Chương 5b
Nói rồi nó bỏ múi quýt vào miệng ăn. Thanh-Nguyên tiếp:
- Múi quýt của anh để hóa ra giòng nước trong, có thể rửa hết hôi hám. Võ công ở dơ e anh vô địch.
Tự-Mai nói với bà Phương:
- Múi quýt con biếu cô, chúc cô đẻ ra một đứa như con, cho bố vui lòng.
Bà Phương cầm múi quýt liệng đi, nói:
- Ăn múi quýt rồi đẻ ra thứ mất dạy, thà không ăn.
Múi quýt chưa rơi xuống đất, Tự-Mai đã vung tay một cái, múi quýt lại bay ngược trở lên. Nó cười xòa:
- Cô không ăn thì con ăn.
Đại hiệp Tự-An là loại anh hùng. Thấy rõ ràng con mình chúc may cho vợ. Tuy chưa chắc có may thực hay không, nhưng cũng phát xuất từ lòng dạ chân thật, mà vợ không những không nhận, còn liệng đi, với lời chửi bới. Ông đưa mắt nghiêm khắc nhìn vợ. Đến đó xe đỗ trước nhà em gái ông.
Em gái ông cùng các cháu chạy ra đón mừng, chúc tết. Vào nhà, ông ngồi uống nước, anh em, cô cháu hàn huyên vui vẻ. Ông nói:
- Cô Phương-Châu này. Ban nãy Tự-Mai nó được hòa thượng cho lộc Phật, mà nó quên không để phần cô đấy.
Bà Phương-Châu là em út trong gia đình Tự-An. Võ công tuy cao, nhưng tính tình bà cực kỳ ôn nhu, vì vậy Tự-Mai tuy nhỏ hơn bà không làm bao, nhưng từ khi mẹ chết, nó gọi cô bằng mẹ. Bà Phương-Châu thương yêu cháu hơn con đẻ. Bà bẹo má nó:
- Thằng con hư, quên cô rồi hẳn?
Tự-Mai móc trong túi ra một quả quýt khác:
- Quên thế nào được. Con là xương, là thịt, mà máu của cô, làm sao quên được cô. Con xin hòa thượng riêng một trái cho cô.
Nói rồi nó bóc quýt đút vào miệng bà. Nó nói:
- Lộc Phật, cô ăn vào, thân thể khẻ mạnh, tâm tính thư thái. Năm nay sinh em trai, giống...
Nó vỗ ngực:
- Giống con này này.
Mụ Phương xen vào:
- Giống cái đồ mất dạy thì đẻ làm gì cho đau l..
Tự-Mai vẫn không giận. Nó tiếp:
- Đẻ được thằng con như Tự-Mai này, ắt vui nhà vui cửa, nhưng nhất định có hiếu. Đi chùa có quýt đem về chúc cô.
Từ lúc vào nhà, thấy bà chị dâu mặt hằm hằm, bà Phương-Châu không hiểu cái gì đã xẩy ra. Bây giờ thấy bà ta nói lời thô tục, ác độc, bà kéo Thanh-Nguyên vào nhà hỏi thăm tự sự. Thanh-Nguyên cứ thực trình bày. Bà Phương-Châu trở ra nói nhỏ nhẹ với chị dâu:
- Dù cháu nó có lầm lỗi gì chăng nữa, bố nó cũng là một người nức tiếng thiên hạ, sẽ uốn nắn nó. Bố nó không có thời giờ dạy, cô nó dạy nó, chú nó dạy nó. Chị chửi nó mất dạy như vậy, có khác gì chị chửi cả nhà này không?
- Nó mất dạy, tôi bảo nó mất dạy, không liên quan gì đến cô.
- Chị nói lạ! Tôi là cô của cháu, thay anh, thay chị dạy cháu, mà chị bảo không liên quan gì sao? Chị nói như vậy còn đâu đạo lý nữa?
- Nó mất dạy, tôi muốn chửi bới mặc tôi. Cô không có quyền xía vào. Tôi chửi nó mà cô cũng không cho sao?
Tự-Mai chạy lại phía sau lưng, ôm lấy cổ cô, nó nói:
- Cô ơi để con kể cho cô nghe một câu truyện. Chứ cô tranh luận với cô Phương nào có ích gì?
Không đợi cô có đồng ý hay không, nó kể:
Ngày xửa ngày xưa, vào đời vua Hùng mới lập quốc, thú vật đều biết nói tiếng người. Bấy giờ loài chồn hôi hám hơn bây giờ nhiều. Một ngày kia có bầy chồn chui ra khỏi hang đi dạo trong rừng đầy hoa. Mấy con nai trông thấy bảo nhau : Chạy mau chồn hôi kìa.. Họ nhà chồn kinh ngạc hỏi nai : Chúng ta đâu có hôi, mà mi bảo hôi?. Thế rồi cãi qua cãi lại. Lúc bấy giờ có công chúa Mỵ-Nương đi qua thấy vậy mới can thiệp : Chồn không hôi với chồn, nhưng hôi với nai.
