cảm động, ký tên mình là Vưu Phù Lai vào đấy, đóng dấu tri huyện Đồng Quan ở dưới và dặn sai nhân: “Mày dẫn người đàn bà kia đi và mang theo tấm lụa này. Đến đâu, huyện nào mày cũng đưa tấm lụa ra cho quan địa phương và xin đóng dấu vào đấy. Sau khi đã đưa bà ta về quê quán rồi, mày phải mang thơ của quan địa phương về cho ta”.
Sai nhân vâng dạ. Người đàn bà rập đầu lạy tạ rồi ra đi. Non một năm sau, sai nhân trở về nói:
- Dọc đường đi các quan địa phương đọc bài văn của ngài, đều thương xót người đàn bà đó. Người cho mười lạng, kẻ cho tám lạng, sáu lạng. Lúc bà ta về nhà có được hai trăm lạng! Con đưa bà ta về đến Quảng Đông, trong họ có hơn một trăm người đều quì giữa trời lạy tạ ân đức của ngài! Họ lại rập đầu lạy con, gọi con là “Bồ Tát”. Nhờ ơn ngài, con cũng mang ơn lây!

Vưu Công nghe nói rất mừng rỡ thưởng cho hắn mấy lạng bạc và cho hắn ta.
Một người mang thiếp vào báo với Vưu rằng:
Quách Hiếu Tử đã đến, mang theo một bức thư của Ngu bác sĩ.
Vưu mở thư ra xem, trong lòng vô cùng cảm phục, liền mời vào chào hỏi và sai dọn cơm ăn. Đang lúc nói chuyện, người giữ cổng vào báo:
- Mời quan xuống làng khám nghiệm!
Vưu nói với Quách:
- Thưa ông, việc này là việc quan, cho nên tôi phải đi, ba ngày nữa mới về. Tôi mong ông đợi ở đây, khi về tôi sẽ có mấy lời thưa lại. Vả chăng, lần này ông đi Thành Đô, tôi cũng có một người bạn ở đó muốn nhờ ông mang giúp cho một cái thư, xin ông chớ từ chối!
- Ông đã nói vậy, tôi đâu dám chối từ! Nhưng có một điều tôi là người tính tình quê mùa không thể ở chỗ nhà quan. Ở đây có cái am nào thì cho tôi đến đấy ở vài ngày.
- Am thì cũng có, nhưng hẹp. Ở đây có viện Hải Nguyệt Thiền Lâm, vị hòa thượng ở đấy là người có học thức, đưa ông đến đấy ở cũng được.
Bèn dặn bọn nha dịch:
- Dẫn ông Quách và đem hành lý của ông đến viện Hải Nguyệt Thiền Lâm. Nói với hòa thượng rằng ta đưa ông ta đến nhé!
Sau dịch vâng dạ. Quách cáo từ. Vưu tiễn ra cửa mới thôi
Quách Hiếu Tử cùng sai dịch đến phòng khách viện Hải Nguyệt Thiền Lâm. Nghe có khách đến, có người chạy vào báo. Vị hòa thượng già ra hỏi thăm mời ngồi uống trà, và bọn sai dịch trở về. Quách hỏi hòa thượng:
- Có phải cụ từ trước đến nay vẫn ở đây không?
- Bần tăng trước ở am Cam Lộ phủ Thái Bình, huyện Vũ Hồ ở Nam Kinh. Sau đó, bần tăng được đổi về chùa Báo Quốc ở Bắc Kinh. Nhưng vì chán cái cảnh náo nhiệt ở kinh đô, bần tăng mới xin đến ở đây. Ông họ Quách phải không? Ông đi Thành Đô có việc gì?
Thấy hòa thượng mặt mày kham khổ nhưng rất hiền từ, Quách nói:
- Việc này con không dám nói ra với ai, nhưng con xin nói thực với cụ.
Quách bèn đem việc mình tìm cha gian khổ như thế nào kể lại một lượt. Vị hòa thượng già thở than rơi lệ, giữ Quách ở lại và đến tối làm cơm chay cho ăn. Quách đưa cho hòa thượng hai quả lê mình mới mua trên đường cái. Hòa thượng cảm ơn Quách, bảo người bếp mang hai cái vại lớn ra trước sân, bỏ một quả vào cái vại rồi đồ đầy nước, lấy gậy đập quả lê nát nhừ. Sau đó gõ mõ gọi hai trăm vị tăng đến, mỗi người uống một chén. Quách thấy vậy gật đầu thán phục.
Sang ngày thứ ba, Vưu trở về sai dọn một bữa tiệc, mời Quách ăn, lúc uống rượu xong, Vưu đem ra năm mươi lạng bạc, một bức thư và nói:
- Thưa ông, tôi muốn mời ông ở lại ít lâu, nhưng việc đi tìm cha là việc lớn, tôi không dám giữ lại. Nay tôi có năm mươi lạng biếu ông dùng tạm làm tiền ăn đường. Ông đến Thành Đô đem bức thư này của tôi cho ông Tiêu Hạo Hiên. Ông ta là một người có đạo đức của cổ nhân, nhà ở cách Thành Đô hai mươi dặm, nơi ấy gọi là Đông Sơn. Ông đến tìm ông ta, có việc gì cần, ông ta có thể giúp.
Quách thấy Vưu hết sức khẩn khoản không từ chối được nên chỉ còn cách nhận tiền và cám ơn. Quách lấy tiền và thư rồi cáo từ. Quách đến việc Hải Nguyệt Thiền Lâm, từ biệt hòa thượng. Hòa thượng chắp tay nói:
- Khi đến Thành Đô gặp được phụ thân, thế nào cư sĩ cũng viết cho bần tăng một bức thư để bần tăng khỏi lo lắng.
Quách vâng dạ. Hòa thượng tiễn ra cửa nói quay vào.
Quách vai mang hành lý lại đi mấy ngày nữa. Đường đi gồ ghề cheo leo. Đi một bước, sợ một bức. Hôm ấy, đi đến một nơi thì trời sắp tối. Nhìn xa không thấy làng xóm gì. Quách đi một lát nữa thì gặp một người, Quách vái chào hỏi:
- Cụ làm ơn cho biết còn đi bao nhiêu nữa thì đến quán trọ?
Người kia đáp:
- Còn hơn mười dặm nữa. Ông khách! Ông nên đi gấp đi. Ban đêm trên đường có hổ đấy! Cần phải cẩn thận!
Quách Hiếu Tử nghe vậy vội vàng bước nhanh. Trời đã gần tối. May sao khắp thung lũng hôm ấy là khoảng mười bốn, rằm, mặt trăng lên cao chiếu rất sáng. Quách Hiếu Tử đạp ánh trăng mà đi, đến một khu rừng bỗng một cơn gió thổi mạnh, lá cây rơi ào ào. Cơn gió vừa qua thì một con hổ nhảy ra! Quách Hiếu Tử kêu lên:
- Nguy rồi!
Và ngã lăn ra đất.
Con hổ vồ Quách và ngồi lên trên. Nó ngồi một lúc thấy Quách nhắm nghiền hai mắt, nó tưởng Quách đã chết, bèn đi moi một cái hố. Nó kéo Quách vứt vào hố lấy lá khô phủ lên trên rồi bỏ đi. Quách ở trong hố mở mắt nhìn thấy hổ ta đã đi xa mấy dặm. Hổ lên đỉnh núi, hai con mắt đỏ như hai hòn than vẫn quay lại nhìn. Thấy Quách nằm yên, nó bèn bỏ đi. Quách ở trong hố bò ra, nghĩ bụng:
- Tuy con quỉ kia đi rồi, nhưng thế nào nó cũng trở lại ăn thịt mình. Bây giờ làm thế nào?

