watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
11:43:4618/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50 - Trang 3
Chỉ mục bài viết
Nho Lâm Ngoại Sử 26 - 50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Tất cả các trang
Trang 3 trong tổng số 14

Hồi 30

Ưa Thiếu Tuấn tìm bạn quán Thần Lạc;
Sính phong lưu hội khách hồ Mạc Sầu


Đỗ Thận Khanh và Quý Vi Tiêu gặp nhau rất là ý hợp tâm đầu. Chiều ấy, vì Quý Vi Tiêu ở trọ lại chùa Thừa Ân, ở trong thành cho nên thấy trời tối, Vi Tiêu vội vàng trở về thành. Bão Đình Tỷ theo Đỗ Thận Khanh về nhà. Đỗ Thận Khanh mua rượu cho Bão Đình Tỷ uống và hỏi:
- Ông Vi Tiêu là người như thế nào? Đình Tỷ kể lại việc ngày trước Quý được Hướng tri phủ lấy đỗ đầu, sau đó Quý lấy cháu gái Vương quản gia tức là cháu của Bão. Năm nay, cụ Tuân làm Diêm vận sứ cho Vi Tiêu mấy trăm lạng bạc. Nhờ thế, Vi Tiêu, vừa mới cưới một cô vợ họ Vưu ở Dương Châu. Bão kể lại từ đầu đến cuối một lượt. Đỗ Thận Khanh nghe vậy mỉm cười và nhớ tất cả. Đỗ giữ Bão ở lại nhà mình nghỉ. Đêm ấy, Bão Đình Tỷ lại kể chuyện Hướng tri phủ đối đãi với mình tốt như thế nào. Đỗ Thận Khanh khôn xiết bùi ngùi. Bão lại nói đến chuyện mình lấy Vương thị vất vả như thế nào. Đỗ Thận Khanh cười vang. Sau đó hai người đi ngủ.
Sáng hôm sau, Quý Vi Tiêu và một người họ Tôn trước làm việc ở vương phủ cùng đến thăm. Hai người bước vào, vái chào và ngồi xuống. Tôn kể lại chuyện mình xướng họa ở kinh đô với bảy người danh sĩ họ Vương, họ Lý ở phủ Triệu Vương(1)
Đỗ Thận Khanh nói:
- Ông Phụng Châu và ông Vu Lân là chú của tôi.
Tôn nhắc đến người thứ ba là Tôn Tử Lương. Đỗ nói:
- Ông Tôn là bạn đồng khoa với thầy tôi.
Nhưng khi Tôn nói rằng mình là người anh em họ với Tôn Tử Tương thì Đỗ Thận Khanh không đáp. Người nhà bưng trà lên. Uống trà xong, Tôn về trước để Quý Vi Tiêu ở lại nói chuyện. Đỗ Thận Khanh nói:
- Anh Vi Tiêu! Tôi rất ghét những người hễ mở miệng ra là nói đến bọn mũ sa(2). Vừa rồi, cái ông kia nói rằng ông bác tôi là Tôn Tử Tương lại là anh em với ông ta. Tôi chỉ sợ ông bác tôi xấu hổ vì đã có một người anh em hèn hạ như thế!
Đang lúc nói chuyện, cơm dọn lên. Hai người ngồi ăn. Người đầy tớ vào bẩm:
- Có bà Thẩm đợi ở ngoài.
- Gọi bà ta vào. Có ngại gì việc ấy?

Người đầy tớ ra đưa bà Thẩm vào. Đỗ Thận Khanh bảo:
- Đem một cái ghế dài cho bà ta ngồi.
Bà Thẩm hỏi:
- Vị này là ai?
- Đó là ông Quý ở An Khánh. Việc tôi nhờ bà thế nào rồi?
- Tôi đến đây chính vì việc ấy đấy. Sau khi ngài nói việc ấy với tôi, tôi tìm gần khắp thành Nam Kinh cho ngài một người. Bởi vì ngài là một người hết sức lịch sự, sang trọng xem chừng không có cô nào xứng đôi, cho nên tôi không dám đến đây nói. Nay nhờ công phu tìm kiếm, tôi đã tìm được một cô ở Hoa Bài Lâu. Cô này họ Vương, làm nghề dệt lụa, thực là tài mạo tuyệt vời, không ai sánh kịp, năm nay mười lăm tuổi. Còn nói cô ta đẹp như thế nào thì chỉ nhìn người em trai cô ta kém cô ta một tuổi là đủ biết. Nếu anh ta ăn mặc áo quần đẹp, trang điểm vào thì tất cả những người đóng vai con gái ở trong mười ban hát ở cầu Hoài Thanh cũng đều không thấm vào đâu. Anh ta biết hát, biết diễn tuồng. Cô này với ngài thực là xứng đôi vừa lứa. Ngài có đi xem mặt không?
Đỗ Thận Khanh nói:
- Bà nói với cô ta ngày mai tôi lại.
Bà Thẩm vâng dạ đi ra. Quý Vi Tiêu nói:
- Tôi có lời mừng anh.
Thận Khanh cau mày:
- Anh ạ! Đây cũng chỉ vì muốn có con trai nối dõi, không biết làm thế nào. Nếu không tôi lấy hầu làm quái gì!
- “Trai tài gái sắc phải vui chơi kịp thời” chứ! Tại sao anh lại nói ngược đời như vậy?
- Anh Vi Tiêu! Anh nói thế là chưa hiểu tôi. Thái Tổ Cao hoàng đế chúng ta(3) nói: “Nếu ta không phải do người đàn bà đẻ ra thì ta đã giết tất cả những người đàn bà trong thiên hạ rồi”. Làm gì có người đàn bà tốt! Tính tình của tôi không chịu họ được. Họ ở cách xa ba gian phòng, tôi đã ngửi thấy mùi hôi thối của họ rồi!

Quý Vi Tiêu chưa hỏi tại sao thì người đầy tớ đã đưa một tờ danh thiếp vào và nói:
- Ở bên ngoài có ông Quách ở Vu Hồ đến thăm.
Đỗ nói:
- Tôi không quen ai họ Quách ở Vu Hồ cả.
Quý Vi Tiêu cầm tờ thiếp xem và nói:
- Ông ta tên là Quách Thiết Bút, chủ một hiệu khắc dấu ở ngoài cửa chùa. Chắc ông ta đã khắc cho hai ông con dấu vuông nên đến chào chứ gì. Cứ gọi ông ta vào!
Đỗ Thận Khanh bảo đầy tớ mời Quách Thiết Bút vào. Quách Thiết Bút vào vái chào, nói một tràng dài tỏ lòng ngưỡng mộ:
- Gia đình ông “Một nhà ba giáp bảng, bốn đời sáu thượng thư”. Còn học sinh và tôi tớ thì ở khắp cả thiên hạ: Số người làm tổng đốc, tuần vũ, bố chánh, thủ đạo, đếm không hết. Cả những người quản gia, khi ra khỏi nhà cũng được hàm cửu phẩm. Này ông Quý: Khi nhỏ tôi vẫn nghe người ta nói người con cụ Đỗ là bậc thiên tài giỏi nhất trong thiên hạ, thế nào ông ta cũng đỗ trạng nguyên.
Quách nói xong, lấy ra một cái hộp bọc gấm, ở trong có hai con dấu vuông, ở ngoài viết hai chữ “Đài Ấn”. Quách cầm hai tay đưa cho Đỗ. Đỗ Thận Khanh nhận lấy. Nói chuyện suông một lát, Quách bước ra. Đỗ tiễn ra rồi quay trở lại nói với Quý Vi Tiêu:
- Hắn vừa mới gặp ta đã nói lải nhải khó chịu. Nhưng điều hắn nói kể ra đúng sự thực cả.
Quý Vi Tiêu nói:
- Chuyện trong quý phủ ai mà chả biết!
Đỗ mời Quý ở lại ăn cơm. Rượu bưng lên, hai người ngồi uống rượu nói chuyện tâm sự. Quý Vi Tiêu nói:
- Bình sinh anh có thích chơi sơn thủy không?
- Sức khỏe tôi kém cho nên trèo núi, chơi trên sông cũng đều miễn cưỡng.
- Thế anh có thích âm nhạc không?
- Ngẫu nhiên mà nghe thì cũng được. Còn nghe lâu thì thấy nó ầm ĩ inh tai.
Hai người lại uống thêm vài chén. Đỗ ngà ngà say bỗng thở dài mà rằng:
- Anh Vi Tiêu! Từ xưa đến nay người ta đều bị chữ tình làm luỵ.
Quý nói:
- Tình con người ta chẳng qua là tình trai gái; nhưng theo anh vừa nói, thì anh không thích đàn bà.
- Tại sao anh lại nói tình người ta chẳng qua là tình trai gái? Tình bạn bè chẳng hơn tình trai gái sao? Chẳng cần nói gì chỉ xem chuyện “Chiếc chăn thêu” của Ngạc Quân thì đủ rõ(4). Cứ như ý tôi trong thiên hạ chỉ có vua Ai Đế nhà Hán nhường ngôi cho Đồng Hiền(5) là người hiểu tình yêu một cách đúng đắn mà thôi. Nghiêu, Thuấn nhường ngôi cho nhau chẳng qua cũng là như vậy. Đáng tiếc người đời không ai hiểu!
- Anh nói như vậy đúng lắm! Thế nhưng bình sinh anh đã gặp ai hiểu lòng mình chưa?
- Nếu trong thiên hạ có con người như vậy, sống chết có nhau thì tôi đã không buồn bã, ốm đau như thế này! Vì tôi, duyên ôi, phận hẩm chưa hề gặp được người tri kỷ cho nên nhìn bóng trăng mà ngậm ngùi, nghe tiếng gió mà rơi lệ.
- Muốn tìm một người bạn thì phải tìm trong đám con hát.
- Anh Vi Tiêu! Anh nói câu ấy lại càng ra ngoài đề nữa. Tìm người bạn trong đám con hát, chẳng khác gì người thích sắc đẹp mà tìm tình yêu trong chốn thanh lâu. Như thế chẳng là sai lầm vô cùng sao? Phải là những người gặp nhau ở trong gan ruột, cảm nhau bên ngoài hình hài, những kẻ cao quý nhất trong thiên hạ thì mới có được cái tình yêu như vậy.