Lúc bấy giờ Quách chưa nghĩ ra được cách nào. Nhìn thấy một cây to ở trước mặt. Quách liền trèo lên. Trong bụng lại nghĩ: nếu con vật trở lại mà hét lên một tiếng thì mình có thể hoảng sợ ngã lăn xuống được! Quách bèn nghĩ ra một kế, tháo dây buộc chân ra, buộc mình vào thân cây.
Đến nửa đêm, mặt trăng sáng như ban ngày. Quách thấy con hổ kia đi trước mang theo một con vật gì toàn thân trắng như tuyết, trên đầu có một cái sừng, hai con mắt đỏ rực như hai ngọn đèn và lúc đi thì đứng thẳng. Quách nhận không biết đó là con gì, chỉ biết nó tiến đến gần và ngồi xuống. Hổ ta vào hố tìm. Không thấy người, nó hoảng hốt nằm rạp xuống. Con vật kia giận lắm, giơ chân ra tát một cái vào đúng đấu con hổ làm con hổ chết tươi.
Con vật kia dựng ngược cả lông, trông rất ghê sợ. Nó ngẩng lên nhìn thấy trên cành cây có bóng người. Nó bèn nhảy vọt lên. Lần đầu tiên nó vồ trật và rơi đạch xuống đất. Nó lại ra sức vồ lần nữa. Lần này, nó chỉ cách Quách có một thước. Quách nghĩ bụng: “Chuyến này mình hết đời rồi”. May sao trên cây có một cái cành khô, con vật kia nhảy lên, bụng va đúng vào cành khô. Vì dùng sức mạnh quá cành cây đâm thủng cả bụng, sâu đến một thước. Nó càng giẫy giụa thì cành cây càng đâm vào sâu. Nó vật lộn hết sức, đến nửa đêm thì bị chết treo trên cành cây.
Khi trời tảng sáng, có mấy người đi săn, tay mang võ khí. Nhìn thấy hai con vật kia, họ giật mình hoảng sợ.
Quách ở trên cây kêu lên, những người đi săn đỡ Quách xuống, hỏi họ tên. Quách nói:
- Tôi là người qua đường. Cũng may trời phật phù hộ khiến cho tôi bảo toàn được tính mạng. Bây giờ tôi vội phải đi ngay. Các ông đem hai con vật này đến quan địa phương để xin tiền thưởng.
Mấy người đi săn đưa lương khô thịt khô và thịt nai ra mời Quách ăn. Họ mang hành lý hộ, đưa Quách năm sáu dặm rồi từ biệt.
Mang hành lý lên vai, Quách đi thêm mấy ngày đường nữa, rồi vào nghỉ trọ ở một am nhỏ trong thung lũng. Vị hòa thường trong am hỏi Quách về đường đi, đưa cơm rau ra ngồi bên cửa sổ cùng ăn. Đang lúc ăn cơm, Quách Hiếu Tử thấy có ánh sáng đỏ hình như cháy nhà ở đâu đây. Quách vội vàng đặt bát xuống kêu lên:
- Cháy nhà! Cháy nhà!
Hòa thượng mỉm cười nói.
- Cư sĩ cứ ngồi yên, không nên hoảng sợ. Đó là con “Anh tuyết” của tôi đấy!
Ăn cơm xong, thu dọn bát đĩa, hòa thượng ra mở cửa sổ, chỉ cho Quách thấy:
- Cư sĩ xem kìa!
Quách đưa mắt nhìn thấy ở núi trước mặt một con vật gì kỳ lạ đang ngồi xổm. Nó chỉ có một cái sừng và một con mắt, mắt lại sinh ở đằng sau tai. Con vật kỳ lạ này gọi là con “Bi hoàn”(1). Băng dù dày đến mấy thước nó chỉ hét một tiếng là vỡ tan. Hòa thượng nói:
- Đấy là con “Anh tuyết” đấy!
Đêm ấy tuyết rơi lả tả, suốt một ngày một đêm, dày đến ba thước, Quách không đi được đành phải ở lại một ngày.
Sang ngày thứ ba, tuyết tạnh. Quách từ biệt hòa thượng ra đi, men theo đường núi đi một bước lại trượt một bước. Hai bên đều là khe suối, băng tuyết nhọn hoắt như dao. Quách đi chậm. Trời đã chiều, ánh sáng tuyết chiếu xa xa chừng nửa dặm thấy một cái gì đỏ đang treo lủng lẳng trên cành cây trước mặt. Một người đi đường ở đằng trước ngã lăn xuống khe. Quách đứng lại, trong lòng nghi hoặc:
- Tại sao hắn thấy vật kia lại ngã lăn xuống khe?
Nheo mắt nhìn, Quách thấy một người từ cái vật đỏ kia nhô ra, lấy hành lý của người kia mang đi mất. Quách nghi ngờ, vội vàng bước lên. Thì thấy ở trên cành cây treo một người đàn bà, tóc xoã, người mặc một cái áo đỏ, miệng ngậm một miếng vải đỏ lòng thòng giả làm lưỡi lè ra. Ở dưới chân, chôn một cái vại có một người ngồi ở trong. Người kia thấy Quách đi đến liền nhảy xổ ra. Nhưng thấy Quách dáng người oai vệ, hắn không dám giở trò, liền chắp tay nói:
- Ông khách, ông đi đi, việc này không liên quan gì đến ông cả!
Quách nói:
- Anh làm trò đó, ta biết cả rồi! Anh đừng sợ ta sẽ giúp cho. Người đàn bà nào giả làm bộ chết treo đấy?
- Đó là vợ tôi.
- Anh tháo dây cho người ta xuống đi! Nhà anh ở đâu? Ta đến đó chơi!

Người kia tháo cái dây thắt ở đằng sau gáy và để người đàn bà đứng xuống. Người đàn bà vấn lại mái tóc xoã, rút lưỡi giả ở miệng ra, tháo vòng giắt ở cổ để buộc sợi dây và cởi áo đỏ ra. Người kia chỉ cái nhà có hai gian ở bên đường nói:
- Đó là nhà của tôi.
Hai vợ chồng đưa Quách đến cái nhà ấy. Đến nhà, họ mời Quách ngồi, đi nấu một ấm trà. Quách nói:
- Anh chẳng qua là không có kế sinh nhai, nhưng tại sao lại làm những việc ác như thế? Làm người ta sợ hãi mà chết là trái với lẽ trời. Tôi tuy nghèo, nhưng thấy vợ chồng anh đến tình cảm ấy, cũng rất thương! Tôi ở đây có mười lạng bạc, xin biếu hai vợ chồng anh, anh nên kiếm kế sinh nhai không nên làm cái trò này nữa, tên anh là gì?
Người kia nghe vậy, sụp lạy Quách, nói:
- Cảm ơn ông giúp đỡ. Tôi tên là Mộc Nại, hai vợ chồng vốn là con nhà tử tế. Gần đây, vì đói rét quá cho nên phải làm việc này. Nay nhờ ông giúp tôi tiền vốn, từ nay tôi sẽ bỏ cuộc đời cũ. Xin ân nhân cho biết họ tên?
Quách nói:
- Tôi họ Quách, người Hồ Quảng, nay đi đến phủ Thành Đô.
Người vợ cũng ra lạy, làm cơm mời Quách ăn. Quách ăn cơm xong nói với Mộc Nại:
- Thấy anh có gan dọa dẫm người ta trên đường, chắc anh phải có ít võ nghệ. Chỉ sợ võ nghệ anh không cao, thành không làm được việc gì lớn. Tôi có biết nghề múa đao, đánh quyền, để tôi truyền cho anh.
Mộc Nại mừng lắm, giữ Quách Hiếu Tử hai ngày liền. Quách dạy cho y đao và quyền cẩn thận. Mộc Nại nhận Quách làm thầy. Sang ngày thứ ba, Quách kiên quyết ra đi. Mộc Nại gói lương khô, thịt khô, mang hành lý hộ Quách, tiễn ngoài ba mươi dặm mới cáo từ trở về.
Quách lại mang hành lý đi được mấy ngày nữa. Hôm ấy trời rất lạnh, gió tây bắc thổi, đường núi đông lại như sáp trắng, vừa cứng vừa trơn. Quách đi đến chiều, nghe trong hang núi có tiếng gầm, một con hổ nhảy xổ ra. Quách nói:
- Lần này thì chết thật rồi!
Liền ngã lăn ra đất, bất tỉnh nhân sự. Hổ vốn chỉ ăn thịt những người nào sợ nó. Nay thấy Quách nằm thẳng cẳng ra đấy, hổ không dám ăn thịt, chỉ cúi xuống ngửi vào má, râu mép hổ đâm vào mũi Quách, làm cho Quách hắt hơi một cái thật mạnh. Hổ ta giật nẩy mình, quay lưng nhảy lên đỉnh núi rơi vào một cái khe. Khe này sâu lắm, hổ bị băng nhọn hoắt như đao kiếm đâm ngang mình chết cứng.
Quách lổm ngổm bò dậy, không thấy con hổ nữa, nói:
- Thật là hú vía!
Quách lại mang hành lý đi. Quách đến Thành Đô và biết tin rằng cha mình đã làm hòa thượng trong một cái am cách đấy bốn mươi dặm. Quách hỏi được chỗ ở liền đi đến am, gõ cửa. Hòa thượng ra thấy con giật nẩy người, Quách thấy cha, quỳ dưới đất, khóc nức nở. Hòa thượng(2) nói:
- Xin ông đứng dậy! Tôi không có con. Ông nhận lầm tôi.
- Con đi vạn dặm đến đây tìm cha, sao cha không nhận?
- Tôi đã nói mà! Tôi không có con. Ông có cha thì ông tìm, tại sao lại nhìn bần tăng mà khóc?
- Mặc dầu mấy mươi năm con không thấy cha nhưng có lẽ nào con không nhận ra cha?

Và quỳ xuống không đứng lên nữa. Hòa thượng nói:
- Bần tăng từ nhỏ xuất gia, làm gì có con với cái?
Quách khóc rống lên nói:
- Cha không chịu nhận con, nhưng con nhất định nhận cha!
Cứ thế năm lần bảy lượt, hòa thượng giận lắm:
- Mày là đứa côn đồ ở đâu đến đây quấy nhiễu ta! Cút đi! Ta đóng cửa chùa bây giờ!
Quách Hiếu Tử quì ở dưới đất, khóc rống lên không chịu ra. Hòa thượng nói:
- Mày không ra thì tao lấy dao giết mày!
Quách Hiếu Tử nằm rạp dưới đất, khóc và nói:
- Thưa cha! Cha cứ giết con đi! Con không ra đâu!
Hòa thượng giận lắm, hai tay nắm lấy cổ áo Quách lôi ra ngoài rồi đóng cửa lại. Quách kêu mấy cũng không thưa.
Quách khóc ở ngoài cửa một hồi, khóc rồi lại khóc, nhưng không dám gõ cửa.
Thấy trời sắp tối; Quách nghĩ bụng.
- Thôi! Thôi! Chắc cha ta không chịu nhận ta rồi!
Ngẩng đầu lên nhìn Quách thấy am này là am Trúc Sơn. Quách đành thuê một cái phòng cách đấy nửa dặm. Hôm sau, thấy một hòa thượng ở cửa am đi ra. Quách đút tiền cho hòa thượng để đưa củi và gạo vào nuôi cha. Không đầy nửa năm, tiền bạc hết nhẵn. Quách muốn đến Đông Sơn tìm Tiêu Hạo Hiên nhưng lại sợ đi thì không gặp và không ai lo cơm nước cho cha. Quách phải làm thuê cho một nhà gần đấy, gánh đất và chặt củi cho họ, mỗi ngày kiếm vài đồng cân bạc để nuôi cha. Có người bên cạnh đi Thiểm Tây, Quách viết thư kể lại tỉ mỉ câu chuyện tìm cha, nhờ người kia đưa đến cho hòa thượng ở Hải Nguyệt Thiền Lâm.