Nói xong, Đỗ lại vỗ đùi mà than: - Nhưng trong thiên hạ không có con người như thế. Ông xanh kia bắt Thận Khanh này đành ôm mối sầu dằng dặc, cô độc một mình. Nói xong, sa nước mắt. Quý Vi Tiêu nghĩ bụng:
“Lão này xem ra điên rồi. Ta phải chơi cho hắn một mẻ mới được”.
Bèn nói:
- Anh không nên nói trong thiên hạ không có người nào. Tôi đã được gặp một trang thanh niên, anh ta không phải là con hát, cũng không phải như bọn ta, mà là một đạo sĩ. Con người này phong lưu tao nhã, nhưng không phải là xinh đẹp theo kiểu đàn bà, mà xinh đẹp theo kiểu đàn ông. Hễ tôi nghe ai khen một người đẹp trai mà nói đẹp như đàn bà là bao giờ tôi cũng nổi giận. Thật là buồn cười! Ai thích cái đẹp đàn bà thì cứ việc ngắm đàn bà là đủ rồi. Nhưng trong thiên hạ lại còn có cái đẹp đàn ông mà ít ai nhận thấy.
Đỗ đập tay vào bàn nói:
- Câu này phải khuyên mấy khuyên. Anh nói ai đấy?
- Ông ta là hạng khác thường! Có nhiều người tìm cách làm quen với ông ta, nhưng ông ta không chịu dễ dàng nói cười với ai. Ông ta lại rất quý trọng tài năng, vì tôi hơn ông ta mấy tuổi, nên trước mặt ông ta, tự biết mình xấu xí, tôi không dám mơ đến việc làm quen. Này anh! Anh có muốn đi xem ông ta như thế nào không?
- Khi nào anh đưa ông ta đến đây?
- Nếu tôi đưa ông ta đến đây thì chẳng có gì lạ hết. Anh phải thân hành đến tìm ông ta chứ.
- Ông ta ở đâu?
- Ở Thần Lạc Quán.
- Tên họ là gì?
- Tên họ thì nay chưa thể nói được. Nếu “tiết lộ thiên cơ”, ông ta mà biết thì sẽ trốn ngay mà anh muốn gặp cũng không thể gặp được nữa. Bây giờ tôi viết tên họ ông ta vào một tờ giấy, bỏ vào phong bì dán kỹ đưa cho anh. Khi nào anh đến cửa Thần Lạc Quán mới được phép mở,  xem xong, đi tìm ngay thì anh sẽ gặp ông ta một cách dễ dàng.
Đỗ vừa nói vừa cười:
- Được lắm!
Quý Vi Tiêu liền vào trong phòng đóng cửa lại một hồi lâu, viết vào một tờ giấy rồi niêm phong cẩn thận. Trên phong bì lại viết hai chữ “sắc lệnh”, rồi đưa cho Đỗ và nói:
- Bây giờ tôi phải đi ngay. Độ đến mai khi anh đã gặp con người kỳ lạ này rồi, tôi sẽ trở lại mừng anh.
Nói xong Vi Tiêu ra về.
Đỗ Thận Khanh tiễn Vi Tiêu ra cửa rồi vào nhà bảo đầy tớ:
- Sáng ngày mai mày đến ngay nhà bà Thẩm nói rằng sáng mai tao không có thì giờ rỗi để đến Hoa Bài Lâu xem mặt cô ấy. Bà hãy đợi đến ngày kia. Ngày mai bảo người khiêng kiệu đưa ta đến Thần Lạc Quán thăm một người bạn.

Chiều hôm ấy, không có việc gì xảy ra. Sáng hôm sau, Đỗ lấy xà phòng rửa mặt mày, thay quần áo mới, bôi nước hoa đầy người thơm phức rồi bỏ bức thư của QuýVi Tiêu vào trong ống tay áo, lên kiệu đi thẳng đến Thần Lạc Quán. Kiệu dừng ở ngoài cổng, Đỗ đi bộ vào, lấy bức thư ra xem. Trên bức thư đề “Đi đến đạo viện Quế Hoa ở đầu hành lang phía bắc, hỏi đạo sĩ là Lai Hà Sĩ ở Dương Châu đến”.
Đỗ Thận Khanh bảo người khiêng kiệu đợi. Còn mình đi theo một con đường quanh co vào trong chùa. Ở trong chùa nghe có tiếng âm nhạc. Ở trước mặt là một cái lầu. Cửa lầu mở rộng. Ở trong có ba gian phòng. Ở gian giữa có một quan Thái giám lo việc coi sóc lăng tẩm, mặc một cái áo thêu rồng, đang ngồi đó. Ở bên phải có hơn chục người con hát. Bên trái là bảy tám đạo sĩ nhỏ ngồi trên một dãy ghế dài đang hát và chơi nhạc. Đỗ trong lòng nghi hoặc “không biết ông Lai Hà Sĩ có ở đây không!”.
Đỗ đưa mắt nhìn tất cả những người đạo sĩ trẻ một lượt nhưng vẫn không thấy ai xuất sắc. Lại quay đầu nhìn tất cả con hát, cũng toàn là những người tầm thường. Đỗ nghĩ bụng: Lai Hà Sĩ đã là người cao thượng, tự trọng, chắc là không thèm chơi với bọn này. Ta đến Quế Hoa Viện hỏi xem. Đỗ đến Quế Hoa Viện gõ cửa. Một đạo sĩ mời vào ngồi. Đỗ Thận Khanh nói:
- Tôi đến thăm ông Lai Hà Sĩ mới ở Dương Châu đến đây.
- Ông Lai Hà Sĩ ở trên lầu. Ông cứ ngồi đây. Tôi đi mời ông ta xuống.
Người đạo sĩ kia đi được một lát thì thấy một vị đạo sĩ béo phị ở trên lầu đi xuống, đầu đội mũ đạo sĩ, mình mặc áo màu gỗ trầm hương, mặt đen láng như dầu, lông mày rậm, mũi to, râu ria xồm xoàm trạc độ năm mươi tuổi. Vị đạo sĩ vái chào hỏi:
- Ngài ở đâu đến, quý tính là gì?
- Tôi họ Đỗ người ở Thiên Trường. - Chúng tôi có nhận được một số tiền của Đỗ Phủ ở Thiên Trường. Có phải là của quý chủ không?
- Vâng. Đạo sĩ vui mừng lộ ra nét mặt cung kính nói: - Tôi không biết ngài ở đây, đáng lý tôi phải đến quý phủ bái kiến, nay lại bắt ngài phải mất công giáng lâm như thế này...
Và vội vàng bảo đạo nhân pha trà mời và đem đồ tráng miệng đến. Đỗ Thận Khanh nghĩ bụng: “Đây chắc là người sư phụ của Lai Hà Sĩ”. Bèn hỏi:
- Ông Lai Hà Sĩ là học trò hay là cháu ông? Đạo sĩ kia đáp:
- Tôi chính là Lai Hà Sĩ.