Hòa thượng nhận được thư rất là mừng rỡ, lại càng kính phục Quách. Được mấy hôm, một vị sư đến viện. Hắn chính là Triệu Đại cầm đầu bọn cướp. Hắn để tóc xõa, hai con mắt trợn trừng, dáng điệu hung ác. Hòa thượng từ bi giữ hắn ở lại nhưng hắn uống rượu, hành hung, đánh người, không có cái gì mà hắn không làm. Người sư trưởng dẫn các tăng đến nói với hòa thượng:
- Giữ hắn lại viện thì phá hoại hết cả quy củ! Hòa thượng mời hắn đi, hắn không chịu.
Sau đó, người sư trưởng bảo một người đến nói với hắn.
- Hòa thượng bảo ông đi, ông không đi, hòa thượng có truyền: nếu ông không chịu đi thì sẽ chiếu theo qui củ của viện mang ra sân sau bỏ vào lửa mà thiêu sống.
Tên sư hung ác nghe vậy, nổi giận. Hôm sau, không cần từ biệt hòa thượng, hắn mang áo quần ra đi.
Hòa thượng ở đấy nửa năm, muốn đến núi Nga Mi chơi, nhân tiện đi Thành Đô gặp Quách. Bèn từ biệt mọi người mang hành lý, dầm sương, dãi nắng, đi thẳng đến Tứ Xuyên.
Sáng hôm ấy, sau khi đi khỏi Thành Đô trăm dặm, hòa thượng đi xem cảnh núi vào một cái quán trà để uống trà. Ở đấy đã có một hòa thượng khác nhận ra mình nhưng hòa thượng thì không nhớ. Khi nhận ra hòa thượng, người kia hỏi:
- Hòa thượng! Ở đây trà không ngon, cách đây không mấy bước có cái am nhỏ, ta đến đấy uống trà đi!
Hòa thượng vui mừng nói:
- Tốt quá!

Vị hòa thượng kia dẫn đi quanh co bảy tám dặm đường, đến một cái am nhỏ. Am làm kiểu “chữ tam”, am trước có tượng Già Lâm Bồ Tát. Am sau ba gian không có tượng, am giữa có một cái giường. Người kia đưa hòa thượng vào am mới nói:
- Hòa thượng! Mày nhận ra tao không?
Hòa thượng mới nhớ ra hắn là Triệu Đại, tên sư hung ác trước đây đã đến Hải Nguyệt Thiền Lâm bèn giật nẩy mình nói:
- Tôi quên khuấy đi mất, bây giờ mới nhớ!
Tên sư hung ác leo lên giường ngồi giương mắt tròn xoe nói:
- Mày hôm nay đã đến đây thì có chạy đằng trời! Tao có cái hồ lô này mày mang ra ngoài núi chừng nửa dặm, ở đấy có một bà già mở một quán rượu. Mày đem cái hồ lô này đến đấy, lấy đầy rượu về. Mau lên!
Hòa thượng già không dám trái lời xách hồ lô ra đi. Quả nhiên thấy ở sườn núi một người đàn bà già bán rượu. Hòa thượng đưa hồ lô cho bà ta. Người đàn bà cầm lấy hồ lô, nhìn hòa thượng từ đầu đến chân, nước mắt rơi lã chã trong khi vẫn rót rượu vào hồ lô.
Hòa thượng giật nẩy mình, hỏi:
- Mô phật! Sao bà thấy bần tăng lại đau xót như vậy.
Người đàn bà nước mắt ròng ròng, nói:
- Tôi thấy sư phụ, diện mạo từ bi, không ngờ lại gặp phải cái nạn này!
Hòa thượng kinh ngạc hỏi:
- Bần tăng gặp nạn như thế nào?
- Tôi biết cái hồ lô này! Khi nào hắn muốn ăn não ai, thì hắn bảo mang hồ lô đến hiệu tôi lấy rượu thuốc. Sư phụ ơi! Sư phụ mang hồ lô về là không sống được đâu!
Hòa thượng nghe vậy hồn xiêu phách tán, kinh hoảng nói:
- Bây giờ làm thế nào! Tôi phải chạy trốn thôi. Người kia nói:
- Sư phụ chạy làm sao được! Trong vòng bốn mươu dặm đều là đồ đảng của hắn hết. Nếu sư phụ đi trốn, thì hắn chỉ đánh mõ lên là lập tức có người trói gò sư phụ lại đem về am ngay.
Hòa thượng quỳ xuống đất mà khóc:
- Xin bồ tát cứu mạng!
Bà già nói:
- Tôi cứu làm sao được? Nếu nó biết tôi nói ra, thì tính mạng tôi cũng không còn. Nhưng thấy sư phụ từ bi chết thật đáng thương! Tôi chỉ cho một con đường sư phụ đến để tìm một người.
Hòa thượng già nói:
- Mô phật! Bà bảo tôi tìm ai?
Bà già mới nói tên người ấy ra.
Nhân việc đó khiến cho:
Nóng lòng cứu nạn, lại thấy người động địa kinh thiên,
Mang kiếm lập công, đều những việc trung thần báo quốc.
Muốn biết bà già nói đến ai, hãy xem hồi sau phân giải.

-------------
(1) Ngờ là con Hùng cửu, tên một quái vật trong truyền thuyết thời xưa.
 (2) Hòa thượng đây là Vương Huệ sau khi đầu hàng Ninh Vương bỏ trốn lên Thành Đô; cạo đầu đi tu (xem hồi tám).

Hồi 39

Núi Minh Nguyệt Tiêu Vân Tiên cứu nạn
Thành thanh phong Bình Thiếu Bảo lập công


Hòa thượng nghe bà già nói như vậy liền quỳ xuống dưới đất khóc. Bà già nói:
- Tôi cứu sư phụ sao được? Nhưng tôi có thể chỉ đường để sư phụ đi tìm một người.
Hòa thượng nói:
- Mô phật! Bà bảo tôi tìm ai bây giờ? Nói để cho tôi đi!
- Cách đây một dặm có một cái gò núi gọi là Minh Nguyệt Lĩnh, theo con đường ở sau nhà tôi thì đi gần được một quãng. Trên đỉnh gò có một người trẻ tuổi đang tập bắn ná. Sư phụ đừng hỏi gì ông ta hết, cứ quì ở trước mặt. Đợi khi ông ta hỏi, sư phụ sẽ nói cho ông ta hay. Chỉ có người này mới có thể cứu được. Sư phụ đi mau nhờ ông ấy. Nếu như ông ấy cũng không cứu nổi thì tính mạng của tôi cũng nguy đến nơi vì hôm nay tôi đã nói việc này ra.
Hòa thượng nghe vậy, run cầm cập, cảm ơn bà già, mang hồ lô đầy rượu theo con đường gồ ghề đằng sau nhà, víu dây leo mà đi. Quả nhiên đi được một dặm; thấy một hòn núi nhỏ. Trên hòn núi có một chàng tuổi trẻ đang tập bắn ná. Ở cửa hang để một hòn đá trắng to chỉ bằng đồng tiền. Chàng ngắm nghía cẩn thận, bắn phát nào là trúng phát ấy. Hòa thượng đến trước mặt, thấy chàng đầu đội khăn võ sĩ, mình mặc áo chiến bào màu xám, mặt trắng, hình dung tuấn tú. Chàng tuổi trẻ đang say sưa tập bắn. Hòa thượng đến gần quì trước mặt. Chàng đang định hỏi thì thấy một đoàn chim sẻ bay qua thung lũng. Chàng tuổi trẻ nói:
- Hãy đợi tôi bắn rơi con chim sẻ kia.
Và giờ cái ná lên, con chim đã rơi đạnh xuống đất.
Nhìn thấy hòa thượng nước mắt rưng rưng đang quì trước mặt, chàng tuổi trẻ nói:
- Sư phụ! Xin sư phụ đứng dậy ngay cho! Tôi đã hiểu ý của sư phụ rồi. Tôi tập bắn ở đây chính là vì việc ấy. Nhưng vì mới học được có chín phần còn một phần nữa chưa đạt, tôi sợ còn có chỗ sơ hở nên chưa dám ra tay. Nay sư phụ đã đến đây, tôi không làm không được. Chắc là nó đã đến ngày tận số. Thưa sư phụ! Sư phụ không nên dùng dằng ở đây, hãy mau mau mang hồ rượu về am. Vẻ mặt nhất thiết không được tỏ ra lo sợ, lại càng không được tỏ ra đau buồn. Sư phụ về đấy, nó bảo làm gì thì cứ làm, không được mảy may trái ý nó. Rồi tôi sẽ đến cứu.
Hòa thượng không biết nói gì, mang hồ rượu theo đường cũ về đến am. Đến gian nhà thứ hai, thấy tên sư hung ác kia đang chễm chệ ngồi trên giường, tay cầm một con dao sáng loáng. Hắn hỏi hòa thượng:
- Mày đi đâu mà bây giờ mới về?
- Bần tăng lạc đường, cho nên về chậm.
- Được! Quì ngay xuống đây!

Hòa thượng quì xuống. Tên ác tăng nói:
- Quì gần đây!
Thấy ngọn dao lấp loáng trong tay hắn, hòa thượng không dám đến gần. Ác tăng nói:
- Mày không đến gần, tao chẻ đôi đầu mày đi bây giờ!
Hòa thượng quì xích lại gần. Tên ác tăng nói:
- Mày cất mũ đi!
Hòa thượng rơi nước mắt, cất mũ. Tên ác tăng lấy tay nắn cái đầu trọc của hòa thượng, dốc ngược hồ rượu uống một hơi, rồi tay trái cầm hồ rượu, tay phải cầm con dao sáng quắc, hắn nhắm dao vào chính giữa đầu. Hòa thượng lúc bấy giờ chưa đợi dao rơi xuống thì hồn đã bay đi đằng nào rồi.
Tên ác tăng nhắm đúng giữa đầu, chỗ có não. Hắn tưởng rút dao ra là não cũng phọt theo ra và cùng uống nóng với rượu. Ý định như vậy, hắn cầm dao nhắm đầu hòa thượng mà bổ xuống. Không ngờ lưỡi dao chưa chạm đến đầu hòa thượng thì nghe vù một tiếng, một hòn đá từ ngoài cửa bay đúng vào mắt trái của tên ác tăng. Hắn kinh hoảng buông dao, buông cả rượu, đưa tay lên bưng mắt bên trái nhảy ra gian nhà ngoài. Thấy ở trên đầu Già Lam bồ tát có một người ngồi đấy. Tên ác tăng ngẩng đầu lên lại bị một phát đạn thứ hai bắn mù cả hai mắt. Hắn ngã vật xuống. Người tuổi trẻ nhảy xuống đi vào gian nhà trước mặt thì thấy hòa thượng sợ quá đã ngã lăn ra đất. Người tuổi trẻ kia gọi:
- Sư phụ! Mau mau chạy đi!
Hòa thượng nói:
- Tôi sợ bủn rủn cả người rồi, không đứng dậy được nữa. Người tuổi trẻ nói:
- Cụ đứng lên tôi cõng cụ chạy!
Người tuổi trẻ bèn vực hòa thượng dậy, cõng lên vai, vội vàng ra cửa am, chạy một mạch bốn mươi dặm. Y đặt hòa thượng xuống và nói:
- May quá, sư phụ vừa thoát khỏi một cái nạn lớn từ nay tiền đồ may mắn không có gì đáng ngại.
Hòa thượng bấy giờ mới tỉnh hồn, quì ở dưới đất bái tạ mà hỏi:
- Cho biết ân nhân tên họ là gì?
Người tuổi trẻ nói:
- Tôi chẳng qua muốn trừ một cái hại chứ không phải là có ý cứu sư phụ. Nay sư phụ đã thoát xin đi ngay, hỏi họ tên tôi làm gì?
Hòa thượng lại hỏi nhưng người kia vẫn không chịu nói. Hòa thượng đành phải phủ phục lạy chín lạy và nói:
- Xin từ biệt ân nhân, và nguyền báo ơn cho đến chết! Lạy xong lên đường.
Người tuổi trẻ thấy mình đã mệt bèn tìm một cái quán ở bên đường vào ngồi, thấy ở trong quán có một người ngồi, ở trước mặt để một cái hộp. Người kia đầu đội khăn tang, mình mặc áo tang, chân đi dép gai, hình dung buồn bã, khoé mắt còn dính lệ. Người tuổi trẻ đến vái một vái rồi ngồi trước mặt.
Người kia mỉm cười nói: - Thế giới thái bình vô sự thế này mà anh lại bắn mù mắt người ta rồi vào quán ngồi điềm nhiên như không thế à?
Người tuổi trẻ hỏi:
- Làm sao mà ông biết? Ông ở đâu đến thế?
- Tôi nói đùa đấy thôi! Trừ những bọn ác, cứu những người thiện đó và việc hết sức quí. Ông họ tên là gì?
- Tôi họ Tiêu tên là Thái tự là Vân Tiên, ở Đông Sơn cách phủ Thành Đô hơn hai mươi dặm.
Người kia kinh ngạc nói:
- Ở Đông Sơn, cách Thành Đô hai mươi dặm có ông Tiêu Hạo Hiên, ông ấy có phải cùng họ với ông không?
- Đó là cha tôi. Tại sao ông biết?
- Chính là phụ thân của ông à? Người kia bèn nói họ tên của mình và duyên do tại sao đi Tứ Xuyên:
- Ở huyện Đồng Quan tôi có gặp ông huyện Vưu, ông ta có gửi một bức thư cho cụ nhà ta. Nhưng tôi nóng ruột tìm cha, nên chưa thể đến được, tôi cũng biết vị Hòa thượng mà ông vừa cứu. Bây giờ tôi lại được gặp ông, thật là duyên trời đun đủi. Tôi thấy ông anh hùng xứng đáng là con ông Hạo Hiên. Thực đáng phục! Đáng phục!
Tiêu Vân Tiên nói:
- Ông đã tìm được phụ thân rồi, tại sao không cùng ở đó, lại đến đây một mình làm gì?
Quách nghe vậy, khóc mà rằng: - Không may thân sinh tôi đã qua đời rồi! Hài cốt của cha tôi hiện để ở trong cái hộp này! Tôi vốn người Hồ Quảng, nay tôi về quê nhà để mai táng.
Tiêu Vân Tiên nghe nói rơi nước mắt mà rằng: - Thật là đau xót! Nhưng may nắm được gặp ông, không biết tôi có thể mời ông về nhà gặp phụ thân được không?
- Đáng lý tôi phải đến nơi bái yết. Nhưng nay tôi mang hài cốt của phụ thân, thật là không tiện. Hơn nữa tôi đang nôn nóng về quê. Xin ông thưa lại với cụ nhà, sau này, nếu có lúc nào tiện, tôi sẽ xin đến thăm.