Đỗ Thận Khanh nhìn kinh ngạc nói:
- A! Thế ra ông là ông Lai Hà Sĩ sao?
Bấy giờ Đỗ không nhịn được, cứ lấy ống tay áo che miệng mà cười. Đạo sĩ không biết việc gì, sai đem các đĩa quả đến pha trà, lại lấy trong ống tay áo ra một tập thơ, yêu cầu chỉ giáo. Thận Khanh không biết làm sao, đành phải gắng gượng xem một lượt. Uống xong hai chén trà, Đỗ liền đứng dậy cáo từ. Đạo sĩ nhất định đòi cầm tay tiễn ra ngoài cửa, đạo sĩ hỏi:
- Có phải ông ở chùa Báo Ân không? Ngày mai tôi sẽ đến đấy ở chơi vài hôm với ông.
Đạo sĩ tiễn Đỗ ra cửa, chờ cho Đỗ lên kiệu rồi mới trở vào nhà. Đỗ Thận Khanh lên kiệu trên đường nhịn cười không được, nghĩ bụng: lão Quý Vi Tiêu chó má thực, chỉ toàn nói bậy!
Đỗ vừa vào nhà, thì người đầy tớ nói:
- Có mấy người khách ở trong nhà.
Đỗ đi vào thấy Tiêu Kim Huyễn, Tân Đông Chí, Kim Ngụ Lưu và Kim Đông Nhai đến thăm. Tân Đông Chi đưa ra một bức đại tự, Kim Ngụ Lưu đưa ra một đôi câu đối, Kim Đông Nhai đưa ra quyển “Tứ thư giảng chương” do y soạn để nhờ xem hộ. Vái chào xong, mọi người ngồi xuống. Mấy người đều kể lai lịch của mình. Uống trà xong mọi người ra về. Đỗ Thận Khanh khịt mũi một cái, quay vào nói với đầy tớ:
- Một anh chàng thư biện lại về nhà lo giảng “Tứ thư”. Sách thánh hiền lại đến hạng này giảng sao!
Đang lúc ấy thì có người đầy tớ của Tôn mang đến một phong thư và một bức tranh để nhờ Đỗ đề vài chữ. Đỗ Thận Khanh chán ngán đành phải nhận và viết thư trả lời để cho người đầy tớ mang về nhà. Hôm sau, Đỗ đi xem mặt người thiếp. Viết giấy định ngày, chọn ba ngày sau đưa dâu về, bận rộn về việc dời đến ở cái nhà bên sông để đón người thiếp về ở đấy.
Hôm sau, Quý Vi Tiêu đến mừng Đỗ Thận Khanh. Đỗ Thận Khanh ra đón vào. Vi Tiêu nói:
- Tôi xin lỗi hôm qua không đến mừng anh được, hôm nay mới đến có hơi chậm, xin thất lễ!
- Chiều qua tôi không dọn tiệc nên cũng không dám mời anh.
Vi Tiêu cười hỏi: - Hôm trước anh đã thấy con người kỳ lạ ấy chưa? - Anh thực là chó má, tôi muốn đánh cho anh một trận. Nhưng thôi tha cho vì cái vố anh chơi tôi cũng thú vị đấy.
- Tại sao anh lại đánh tôi? Tôi nói ông ta đẹp theo lối đàn ông chứ không phải đẹp theo lối đàn bà. Không phải như thế sao?
- Chính vì thế nên tôi muốn đánh cho anh một trận. Hai người cười rộ. Vừa lúc ấy, Lai Hà Sĩ và Bão Đình Tỷ cùng bước vào để chúc mừng. Hai người lại càng nhịn cười không được. Đỗ Thận Khanh ra hiệu cho Quý Vi Tiêu không được cười nữa. Bốn người vái chào cùng ngồi. Đỗ Thận Khanh giữ họ lại ăn cơm. Ăn cơm xong, Đỗ kể chuyện hôm đến Thần Lạc Quán thấy một người Thái giám ngồi dưới lầu, ở bên trái hắn ta có những người hát tuồng, ở bên phải có những người đạo sĩ chơi đàn và ca hát. Quý Vi Tiêu nói:
- Thú vui kia mà chỉ dành riêng cho bọn ấy chơi sao? Thật là đáng bực!

Đỗ Thận Khanh nói: - Anh Vi Tiêu! Tôi có một việc này rất ít có, muốn bàn với anh.
- Việc gì vậy?
Đỗ Thận Khanh hỏi Bão Đình Tỷ:
- Ở cửa Thuỷ Tây và bên cầu có tất cả bao nhiêu gánh hát?
- Trên một trăm ba mươi gánh.
- Tôi định chọn một ngày nào đó mở một hội vui ở một nơi thật rông rãi, mời tất cả những người đóng vai đàn bà trong số một trăm mấy mươi gánh hát đến. Mỗi người ra đóng một trò. Tôi với anh Vi Tiêu ở bên cạnh nhìn xem vóc dáng người và dáng điệu người diễn. Vài ngày sau, sẽ định thứ bực; rồi viết lên một cái bảng. Ai mà nhan sắc và tài nghệ đều tuyệt thì sẽ được ghi vào bảng và yết ở nơi đông người qua lại. Cố nhiên, ai đến cũng có tiền. Mỗi người được biếu năm mươi đồng, hai cái túi, một cái quạt đề thơ. Chơi như thế có được không?
Quý Vi Tiêu mừng rỡ:
- Sao anh không nói điều ấy với tôi sớm hơn? Thế tin vui chết đi được.
Bão Đình Tỷ cười và nói:
- Để tôi đi gọi họ. Mỗi người được năm mươi đồng và sau này khi được các ngài chọn, yết tên vào bảng thì sẽ nổi danh. Tôi không dám nói chứ ai được yết tên vào bảng thì sẽ được đi lại với các quan và sẽ kiếm được nhiều tiền. Họ mà biết thế thì ai mà chả kéo đến đây để diễn tuồng.
Lai Hà Sĩ vỗ tay nói:
- Tuyệt! Tôi cũng muốn xem lắm! Không biết hôm đó các ngài có cho đạo sĩ này xem không?
Đỗ Thận Khanh nói: - Tại sao lại không? Chúng tôi sẽ gửi giấy mời tất cả các bạn hữu đến dự tiệc.
Quý Vi Tiêu hỏi: - Bây giờ chúng ta định làm ở đâu? Đình Tỷ nói:
- Tôi sống ở cửa Thuỷ Tây biết cửa Thuỷ Tây rất rõ. Tôi xin đi mượn một cái đình ở Mạc Sầu Hồ. Nơi đó rộng rãi và mát mẻ lắm.
- Cố nhiên là chú Bão phải đi loan báo các diễn viên. Nhưng chúng ta cũng phải viết một tờ yết thị chứ. Chúng ta chọn ngày nào đây?
Lai Hà Sĩ nói: - Hôm nay là ngày 20 tháng 4. Ông Bão còn phải đi loan báo mấy ngày. Loan báo xong, cũng mất độ mười ngày. Như thế thì định vào ngày mồng ba tháng sau là vừa.

Đỗ Thận Khanh nói: - Anh Vi Tiêu! Lấy một tờ giấy đỏ ra đây! Tôi đọc cho anh viết.
Quý Vi Tiêu cầm bút, Đỗ Thận Khanh đọc: “Quý Vi Tiêu ở An Khánh và Đỗ Thận Khanh ở Thiên Trường chọn ngày mồng 3 tháng năm mở hội ở Mạc Sầu Hồ. Báo cho tất cả các con hát trong các ban hát trong tỉnh, ai muốn đến dự thi thì ghi tên và ngày ấy đến Mạc Sầu Hồ. Mỗi người diễn một tấn tuồng tùy ý mình. Ai diễn cũng được năm mươi đồng, một cái túi, một cái quạt đề thơ, ba cái khăn tay. Nếu nhan sắc và tài nghệ đều khá thì được thưởng thêm. Cuộc thi vẫn tiếp tục không kể mưa gió. Báo cho tất cả mọi người biết”.
Vi Tiêu viết xong đưa ngay cho Bão Đình Tỷ. Thận Khanh sai đầy tớ ra phố mua hơn một trăm cái quạt về. Đỗ Thận Khanh, Lai Hà Sĩ và Quý Vi Tiêu mỗi người chia nhau mấy chục cái để đề thơ. Sau đó, họ bàn việc mời khách. Vi Tiêu lấy tờ giấy đỏ ra đặt trước mặt và viết: “Tôn tiên sinh, Tân tiên sinh, Kim Đông Nhai tiên sinh, Kim Ngu Lưu tiên sinh, Tiêu Kim Huyễn sinh, Gia Cát tiên sinh, Quý tiên sinh, Quách Thiết Bút, vị tăng, Lai đạo sĩ, ông Bão và hai chủ nhân nữa tất cả mười ba người. Họ viết mười một thiếp lấy tên hai người để mời.
Đang khi chuẩn bị thì Vương Lưu Ca người thiếp của Đỗ Thận Khanh mang lễ vật đến thăm chị: Hai con vịt, một cặp gà con, một miếng thịt, tám thứ bánh và một bình rượu. Đỗ nói:
- Em đến đây đúng lúc quá.
Vương Lưu Ca vái chào Đỗ Thận Khanh, Đỗ cầm lấy tay và nhìn một lượt. Rõ ràng là một người thiếu niên đẹp trai, có phần đẹp hơn cả chị. Đỗ bảo Vương trở lại sau khi đã thăm chị. Đỗ dặn người nhà làm thịt con gà và con vịt Vương vừa đem đến để nhắm rượu. Khi Vương Lưu Ca trở lại, Đỗ nói đến ý định mình muốn mở hội ở cái đình trên hồ. Lưu Ca reo lên:
- Tuyệt quá! Tôi cũng xin diễn một đoạn.
Quý Vi Tiêu nói:
- Thế thì hôm nay anh hãy hát một bài cho chúng tôi nghe với.
Vương Lưu Ca cười. Chiều hôm ấy sau khi đã uống rượu, Bão Đình Tỷ chơi sáo, Lai Hà Sĩ gõ nhịp và Vương Lưu ca hát bài “Tiễn biệt ở Trường Đình” lấy trong Tây Sương Ký. Bài hát rất du dương. Hát xong một lúc, tất cả mọi người đều say khướt và trở về.

Đến ngày mồng ba hai hòm đựng áo quần của hai ban tuồng được mang đến Mạc Sầu Hồ. Quý và Đỗ hai người chủ đến trước. Khách khứa cũng lần lượt đến. Bão Bình Tỷ đem đến độ sáu bảy mươi người hát tuồng. Họ đều là những người đã ghi tên vào tờ giấy hôm trước. Họ đến chào Đỗ Thận Khanh, Đỗ bảo họ trước tiên ăn cơm rồi trang sức lần lượt đi ra trước đình để cho các quan khách xem một lượt kỹ rồi mới vào diễn. Mọi người vâng dạ bước ra. Các danh sĩ nhìn Mạc Sầu Đình, thấy cửa bốn phía mở toang, bốn bề là nước hồ bao bọc. Ngọn gió nhẹ làm rung rinh mặt nước, những làn sóng gợn lăn tăn. Trên cái cầu ván ở bên ngoài đình, những người diễn tuồng đã trang sức đẹp đẽ. Họ đều đi qua cầu ấy đi vào. Đỗ bảo đóng cửa giữa lại. Những người diễn tuồng sau khi đi qua cầu, đi vòng qua hành lang một lượt theo cái cửa phía đông vào trong đình rồi đi ra cái cửa phía tây. Như thế, tất cả các quan khách đều có thể thấy rõ điệu bộ và dung nhan của họ.
Ăn cơm xong, mọi người trang điểm đẹp đẽ, đội mũ mới, mặc áo mới, lần lượt đi qua cầu vào đình rồi đi ra. Trong khi đó Đỗ và Quý cầm bút trong tay. Lát sau tiệc dọn ra, tiếng trống và tiếng thanh la nổi lên và mỗi người hát tuồng bước lên diễn một vở. Người này diễn vở “Bữa tiệc”, người kia diễn vở “Chàng hát say”. Người nọ diễn đoạn “Giết hổ”, người thì diễn đoạn “Xin uống trà”. Không có đoạn nào trùng nhau. Vương Lưu Ca diễn vở “Nhớ đến cảnh phàm tục”. Đêm đến, mấy trăm ngọn đèn cái cao cái thấp chiếu sáng như ban ngày. Giọng hát réo rắt cao vút trời xanh những người giàu có làm ở các nha môn, các hiệu buôn và những người chủ hiệu buôn ở trong thành nghe nói ở Mạc Sầu Hồ có hội, đều thuê thuyền treo đèn lồng, chèo ra giữa hồ xem. Khi nào cao hứng thì họ đồng thanh leo lên. Chơi mãi đến khi trời sáng, cửa thành đã mở, họ mới trở về thành. Một ngày sau, ở cửa Thuỷ Tây có một cái bảng đề: Thứ nhất Trịnh Khôi Quan ở ban Phương Lân, thứ hai: Cát Lai Quan ở ban Linh Hòa, thứ ba Vương Lưu Ca v.v... Hơn sáu mươi người khác cũng đều được xếp theo thứ tự như vậy. Bão Đình Tỷ đem Trịnh Khôi Quan đến yết kiến Đỗ Thận Khanh. Đỗ Thận Khanh cân ra hai lạng vàng bảo Bão Đình Tỷ đem ra hiệu hàng vàng làm một cái chén vàng trên khắc bốn chữ: “Đẹp hơn anh đào” để tặng riêng cho Trịnh Khôi Quan. Những người khác cũng đều được thưởng túi bạc, khăn tay và quạt thơ. Sau khi xem bảng, các vị quan quen thân với mười người hát tuồng được đứng đầu bảng rất là vui mừng. Có người kéo họ về nhà uống rượu. Có người mua rượu ở ngoài tiệm đem về cùng uống. Tiệc tùng kéo dài ba bốn ngày. Từ đó, tiếng truyền khắp cửa Thuỷ Tây lan đến cầu Hoài Thanh. Danh tiếng của Đỗ Thận Khanh làm náo động cả Giang Nam.
Chỉ nhân phen này, khiến cho: 
Ở ngoài phong lưu tài tử, lại có người kỳ;
sau khi hoa rượu vui tình, còn nhiều vận sự.
Muốn biết sự việc như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

-----------------
(1) Bảy danh sĩ niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh: Vương Thế Trinh, tự Phụng Châu, Lý Phan long tự Vu Lân, Tạ Trăn tự Mậu Tần; Tôn Thần tự Tử Tương, Lý Hữu Dự, Từ Trung Hành và Ngô Quốc Luân.
(2) Những người làm quan đội mũ sa; cho nên những người làm quan thường gọi là hạng mũ sa.
(3) Tức là Chu Nguyên Chương.
(4) Trong quyển “Thuyết Uyển” có chuyện ông vua nước Ngạc đi thuyền đem nệm gấm lên trên chèo mà hát những việc của người nước Việt. Sau này người ta dùng việc ấy để tả cảm tình của người con trai đối với nhau".
(5) Đồng Hiền đẹp trai được vua Ai Đế (năm 61 trước công nguyên) yêu, muốn nhường ngôi cho y.