Quách bèn lấy bức thư của Vưu ở trong hành lý ra đưa cho Tiêu Vãn Tiên. Quách lại lấy ra một trăm đồng tiền gọi chủ quán mua ba đấu rượu, cắt hai cân thịt và một ít rau, bảo đem nấu để cùng Tiêu Vân Tiên ăn. Quách nói với Tiêu:
- Tôi với anh mới gặp nhau mà như là bạn cũ, đó là việc rất khó thấy trong đời người. Vả chăng, tôi từ Thiểm Tây lại đây mang thư đến cho cụ nhà, lại càng khác xa kẻ sơ giao. Việc anh vừa làm thật là một việc hiếm có trên đời. Nhưng tôi có một lời khuyên không biết có thể nói được chăng?
- Tôi là người niên thiếu, mong các bậc cha anh chỉ giáo. Có điều gì lại không nên?
- Mạo hiểm quên mình, đó là việc làm của người hiệp khách. Nhưng ngày nay không còn như thời Xuân Thu, Chiến Quốc là lúc những việc kia có thể làm nổi danh, mà đã là lúc bốn bể một nhà. Kinh Kha, Nhiếp Chính(2) sống bây giờ cũng chỉ là một thằng giặc. Anh tài mạo, võ nghệ như thế, lại có can đảm nghĩa khí thì nên ra giúp triều đình. Rồi đây ra biên cương, một đao, một thương tung hoành, nhờ vậy vợ sẽ được phong, con sẽ được tập ấm lưu danh sử sách. Không giấu gì anh, từ nhỏ tôi có học qua vũ nghệ, nhưng gặp cảnh cha tôi khốn khổ, nên lưu lạc gian nan mấy mươi năm trời. Nay tôi đã già, không làm nên trò trống gì nữa! Anh còn tuổi trẻ sức dồi dào, không nên để nó lần nữa qua ngày. Xin anh nhớ lấy lời của thằng già này!
- Tôi nay được lời dạy bảo của tiên sinh thực như luồng gió quét hết mấy mù lại thấy mặt trời, tôi xin vô cùng cảm tạ.
Hai người nói chuyện. Sáng hôm sau, trả tiền xong, Tiêu tiễn Quách ngoài hai mươi dặm, đến ngã ba đường gạt lệ chia tay.
Tiêu Vân Tiên về đến nhà, hỏi thăm sức khỏe của cha và đưa bức thư của Vưu cho cha xem. Tiêu Hạo Hiên nói:
- Ông bạn già và ta cách nhau đã hai mươi năm nay, không biết tin tức của nhau. Nay ông ta làm quan đắc ý cũng mừng cho ông ta.
Lại nói:
Quách Hiếu Tử võ nghệ tinh thông, từ nhở danh tiếng cũng ngang với ta. Đáng tiếc ngày nay hai người đến già. Nay ông ta đưa hài cốt phụ thân về nhà mai táng cũng là làm được một điều bình sinh ông ta mong mỏi.
Tiêu Vân Tiên ở nhà hầu hạ cha được nửa năm. Ở miền biên cương Tùng Phiên xảy ra việc xích mích giữa người Hán và người Phiên, do việc buôn bán không công bằng. Người Phiên tính tình dữ tợn, không biết pháp luật nhà vua nên mang dao, gậy, khí giới xông vào đánh. Lính bắn cung đến cứu đều bị giết hoặc bị thương. Quân Phiên đánh chiếm lấy thành Thanh Phong. Tuần Vũ đem việc này phi báo về kinh. Triều đình nổi giận, sai Thiếu Bảo Bình Trị làm đô đốc quét sạch bọn phiến loạn để nêu rõ sự trừng phạt của triều đình. Thiếu Bảo Bình Trị được tháng chỉ, ra ngay khỏi kinh đô, đem quân ra đóng ở Tùng Phiên. Tiêu Hạo Hiên nghe việc ấy gọi Tiêu Vân Tiên đến mà rằng:
- Ta nghe Bình Thiếu Bảo xuất quân, hiện nay đóng quân ở Tùng Phiên, muốn chinh phục bọn Phiên. Thiếu Bảo với ta là chỗ quen biết cũ. Lúc này chính là lúc kẻ hảo hán có dịp ra tay.
- Cha đã già, con không dám đi xa!
- Con nói như thế không được! Ta nay tuy già nhưng trong người không có bệnh tật gì; ăn được, ngủ được, cần gì phải có người săn sóc bên cạnh! Nếu con lấy cớ ấy không đi tức là tham việc yên vui, ở nhà quyến luyến vợ con, đó là bất hiếu. Từ nay đừng có nhìn mặt ta nữa!