Hồi 31

Huyện Thiên Trường đến thăm người hào kiệt
Lầu Tứ Thư say tít nhóm cao bằng

Đỗ Thận Khanh mở hội, Bão Đình Tỷ thấy Đỗ tiêu nhiều tiền quá trong lòng kinh ngạc, bèn nghĩ thầm:
“Ông ta là người khẳng khái, tại sao ta không nhân đó mượn vài trăm lạng để lập một ban hát kiếm ăn như ngày trước. Chủ ý đã định, Đình Tỷ ngày nào cũng đến nhà bên bờ sông, săn sóc lo lắng đến nỗi Đỗ không ngờ như thế. Một hôm, đêm đã khuya, tất cả tôi tớ trong nhà đều đi ngủ hết, hai người nói chuyện tâm sự với nhau. Đỗ nói:
- Ông Bão. Ông hiện nay sinh sống như thế nào? Phải tìm một công việc gì mà làm mới được?
Bão Đình Tỷ nghe câu hỏi ấy liền quỳ xuống đất. Đỗ giật mình đỡ y dậy mà rằng:
- Anh làm cái gì thế? - Con là môn hạ của ông được ông hỏi như vậy thực ông lượng rộng như trời như biển. Nhưng con xuất thân làm nghề dạy hát tuồng, ngoài cái nghề ấy ra con không biết làm cái nghề nào khác. Xin ông thương con, giúp cho con vài trăm lạng để lập một ban hát như ban hát trước. Khi nào con kiếm ra tiền thế nào con cũng xin đưa lại.
- Cái đó thì dễ. Ngồi xuống rồi tôi bàn với ông. Vài trăm lạng bạc thì không đủ để lập một ban hát được. Ít nhất cũng phải mất đến ngàn lạng. Ở đây không có ai ngoài tôi và ông nên tôi cũng không giấu giếm gì ông hết. Nhà tôi tuy có một hai ngàn lạng bạc thật đấy, nhưng hiện nay tôi không muốn tiêu đến. Vì sao? Vì trong một hai năm nữa tôi sẽ thi đỗ và đỗ thì phải tiêu. Cho nên tôi phải giữ tiền để dùng vào việc ấy. Còn về việc ban hát của ông, thì tôi mách một người có thể giúp ông. Làm thế cũng như là tôi giúp ông vậy. Nhưng ông không được cho ông ta biết rằng chính tôi nói với ông điều ấy nhé!
- Ngoài ông ra ở đây còn có ai giúp tôi nữa?
- Ông đừng lo, hãy nghe tôi nói đã. Họ hàng chúng tôi có tất cả bảy ngành chính. Cụ Thượng thư bộ Lễ thuộc ngành thứ năm. Trước đây hai đời, cụ đứng đầu chi họ ngành thứ bảy thi đỗ trạng nguyên, ông con làm tri phủ phủ Cống Châu ở Giang Tây. Ông ấy là bác tôi và người con của ông là người anh họ thứ hai mươi lăm của tôi tên là Nghi, hiệu là Thiếu Khanh. Ông này kém tôi hai tuổi và đã đỗ tú tài. Bác tôi là một ông quan thanh bạch. Tổ tiên để lại một ít nhà cửa, ruộng vườn. Sau khi bác tôi chết để lại gia tài trên dưới một vạn lạng bạc. Nhưng Thiếu Khanh là người ngốc, tiêu xài như là người có mười mấy vạn lạng. Ông ấy không biết phân biệt bạc tốt hay bạc xấu, thế mà lại rất thích giúp đỡ người khác. Bất kỳ ai đến kể cảnh nghèo khổ của mình cũng được ông ta cho nhiều tiền. Bây giờ ông ở đây giúp tôi ít lâu. Đến mùa thu mát trời, tôi sẽ đưa tiền đi đường cho ông đến nhà ông anh họ tôi. Tôi cam đoan với ông, thế nào ông cũng có một ngàn lạng bạc.
- Lúc bấy giờ xin ông viết cho con một bức thư cho con cầm đi.
- Không được! Viết thư thì nhất định không được. Ông ta chỉ muốn làm người giúp đỡ duy nhất, người chiếu cố duy nhất đến người khác mà thôi. Ông ta không muốn ai nhúng tay vào việc giúp đỡ ấy. Nếu tôi viết thư thì ông ta cho rằng tôi đã giúp anh rồi, và ông ta sẽ giận nên không giúp anh nữa. Nhưng trước tiên ông phải đến tìm một người.
- Tìm ai?
- Ông anh họ tôi có một ông quản gia già họ Thiệu. Ông có biết người ấy không?
Bão suy nghĩ một lát rồi nói:
- Lúc thầy con còn sống thì ông Thiệu có bảo chúng con đến diễn tuồng để mừng sinh nhật bà cụ chủ. Con cũng được thấy cả cụ tri phủ Cống Châu.
- Thề thì tuyệt! Ông Thiệu bây giờ đã chết rồi. Người quản gia hiện nay là lão Vương Râu. Hắn là một thằng hết sức hèn hạ nhưng ông anh họ tôi lại hết sức tin cậy. Ông anh họ tôi có một cái bệnh như thế này: Hễ ai mà nói biết đến ông cụ thân sinh anh tôi thì dầu hắn là con chó, anh tôi vẫn kính trọng như thường. Vậy, trước tiên ông phải đến gặp lão Vương Râu. Thằng cha này thích uống rượu. Nếu ông mua rượu cho hắn uống và nhờ hắn nói với chủ rằng: ông là người cụ phủ ngày xưa thích nhất thì ông anh họ tôi sẽ cho ông vô khối tiền tiêu. Ông ta có tính không thích người ta gọi ông là “lão gia” (cụ chủ). Ông cứ gọi ông ta là “thiếu gia” (ông chủ trẻ) ông ta lại có một cái tật như thế này: ông không thích người ta nói chuyện về các quan hay những người giàu trước mặt mình. Chẳng hạn nói với ông ta rằng Hướng tri phủ trước kia rất tốt với ông. Đừng nói với ông ta điều đó. Cứ để ông ta tin rằng ông ta là người duy nhất đã che chở ông, giúp đỡ ông và nếu ông ta hỏi ông có biết tôi không thì cứ trả lời là không biết(1).

Bão nghe vậy trong lòng mừng rỡ, hết sức giúp đỡ việc nhà cho Đỗ. Hai tháng nữa, vào cuối tháng bảy, trời bắt đầu mát. Đình Tỷ xin Thận Khanh hai lạng bạc, thu xếp hành lý để qua sông đi Thiên Trường.
Ngày thứ nhất, Bão qua sông đến ngủ ở huyện Lục Hợp, ngày thứ hai, Bão dậy sớm đi độ mười dặm đến một nơi gọi là đồi Tứ Hiệu. Bão vào một cái quán ngồi. Đang định gọi đem nước ra rửa mặt, thì thấy một cái kiệu dừng ở trước cửa. Ở trên kiệu bước xuống một cụ già, đầu đội mũ vuông, mình mặc áo sa trắng, chân đi giày lụa đỏ có cái mũi đỏ của một tay bợm rượu và bộ râu dài, bạc như sợi tơ. Cụ già vừa bước vào hiệu, thì chủ quán vội chạy ra đỡ lấy hành lý.
- Cụ Vi thứ tứ đã đến đấy à? Xin mời cụ vào!
Cụ Vi bước vào nhà. Đình Tỷ đứng dậy vái chào, cụ Vi đáp lễ. Đình Tỷ mời cụ Vi ngồi ghế trên, mình ngồi ghế dưới và hỏi:
- Ngài họ Vi, vậy ngài làm ơn cho biết ngài ở đâu?
- Tôi họ Vi, ở trấn Ô Y thuộc Từ Châu. Ông họ là gì và ở đâu?
- Tôi họ Bão người Nam Kinh đến phủ trạng nguyên ở Thiên Trường thăm ông Đỗ Thiếu Gia.
- Ông Đỗ nào? Đỗ Thận Khanh hay Đỗ Thiếu Khanh?
- Đỗ Thiếu Khanh.
- Gia đình ông Đỗ có sáu bảy mươi người, nhưng chỉ có hai người này giao du với các tân khách bốn phương, còn những người khác toàn đóng cửa, bo bo giữ lấy ruộng vườn và lo thi cử. Tôi hỏi ông Đỗ nào trong hai người là vì vậy. Cả hai đều là tay nổi tiếng ở khắp miền Trường Giang này. Thận Khanh là người phong nhã, nhưng tôi thấy ông ta có vẻ uỷ mị một chút. Còn Thiếu Khanh là một người hào kiệt. Tôi cũng đến nhà thăm ông ta đây. Chúng ta ăn cơm rồi cùng đi.
- Cụ có phải là bà con với Đỗ phủ không?
- Tôi là bạn học rất thân với cụ phủ Cống Châu từ khi còn nhỏ.
Đình Tỷ nghe vậy lại càng kính trọng. Ăn cơm xong, Vi lên kiệu, bão thuê lừa cưỡi để cùng đi đến cổng thành huyện Thiên Trường. Vi xuống kiệu nói:
- Ông Bão! Chúng ta cùng vào Đỗ phủ đi. - Cụ cứ lên kiệu đi trước. Tôi còn đến nhà gặp người quản gia rồi đến gặp thiếu gia cũng được.
- Tốt lắm!
Cụ Vi lên kiệu đi thẳng vào Đỗ phủ. Người giữ cổng vào báo tin. Thiếu Khanh vội vàng ra mời vào nhà khách. Thiếu Khanh nói:
- Đã nửa năm nay xa cách, cháu chưa đến thăm bác và bác gái. Sức khỏe của bác mấy lâu nay như thế nào?
- Cám ơn! Đều mạnh khỏe cả. Đầu mùa thu này ở nhà rỗi, tôi nhớ đến vườn hoa trong phủ anh hoa quế chắc chắn nở đầy cho nên tôi đến đây thăm anh rồi cùng uống rượu.
- Uống trà xong mời bác vào thư phòng ngồi chơi! Người đầy tớ bưng trà lên, Đỗ Thiếu Khanh dặn: - Mang hành lý của cụ Vi vào thư phòng rồi trả tiền cho người khiêng kiệu để cho họ đi nhé.

Thiếu Khanh dẫn cụ Vi theo một con đường nhỏ quanh co ở sau nhà khách đi vào vườn hoa. Trong vườn hoa, có ba gian phòng, cửa nhìn ra hướng đông. Một cái lầu ở bên trái, do Đỗ trạng nguyên ngày xưa làm, gọi là lầu tứ thư. Trước lầu là một cái sân rộng, có một bồn hoa mẫu đơn, một bồn hoa thược dược, và hai câu quế rất lớn, hoa nở thực đẹp. Đối diện với nó là ba gian nhà để nghỉ mát. Có ba gian thư phòng nhìn ra một cái hồ con... Một cái cầu bắc ngang qua hồ đưa người ta đến một cái phòng kín đáo là chỗ Đỗ Thiếu Khanh thường đọc sách một mình. Thiếu Khanh mời cụ Vi vào cái thư phòng nhìn ra hướng Nam. Hai cây hoa quế ở trước cửa sổ. Cụ Vi ngồi xuống và hỏi:
- Ông Lâu còn ở đây không? - Bác Lâu gần đây rất yếu. Cháu để bác vào phòng trong nghỉ. Bác vừa ngủ sau khi đã uống thuốc nên không ra chào bác được.
- Nếu ông ta đau, tại sao không để ông ta về nhà? - Cháu đã đưa con, cháu bác ấy đến đây để hầu hạ thuốc thang, cháu cũng sớm chiều chăm sóc thêm.
- Ông ta đã làm việc với gia đình ông hơn ba mươi năm nay, mà không có của cải gì sao? Ông ta không mua được sản nghiệp nào cả sao?
- Sau khi ông cụ cháu được bổ làm tri phủ ở Cống Châu thì cụ cháu giao tất cả nhà cửa, ruộng vườn cho bác ấy coi sóc. Bác Lâu hoàn toàn trong nom việc tiền ra tiền vào, không bao giờ ông cụ cháu hỏi qua một lời. Nhưng ngoài tiền lương một năm bốn mươi lạng bạc ra, thì bác ấy không động đến một đồng tiền nhỏ. Đến lúc thu tô, bác Lâu thân hành về đến nhà tá điền, họ dọn ra hai món ăn thì bác ấy chỉ ăn có một và bảo cất đi một. Con cháu đến thăm, bác ấy chỉ cho ở một hai ngày rồi bảo về không bao giờ cho một đồng, trừ tiền đi ăn đường. Có khi bác ấy khám cả túi chúng để yên trí là chúng không lấy tiền bọn quản gia cho chúng. Khi nào thu tô, thấy thân thích bằng hữu thiếu thốn là bác ấy tìm hết cách giúp đỡ. Cụ tôi biết vậy nhưng không hề hỏi. Có người thiếu tiền không sao trả được thì bác ấy đốt văn tự. Ngày nay, mặc dầu bác ấy đã già với hai đứa con trai và bốn đứa cháu trai, nhưng bác vẫn nghèo xác, nghèo xơ. Cháu rất lấy làm áy náy về việc đó.
Cụ Vi thở dài mà rằng:
- Thật là con người quân tử đời xưa
Và hỏi:
- Ông Thận Khanh ở nhà có mạnh khỏe không?
- Anh cháu đã đi Nam Kinh.
Vừa lúc ấy, quản gia Vương Râu tay cầm một cái thiếp đỏ đứng ngoài cửa sổ không dám đi vào. Thiếu Khanh nhìn thấy hỏi:
- Ông Vương có việc gì thế? Ông cầm cái gì thế?
Vương Râu liền đến thư phòng đưa danh thiếp vào bẩm:
- Có một người họ Bão ở Nam Kinh làm nghề hát tuồng mấy năm nay đi các nơi kiếm ăn, hiện nay vừa về. Anh ta vừa qua sông đến đây hầu thăm thiếu gia.
- Nếu anh ta là con hát thì nói trong nhà ta có khách, không thể tiếp anh ta được. Trả tờ thiếp này lại cho anh ta để anh ta đi.
- Anh ta nói rằng xưa kia anh ta chịu ơn cụ phủ cho nên muốn đến đây tạ ơn thiếu gia.
- Ông cụ ta có giúp đỡ anh ta thật không?
- Thưa có ạ. Năm xưa ông Thiệu thuê ban hát ông ta ở bên kia sông, và cụ phủ rất thích anh chàng Bão Đình Tỷ này. Cụ có hứa sẽ giúp đỡ anh ta.
- Nếu vậy thì dẫn anh ta vào.

Cụ Vi nói:
- Tôi gặp anh ta trên đường cái.
Vương Râu đi ra đưa Bão Đình Tỷ vào ra vẻ rất khúm núm. Đình Tỷ nhìn thấy vườn hoa bát ngát mênh mông. Vừa đến cửa thư phòng, Bão thấy Đỗ Thiếu Khanh đang ngồi nói chuyện với một người khách. Đỗ đầu đội mũ vuông, mình mặc áo xám đi giày có ngọc châu. Da mặt hơi vàng, đôi mày xếch như lưỡi kiếm giống như bức tranh vẽ lông mày Quan Công. Vương Râu nói:
- Thiếu Gia ở đấy anh cứ đi vào.
Đình Tỷ vào, quỳ xuống đập đầu. Thiếu Khanh đỡ dậy mà rằng:
- Chúng ta là người quen cũ cả mà! Cần gì phải lễ phép thế.
Đình Tỷ đứng dậy vái chào Đỗ xong, lại vái chào cụ Vi. Đỗ mời Bão ngồi ở cái ghế thấp. Bão nói:
- Con mang ơn cụ phủ thật là sâu nặng, sau này dù thịt nát xương tan cũng khó lòng trả được. Mấy năm nay con làm ăn cùng quẫn, phải đi lưu lạc kiếm ăn không sao trở về hầu thăm Thiếu Gia được. Hôm nay mới về nhà thăm Thiếu Gia, xin Thiếu Gia tha lỗi cho.
- Vừa rồi, ông Vương nói ông thân của tôi rất thích anh và có ý muốn giúp đỡ anh. Bây giờ anh đã đến đây thì hãy ở đây để ta xem có thể giúp anh được việc gì không?
Vương Râu nói: - Tiệc đã dọn rồi, Thiếu Gia muốn ăn ở đâu? Cụ Vi nói:
- Tại sao không ăn ở đây!
Đỗ ngần ngừ một lát rồi nói:
- Còn mời một người khách nữa.
Bèn gọi một người đầy tớ ở trong thư phòng là Gia Tước.
- Gia Tước! Mày ra cửa sau mời ông Tương lại đây! Gia Tước vâng dạ đi ra. Một lát sau đưa vào một người mắt to, râu mép vàng hoe, đầu đội một cái mũ hình miếng ngói, mình mặc một cái áo rộng bằng vải, rụt rè khép nép giả dáng văn nhân. Bước vào, y thi lễ, ngồi xuống và hỏi tên cụ Vi. Cụ Vi nói tên họ mình xong quay lại hỏi:
- Ông cho biết tên họ?
- Tôi họ Trương tên tự là Tuấn Dân, mấy lâu nay là môn hạ của Đỗ Thiếu Gia. Tôi có biết một ít thuốc, Thiếu Gia cho mời tôi đến săn sóc hàng ngày cho ông Lâu. Nhân tiện, Trương Tuân Dân hỏi:
- Hôm nay ông Lâu uống thuốc như thế nào?
Đỗ Thiếu Khanh sai Gia Tước đi hỏi. Một lát sau, Gia Tước trở vào bẩm:
- Ông Lâu uống thuốc xong ngủ được một giấc, bây giờ đã tỉnh và đã thấy khoai khoái hơn một chút.
Trương Tuấn Dân lại hỏi:
- Vị này là ai?
Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Ông Bão bạn tôi ở Nam Kinh lại.
Tiệc bày ra, mọi người ngồi ăn. Cụ Vi ngồi ghế đầu, Trương Tuấn Dân ngồi đối diện, Đỗ Thiếu Khanh ngồi ghế chủ, bão Đình Tỷ ngồi ghế dưới. Rót rượu uống một lượt. Đồ nhắm đều là ở trong nhà làm ra, rất là tinh khiết. Trong các thức nhắm, có thứ giò thui treo đã ba năm nay, những con cua, mỗi con nặng nửa cân đã bóc mai để nấu canh. Mọi người ăn. Cụ Vi hỏi Trương Tuấn Dân:
- Chắc trong nghề làm thuốc của ông, ông đã đạt đến chỗ cao minh.
- Đọc thuộc sách của Vương Thủ Hoà(2) cũng không bằng có kinh nghiệm trị bệnh. Không dám nói dối gì, tôi tuy không đọc được nhiều sách, nhưng đã chữa bệnh rất nhiều. Gần đây được Thiếu Gia dạy bảo, tôi mới thấy cần phải đọc sách. Vì vậy đứa con tôi, tôi chưa dạy nó học thuốc vội, hãy đón một ông đồ dạy văn chương cho nó đã. Tôi có đưa những bài văn nó viết cho Thiếu Gia xem, Thiếu Gia cũng có phê vào bài. Tôi về nhà học thuộc những lời phê ấy nên cũng biết đôi chút về văn chương. Sau này, hai năm nữa, tôi sẽ cho con tôi đi thi ở huyện kiếm hai bữa bánh. Khi treo biển nó sẽ đồng thời là một nhà nho kiêm thầy thuốc.