Mấy lời ấy làm cho Vân Tiên nói không ra lời đành phải từ biệt cha mang hành lý đi đầu quân. Trên đường đi không cần phải nói.
Hôm ấy, Vân Tiên đi còn cách Tùng Phiên hơn một trạm đường, nhân đi từ sáng sớm nên đã được mười dặm, trời vẫn chưa sáng. Tiêu Vân Tiên vai mang hành lý, chân đang bước nhanh thì nghe đằng sau có tiếng chân người, Vân Tiên vội vàng nhảy ra một bên, quay lại nhìn. Thì ra một người cầm cái côn ngắn, đang xông đến đánh. Nhưng y đã bị Tiêu đá cho một cái ngã lăn xuống đất. Tiêu Vân Tiên giật lấy cái gậy ngắn nhằm đánh vào đầu người kia. Người kia ở dưới đất kêu:
- Xin ông nể mặt sư phụ tôi mà tha cho tôi.
Tiêu Vân Tiên dừng tay hỏi:
- Sư phụ mày là ai?
Lúc bấy giờ trời đã sáng. Vân Tiên thấy người kia trạc hơn ba mươi tuổi, mình mặc áo chẽn, chân đi dép gai, trên cằm lún phún râu. Người kia nói"
- Tôi họ Mộc tên Nại, là đồ đệ của ông Quách Hiếu Tử. Tiêu Vân Tiên dựng y dậy hỏi căn vặn. Mộc Nại mới kể lại mình làm một tên cướp đường như thế nào cho đến khi gặp Quách Hiếu Tử và thành học trò của Quách. Tiêu Vân Tiên nói:
- Ta biết sư phụ của anh. Bây giờ anh đi đâu? Mộc Nại nói:
- Nay Bình Thiếu Bảo đang ở Tùng Phiên chiêu tập quân sĩ đánh Phiên, tôi muốn đến đó đầu quân. Nhưng vì đi đường hết tiền nên mới đắc tội với bậc huynh trưởng. Xin ông tha tội cho!
Tiêu Vân Tiên nói: - Nếu vậy, thì ta cũng đang đi đầu quân đây. Chúng ta cùng đi có được không?
Mộc Nại mừng quá, nhận làm người hộ vệ cho Vân Tiên rồi cùng đến Tùng Phiên nộp giấy đầu quân ở dinh trung quân.
Thiếu Bảo sai hỏi căn vặn lai lịch, biết Vân Tiên là con Tiêu Hạo Hiên liền để ở dưới trướng cho làm chức Thiên tổng để đánh giặc. Còn Mộc Nại được thưởng một suất lương và đợi lệnh điều động.
Mấy ngày sau, lương thực các nơi đều đã đưa đến. Thiếu Bảo ra lệnh cho các tướng lĩnh đến viên môn nhận lệnh. Tiêu Vân Tiên đến sớm thấy hai vị đô đốc đang đứng ở đấy. Tiêu hỏi thăm sức khỏe rồi ngồi bên cạnh.
Một vị đô đốc nói: - Hôm trước, Mã tổng trấn xuất binh, bị quân Phiên ở thành Thanh Phong dùng kế đào hố làm cho cả người lẫn ngựa đều sa xuống hố. Vì vậy mà ông ta bị thương nặng, hai ngày sau thì chết. Nay thi hài vẫn chưa tìm ra. Ông Mã lại là cháu ngoại cụ Tư Lễ Giám hôm nay trong nội có thư ra nói nhất định phải tìm cho được cái đầu của Tổng Trấn, nếu không thì sau này chưa biết sẽ bị xử phạt như thế nào! Làm thế nào bây giờ?
Một vị đô đốc nói:
- Tôi nghe nói mấy mươi dặm xung quanh thành Thanh Phong không có cỏ, không có nước gì hết, ta hãy đợi lúc hết đông, khi tuyết mùa xuân tan thành nước, bấy giờ người và vật mới có nước uống. Nay nếu ta xuất binh đến đấy, chỉ trong vài ngày không có nước uống là chết khát. Như thế thì đánh làm sao được?
Tiêu Vân Tiên nghe vậy, ra bẩm:
- Xin hai vị không nên bận tâm. Thành Thanh Phong không những có nước và cỏ mà còn có nhiều nữa.
Hai vị đô đốc nói:
- Ông Tiêu Thiên Tổng! Ông đã đến đấy bao giờ chưa?
- Tôi chưa bao giờ đến đấy.
- Ông chưa đến thì làm sao mà biết được?
- Tôi xem trong sách sử thấy nói nơi đó cỏ và nước đều nhiều.
Hai vị đô đốc đổi sắc mặt nói:
- Lời nói trong sách, tin làm sao được? Tiêu Vân Tiên không dám nói nữa. Lát sau, tiếng mõ vang lên. Ở Viên Môn tiếng trống và tiếng thanh la dậy đất. Thiếu Bảo ra trước trướng truyền lệnh sai hai đô đốc đem binh mã của mình làm trung quân ứng chiến. Tiêu Vân Tiên lĩnh năm trăm bộ binh làm đội tiên phong mở đường, còn Thiếu Bảo thì chỉ huy đội quân đi sau để điều khiển. Mệnh lệch hạ xuống các tướng chia nhau tiến quân. Tiêu Vân Tiên mang theo Mộc Nại, đem năm trăm bộ binh xông nhanh lên trước. Nhìn xa, một ngọn núi cao hết sức hiểm trở, trên đỉnh núi có cắm cờ. Núi này gọi là núi Ỷ Nhi Sơn, là cửa ngõ của thành Thanh Phong. Tiêu Vân Tiên dặn Mộc Nại:
- Ngươi hãy mang hai trăm quân, theo con đường nhỏ trèo qua núi và đợi ở đường chính. Hễ nghe ở trên núi có tiếng súng thì phải reo hò xông đến trợ chiến, không được chậm trễ.
Mộc Nại vâng dạ đi ra.
Tiêu Vân Tiên lại gọi một trăm quân bảo mai phục ở thung lũng. Hễ nghe tiếng súng trên đỉnh núi thì kêu to: “Đại quân đã đến”! Và xông lên trợ chiến.
Bố trí xong, Tiêu Vân Tiên mang theo hai trăm người và xông thẳng lên núi. Ở trên núi có mấy trăm người Phiên ẩn trong các hang. Thấy người đánh lên, họ đều xông cả ra đánh. Tiêu Vân Tiên lưng mang ná tay hoa thanh đao hăng hái xông lên trước. Tiêu chém chết mấy người Phiên. Chúng nhìn thấy bộ dạng dũng mãnh như vậy nên định bỏ chạy. Hai trăm quân ào lên như mưa sa bão táp. Bỗng một tiếng súng nổ, binh lính mai phục ở dưới thung lũng đều hô lớn:
- Đại quân đến rồi!
Và xông lên núi như bay. Quân Phiên hồn xiêu phách tán. Lại thấy ở sau núi có hai trăm người phất cờ reo hò xông đến, quân Phiên tưởng rằng đại quân đã lấy được thành Thanh Phong rồi, nên hoảng hốt chạy trốn tán loạn. Nhưng họ làm sao tránh được những phát đạn của Tiêu Vân Tiên. Phát thì bắn đúng vào mũi, phát thì bắn vào miệng, không còn biết chạy đường nào. Tiêu Vân Tiên tập hợp năm trăm người lại, reo hò dậy đất, giết sạch mấy trăm người Phiên như băm bầu, chém chuối, và cướp được vô số cờ xí, khí giới.
Tiêu Vân Tiên cho quân nghỉ một lúc rồi hò hét xông lên, thì thấy một dãy rừng sâu bát ngát. Đi nửa ngày, qua quãng rừng đến một con sông lớn. Xa xa nhìn thấy thành Thanh Phong ở cách vài dặm. Tiêu Vân Tiên thấy không có thuyền để chèo qua, bèn gọi quân sĩ đẵn tre, gỗ làm bè. Lát sau, bè làm xong, tất cả cùng chèo qua sông. Tiêu Vân Tiên nói:
- Đại binh của ta còn ở đằng sau, đánh lấy thành này không phải việc năm trăm người làm được. Cốt nhất là đừng để cho quân địch biết hư thực của ta như thế nào.