Cụ Vi nghe nói vậy, cười khanh khách, Vương Râu lại cầm một tờ danh thiếp vào bẩm:
- Ngày mai ông Uông chủ hiệu buôn muối ở cửa Bắc ăn sinh nhật. Ông ta có mời quan huyện đến và mời Thiếu Gia đến để tiếp quan huyện. Ông ta mong mỏi Thiếu Gia thế nào cũng đến cho.
Đỗ Thiếu Khanh nói: - Nói với ông ta rằng ta ở nhà có khách không đến dự tiệc được. Cái lão kia thật buồn cười! Nếu hắn muốn làm việc này cho rầm rộ thì cứ việc mời những người đỗ cử nhân, tiến sĩ trong huyện để họ tiếp quan huyện! Ta có thì giờ đâu mà tiếp khách cho hắn.
Vương Râu vâng dạ đi ra. Đỗ nói với cụ Vi: - Bác tửu lượng rất cao. Trước đây bác thường ngồi uống rượu với thầy cháu đến nửa đêm. Hôm nay, xin mời bác uống cho thật say.
- Phải! Này anh! Tôi có một câu chuyện, không tiện nói ra. Hôm nay các thức nhắm của anh đều ngon cả nhưng rượu này mua ở ngoài chợ nên chỉ ngon một phần thôi. Anh có một vò rượu trong nhà ít nhất đã cất được tám chín năm. Tôi chắc hiện nay đang còn.
- Cháu không biết chuyện đó.
- Anh không biết được đâu! Năm ông cụ của anh đi làm quan ở Giang Tây, tôi tiễn cụ đến tận thuyền, cụ nói với tôi: “Tôi có chôn một vò rượu ở trong nhà. Khi nào hết hạn làm quan trở về nhà, chúng ta sẽ cùng uống với nhau một trận ra trò”. Vì vậy cho nên tôi nhớ mãi đến nay. Tại sao anh không hỏi người nhà xem.
Trương Tuấn Dân cười mà rằng:
- Câu chuyện này cố nhiên Thiếu Gia không thể biết được!
Đỗ Thiếu Khanh đi vào hỏi người nhà. Cụ Vi nói:
- Đỗ Thiếu Khanh tuy còn trẻ nhưng ở trong chúng ta, ông thực là một con người hào kiệt.
Trương nói:
- Thiếu gia là người hết sức tốt, nhưng có một điều ông ta quá rộng rãi bất kỳ ai xin ông ta, ông ta cũng dốc bạc ra mà cho.
Bão Đình Tỷ nói:
- Trong đời con, chưa bao giờ con thấy một người rộng rãi hào hiệp như Đỗ Thiếu Gia.
Thiếu Khanh đi vào nhà trong hỏi vợ xem có biết gì về vò rượu ấy không. Nhưng người vợ nói không biết. Hỏi tất cả những người đầy tớ trai, đầy tớ gái cũng không ai biết. Cuối cùng, hỏi đến vú già là bà Thiệu thì người vú già nhớ lại và nói:
- Quả có một vò rượu như thế thực! Năm cụ nhà ta làm tri phủ, có cất một vò rượu và đem chôn ở cái phòng nhỏ đằng sau cái nhà thứ bảy. Cụ nói là để dành cho cụ Vi uống. Rượu nấu gồm hai đấu bếp, hai mươi cân men lại thêm hai mươi cân tinh rượu. Tuyệt nhiên không có một giọt nước lã nào. Nay đào lên thì vừa đúng chín năm bảy tháng. Rượu này uống say chết người. Nếu lấy ra xin Thiếu Gia đừng uống.
Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Ta biết rồi.
Đỗ cùng hai người đầy tớ đi vào bảo người vú già lấy chìa khóa mở cửa. Mấy người đào hũ rượu lên và đem vào thư phòng. Thiếu Khanh gọi:
- Bác ơi! Tìm được vò rượu ấy rồi.
Cụ Vi và hai người khách chạy lại xem và nói:
- Đúng

Hũ rượu được mở ra, họ múc ra một chén, thấy rượu đặc như nếp, quánh lên ở trong chén, mùi hương sặc lên mũi. Cụ Vi nói:
- Tốt lắm! Rượu này không phải uống như các thứ rượu khác đâu! Anh cho người ra ngoài phố mua mười cân rượu đem về đây trộn lẫn với nó rồi mới uống được. Hôm nay chưa nên uống, hãy để đấy. Đến mai chúng ta sẽ uống suốt một ngày. Hai vị sẽ cùng uống với chúng ta.
Trương nói:
- Cố nhiên là tôi đến tiếp các vị.
Bão Đình Tỷ nói:
- Con là người như thế nào mà lại được uống thứ rượu cụ cố để lại! Ngày mai là ngày sung sướng nhất trong đời con!
Một lát sau, Gia Tước được lệnh cầm đèn lồng tiễn Trương Tuấn Dân về nhà. Đinh Tỷ ngủ lại ở thư phòng với cụ Vi. Thiếu Khanh đợi cho cụ Vi ngủ say rồi mới đi nghỉ.
Sáng hôm sau, Bão dậy sớm đến phòng Vương Râu. Gia Tước cùng ngồi ở đấy với một người đầy tớ nữa. Vương Râu hỏi Gia Tước:
- Cụ Vi đã dậy chưa?
Gia Tước đáp:
- Cụ đã dậy và đang rửa mặt. Vương Râu lại hỏi người đầy tớ kia:
- Thiếu Gia đã dậy chưa?
- Thiếu Gia đã dậy từ lâu, hiện đang ở trong phòng ông lâu xem sắc thuốc.
Vương Râu nói:
- Ông chủ của chúng ta thật là một người kỳ quặc! Ông Lâu chẳng qua chỉ là người đày tớ của cụ phủ ngày trước mà thôi. Ông ta đau ốm thì chỉ cần cho vài lạng bạc rồi cho về nhà. Thế là xong! Chứ giữ ông ta ở đây, đối đãi như ông nội, chầu chực từ sáng đến tối như thế để làm gì?
- Người đầy tớ nói:
- Ông Vương! Tại sao ông nói như vậy? Khi chúng tôi nấu xong cháo hay đồ ăn cho ông Lâu ăn, con cháu ông Lâu xem Thiếu Gia vẫn cho là chưa đủ nên phải thân hành xem, rồi mới đưa cho ông Lâu ăn. Hộp nhân sâm ở trong phòng bà chủ là do bà chủ tự tay bào chế lấy, còn thuốc thì chẳng nói làm gì. Sáng chiều, nếu ông chủ không thân hành mang sâm đến, thì bà chủ lại tự tay mang đến cho ông Lâu. Nếu ông chủ nghe ông nói như vậy thì ông mắng cho một trận đấy!