Vân Tiên bèn ra lệnh cho Mộc Nại lấy cờ xí cướp được xé làm thang dây, đem theo hai trăm người, mỗi người mang một bó tre khô đến một nơi vắng ở phía tây thành, trèo lên thành đốt khô lương thực và kho cỏ. Tiêu nói:
- Như thế là ta có thể thừa cơ hội đánh vào cửa đông. Kế hoạch bàn định xong.
Hai vị đô đốc đem trung quân đến chân núi Ỷ Nhi Sơn. Hai người chưa biết Tiêu Vân Tiên đã đánh lấy núi này rồi nên bàn nhau:
- Nơi hiểm yếu như thế này chắc chắn là có mai phục. Ta cứ ra sức bắn vào làm cho chúng không dám ra và ta báo tin thắng trận(3).
Vừa lúc ấy, một kỵ mã phi đến báo rằng: Thiếu Bảo ra lệnh: phải tiến nhanh để tiếp ứng, vì sợ Tiêu Vân Tiên ít tuổi, khinh địch, làm hỏng công việc. Hai đô đốc được lệnh, không dám chậm trễ bèn ra lệnh cho quân đi gấp. Đến sông Đái Tử Hà, thấy những bè nứa đã có sẵn ở đấy, đang chèo bè qua sông thì thấy ở thành Thanh Phong khói bốc ngụt trời.
Bấy giờ chính là lúc Tiêu Vân Tiên đang nổ súng, đánh vào cửa đông. Quân Phiên trong thành thấy lửa bốc lên, hoảng hốt chạy tán loạn. Ở ngoài thành trung quân đã đến hợp với cánh quân tiên phong, khép chặt thành Thanh Phong trong một cái kìm sắt. Bọn Phiên mở cửa phía bắc, liều mạng giao chiến một hồi. Chỉ còn mười mấy quân kỵ vượt vòng vây trốn thoát. Quân của Thiếu Bảo lại đến, trăm họ ở trong thành, đầu đội hương hoa đón quân Thiếu Bảo vào thành. Thiếu Bảo truyền lệnh cứu hoả, an dân tơ hào không cho phạm đến. Sau đó viết giấy sai quan báo tin thắng trận vào kinh.
Tiêu Vân Tiên ra nghênh tiếp Thiếu Bảo. Thiếu Bảo rất mừng, thưởng cho một đùi dê, một vò rượu và hết sức khen ngợi. Mười ngày sau, có lệnh Thiếu Bảo về kinh. Hai đô đốc chờ lệnh thăng chức còn Tiêu Vân Tiên được làm Thiên Tổng thực thụ. Để tiện công việc, Thiếu Bảo giao cho Tiêu Vân Tiên việc cai trị thành này.
Sau khi tiễn Thiếu Bảo về kinh, Tiêu Vân Tiên trở về thành. Qua một cơn binh lửa, thành bị phá hoại, kho thóc bị hư hại. Tiêu làm giấy báo tỉ mỉ gửi về trình Thiếu Bảo. Thiếu Bảo phê vào giấy sửa chữa thành như sau: Giao cho Tiêu Vân Tiên chịu trách nhiệm sửa chữa thành cẩn thận. Khi nào công việc xong sẽ tâu lên nhà vua.
Nhân việc đó khiến cho:
Cam đường rợp bóng(4). người sau luống những nhớ nhung.
Phi tướng(5) không phong số xấu chỉ thêm than thở(6).
Muốn biết Tiêu Vân Tiên sửa chữa thành như thế nào, xin xem hồi sau phân giải.

----------------
(1) Ngờ là con Hùng cửu, tên một quái vật trong truyền thuyết thời xưa.
(2) Hai người hiệp khách thời Chiến quốc, Kinh Kha ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng không thành công. Nhiếp Chính giết tướng quốc nước Hàn tên là Hiệp Luỹ.
 (3) Cách báo tin thắng trận quá dễ dàng.
 (4) Thiệu Công đời Chu đi tuần hành thường nghỉ dưới cây cam đường xử việc. Sau dân nhớ công đức ông, không nỡ chặt cây cam đường
 (5) Lý Quảng đời Tây Hán, đánh giặc rất giỏi. Hung nô gọi là quan tướng bay. Nhưng vì bị gièm pha, nên không được phong hầu.
(6) Theo các nhà khảo cứu hồi ba mươi tám và ba mươi chín, có nhiều chỗ không phải của Ngô Kính Tử vì văn của Ngô Kính Tử là văn hiện thực chỉ nhằm châm biếm xã hội, chứ không phải văn viết chuyện phiêu lưu, hoang đường. Những đoạn Quách Hiếu Tử mạo hiểm tìm cha và câu chuyện Tiêu Hạo Hiên trừng trị tên ác tăng Triệu Đại có tính chất của tiểu thuyết nghĩa hiệp lúc bấy giờ rất thịnh hành có lẽ do người khác đưa vào.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 164
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com