Vừa lúc ấy người giữ cổng bước vào:
- Ông Vương! Ông mau mau vào báo rằng ông Tang đã đến, ông ta đang ngồi ở ngoài nhà khách đợi Thiếu Gia.
Vương Râu nói với người đầy tớ:
- Anh vào mà tìm Thiếu Gia ở trong phòng của ông Lâu. Tôi không vào đó để hỏi thăm sức khỏe ông ta đâu.
Đình Tỷ nói:
- Như vậy càng tỏ rằng Thiếu Gia là người nhân hậu!
Người đày tớ vào mời Thiếu Khanh ra gặp Tang Tang vái chào, ngồi xuống. Thiếu Khanh nói:
- Anh Ba! Đã lâu tôi không gặp anh. Hội thơ văn của anh độ này có gì vui không?
- Tôi nghe người giữ cổng nói anh có một người khách ở xa lại đây. Thận Khanh ở Nam Kinh vui thú quá quên cả về nhà.
- Bác Vi ở Ô Y hiện nay ở đây. Hôm nay tôi đang làm một bữa tiệc để thết đãi bác ấy. Thế nào anh cũng phải ở lại đây với chúng tôi. Chúng ta hãy cùng vào thư phòng đi.
- Hãy ngồi xuống đã! Tôi có một việc muốn bàn với anh. Quan phụ mẫu ở huyện là thầy học của tôi. Ông ta nhiều lần nói với tôi rằng ông ta rất cảm phục tài năng của anh. Khi nào anh cùng tôi lên thăm ông ta đi!
- Cái trò đi lạy quan huyện làm thầy thì tôi để phần anh. Không cần nói thời ông cố của tôi và thời ông nội của tôi làm gì. Nói ngay thời cha tôi thôi. Biết bao ông huyện đã đến đây. Thật ra, nếu ông ta ngưỡng mộ tài năng của tôi, tại sao ông ta không đến thăm tôi trước, mà lại bắt tôi phải đến thăm ông ta. Vì tôi không may đỗ tú tài nên hễ gặp quan huyện là phải gọi ông ta là thầy phải không? Ông Vương kia là đỗ tiến sĩ hủ lậu, ông ta muốn gọi tôi làm thầy tôi còn chưa chịu nhận nữa là. Bây giờ tôi đến thăm ông ta để làm cái gì? Vì vậy nên hôm nay nhà họ Uông buôn muối cho mời tôi đến tiếp quan huyện thì tôi từ chối ngay.
- Chính vì vậy cho nên hôm nay tôi mới đến đây. Hôm qua nhà họ Uông có nói với quan huyện Vương rằng ông ta mời anh đến tiếp cho nên quan huyện mới chịu đến nhà, cốt để gặp anh. Bây giờ nếu anh không đến thì người ta sẽ cụt hứng. Vả chăng, khách khứa hiện nay hãy còn ở đây cả. Anh cứ đi hôm nay, mai về tiếp cũng được chứ sao! Hay là, tôi sẽ tiếp khách thay anh để cho anh đến nhà ông Uông.
- Thôi anh Ba! Anh không phải nói làm gì cho mệt. Người thầy của anh không phải là kẻ yêu người hiền tài đâu. Ông ta chỉ muốn có người xin làm học trò để nhận lễ vật mà thôi. Ông ta muốn nhận tôi là học trò ư? Ông ta mê ngủ sao? Dầu sao hôm nay tôi cũng có khách. Tôi đã nấu bảy cân thịt vịt, đã đào được một vò rượu cất chín năm rưỡi nay. Nhà họ Uông không thể có cái gì ngon như thế để đãi tôi đâu! Không nói dài lời, anh và tôi vào thư phòng đi.

Đỗ kéo Tang đi vào. Tang nói: - Khoan đã! Làm cái gì mà rối lên thế! Tôi chưa bao giờ gặp ông Vi cả. Để tôi viết một cái danh thiếp chứ.
- Tốt lắm! Đỗ bảo đầy tớ mang nghiên bút và một cái thiếp đến. Tang viết: “Bạn học và thân thích của Đỗ Thiếu Khanh, Tang Đồ”. Tang bảo đầy tớ đưa danh thiếp vào trước. Đỗ Thiếu Khanh đi vào. Cụ vi ra ngoài cửa chào hai người. Mọi người ngồi xuống ghế! Cụ Vi hỏi Tang:
- Ông cho biết tên tự.
Đỗ Thiếu Khanh nói:
Anh ấy tự là Liễu Trai, là bạn học của cháu, lại là bạn thân của anh Thận Khanh.
Cụ Vi nói:
- Tôi đã nghe tiếng ông từ lâu.
Tang nói:
- Tôi ngưỡng mộ ngài đã lâu nay được gặp thật là may mắn.
Tang biết Trương Tuấn Dân, nhưng khi nhìn thấy Bão Đình Tỷ thì hỏi:
- Vị này là ai?
Bão nói:
- Tôi họ Bão. Tôi vừa ở Nam Kinh đến đây.
- Ông ở Nam Kinh đến, vậy ông có biết ông Thận Khanh ở phủ này không?
- Tôi có được gặp mặt ông Mười Bảy.
Ăn cơm xong, cụ Vi gọi mang vò rượu ra, thêm vào đấy mười cân rượu mới mua, bảo người nhà lấy than hồng ra xếp thành chồng ở bên cạnh cây quế, đặt vò rượu lên trên. Một lát sau rượu bắt đầu nóng. Trương Tuấn Dân cùng người nhà tháo sáu cánh cửa sổ ra, đưa cái bàn đặt dưới mái hiên. Mọi người cùng ngồi, lại có đồ nhắm mới mang ra nữa. Thiếu Khanh bảo lấy ra một cái chén bằng vàng và bốn cái chén bằng ngọc rót đầy rượu. Cụ Vi nâng chén vàng lên, cụ uống xong một chén lại khen:
- Ngon tuyệt!
Họ uống mãi, Vương Râu đưa bốn người vào mang một cái hòm lại. Thiếu Khanh nói:
- Cái gì thế.
Vương Râu nói:
- Đây là cái hòm quần áo của Thiếu Gia, cho phu nhân và cậu cả. Áo quần mùa thu mới may xong, tôi đem đến cho Thiếu Gia xem qua. Tiền may đã trả rồi.
Đỗ Thiếu Khanh nói:
- Để cái hòm đấy đợi ta còn uống rượu xong đã.
Cái hòm vừa đặt xuống đất, thì người thợ may đã đi vào, Vương Râu nói:
- Anh Dương là thợ may có lời muốn thưa với Thiếu Gia!
- Anh ta muốn gì?
Đỗ vừa đứng dậy thì người thợ may bước vào sân trong, quỳ xuống đập đầu rống lên. Đỗ Thiếu Khanh kinh hoảng nói:
- Anh Dương! Anh làm cái gì thế?
- Con làm việc mấy hôm nay ở trong nhà Thiếu Gia. Sáng nay, con đem tiền công may về nhà, không ngờ mới được một lát thì mẹ con bị bệnh cấp chứng mà chết. Khi con đem tiền công về nhà, con không ngờ xảy ra việc như thế, nên bao nhiêu tiền công đều đã dùng để trả hàng gạo và hàng củi hết. Hiện nay con không có tiền để mua quan tài, áo quần cho mẹ con nữa. Con chỉ còn một cách là đến đây nhờ Thiếu Gia cho con vay hai lạng, sau này con sẽ tính vào tiền công trừ dần.
- Anh cần bao nhiêu tiền?
- Con nhà nghèo không dám mong nhiều, chỉ từ bốn đến sáu lạng là nhiều lắm. Con sẽ làm để lấy tiền công bù vào.
Đỗ buồn rầu nói:
- Ta không đòi anh trả lại đâu. Anh tuy làm nghề hèn mọn nhưng cái việc mẹ anh chết là việc lớn không thể làm qua loa được, kẻo sau này hối hận suốt đời. Mấy lạng bạc có là bao nhiêu. Anh phải mua một cái quan tài ít nhất là mười sáu lạng. Lại còn đồ tang phục và tiền tiêu vặt nữa tất cả cũng phải đến hai mươi lạng. Hiện nay trong nhà ta không có đồng nào. Nhưng thôi! Cái hòm áo quần này có thể đem cầm đi lấy hai mươi lạng bạc. Vương Râu! Anh đưa cái hòm ấy cho anh Dương. Đem cầm được bao nhiêu tiền thì cho anh ta.

Nhưng lại nói:
- Anh Dương, anh không nên nhớ việc này làm gì. Mong anh quên đi cho. Anh có phải lấy tiền của ta đem đi đánh bạc và uống rượu đâu! Việc mẹ mất là việc lớn. Người nào mà chẳng có mẹ, cho nên ta phải giúp anh.
Người thợ may họ Dương cùng Vương Râu khiêng hòm áo quần ra, vừa khiêng vừa khóc. Đỗ Thiếu Khanh quay lại ngồi xuống ghế. Cụ Vi nói:
- Quả là một việc ít có.
Bão Đình Tỷ lè lưỡi nói:
- A di đà Phật! Trong thiên hạ lại có con người tốt như thế sao?
Họ ăn tiệc uống rượu suốt ngày. Tang tửu lượng kém cho nên uống đến chiều đã nôn, phải vực về nhà. Cụ Vi và những người khác uống mãi đến canh ba, cạn hết cả vò rượu.
Chỉ nhân phen này khiến cho:
Trọng người nhẹ của, một lòng giúp lắm bạn bè;
Đất nguyệt trời hoa, bốn bề lại nghe hào kiệt.
Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

-----------------
(1) Tất cả hồi hai mươi chín đến đây miêu tả Đỗ Thận Khanh, một nhà nho giàu có, có tài, đẹp trai nhưng rất tầm thường. Thận Khanh chịu mất tiền để mua cái danh là hào hoa, chứ không chịu mất tiền để giúp đỡ người khác. Đoạn nhận xét về Thiếu Khanh càng chứng tỏ Thân Khanh là một người tục khách.
(2) Vương Thủ Hòa là một danh y đời Tấn có viết quyển Mạch kinh là sách các thầy thuốc đều phải đọc.

 

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 171
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com