Thanh-Mai, Thanh-Nguyên biết Tự-Mai nói bóng bà dì ghẻ, cả hai cười ồ lên. Nhưng mụ Phương thì không hiểu gì cả. Thấy chân tướng bà chị dâu với các cháu, Phương-Châu rõ phần nào những gì đã diễn ra trong gia đình anh mình. Bà nghĩ :Thì ra chị dâu mình là một khối đất bùn.
Bắt đầu từ đấy, mọi người trong gia đình nhìn mụ với con mắt khinh khiến. Tự-An coi như không có vợ. Ông ngủ riêng một phòng. Bất đắc dĩ lắm, ông mới nói với vợ một câu. Ông không cho mụ quyền gì nữa. Ngoài ngày ăn uống ba bữa. Vì vậy người trong trang cũng coi như không có chủ mẫu.
Khi vợ chết, đại hiệp Tự-An tục huyền với mụ Phương, khiến trong nhà cũng như ngoài trang, người người đều kinh ngạc. Vì với danh tiếng địa vị của ông, ông có thể cưới được cả công chúa, quận chúa. Biết bao nhiêu thiếu nữ nghe đến tên ông đều ước mơ. Thế mà ông cưới mụ Phương, một người con gái quá lứa, vừa xấu, vừa dốt vừa điêu ngoa. Không ai hiểu ra sao nữa.
Đúng theo phong tục từ thời vua Hùng để lại, anh em Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh đến trang, ông sẽ truyền cho họ vào hậu đường chào chủ mẫu, rồi bà Phương điều khiển gia nhân thù tạc, lo chỗ ăn, chỗ ở cho khách. Nhưng biết vợ vốn điêu ngoa, lại đần độn, Tự-An trao cho con gái cáng đáng hết.
Thanh-Mai đến hậu đường. Mụ Phương đang ngồi chải tóc, chờ nàng. Mụ hỏi:
- Nghe Thanh-Mai mới đi xa về phải không? Về cả nửa tháng mà cô không biết gì cả. Nghe nói trong chuyến đi này Thanh-Mai gặp con trai Lý Công-Uẩn. Truyện ra sao?
Nghe giọng nói sách mé của dì ghẻ, Thanh-Mai cau mày bực mình. Nàng nín thinh không trả lời. Song bản chất ngu tối, mụ Phương tiếp:
- Cô lại nghe nói Bình-nam vương Triệu Thành thấy Thanh-Mai, ngài chết mê chết mệt. Ngài muốn tuyển Thanh-Mai làm vương phi phải không?
Thanh-Mai vẫn im lặng. Mụ Phương tiếp:
- Cô sẽ nói với bố nhận lời cầu hôn của Bình-nam vương. Nhà mình bỗng nhiên có ông rể uy quyền nhất thiên hạ, chỉ thua hoàng đế có một bậc.
Thanh-Mai hỏi ngược lại:
- Tin đó ai nói cho cô biết?
Mụ Phương cười:
- Truyện lớn như vậy, tất nhiên phải có nhiều người biết chứ! Thanh-Mai cứ yên tâm, Bình-nam vương sẽ về Thăng-long yêu cầu Lý Công-Uẩn đứng ra mai mối đấy.
Thanh-Mai cười nhạt:
- Họ Trần nhà này đời đời thù ghét bọn Tống. Đời nào cháu lại đem thân đi làm một thứ Mỵ-Châu?
Mu Phương cười, hai lưỡng quyền của mụ dô ra, da mặt sần sùi xếp lại thành từng lớp giống da cam sành:
- Cô sẽ nói với bố gả Thanh cho Bình-nam vương chứ quyết không cho Thanh gần tên Lý Long-Bồ.
Thanh-Mai lườm bà dì ghẻ, nghĩ thầm:
- Tại sao mụ không tự biết mình? Trong nhà này từ đệ tử cho đến tôi tớ, mụ chẳng có quyền chi hết. Hễ mụ nói điều gì đều bị bố gạt đi. Bây giờ mụ lại muốn xen vào truyện mình?
Nàng bực mình, im lặng rồi bỏ đi, quên cả chào bà dì ghẻ ngu tối. Thấy trời đã ngả bóng, sắp đến giờ cơm tối, nàng trở về Thủy-các. Chiều nay, có sự hiện diện của Thiên-trường ngũ kiệt, nên ăn cơm ở Thủy-các.
Theo tục lệ của phái Đông-a, mỗi tháng, các vị tôn sư, đại đệ tử họp nhau một lần tại Thủy-các. Sau đó ăn cơm chung. Thủy-các của trang Thiên-trường là một căn nhà gỗ hai tầng làm trên gò đất giữa cái hồ sen lớn. Từ bờ muốn vào Thủy-các phải leo qua cây cầu đá bắc từ bờ tới đảo. Đúng ra cuộc họp môn phái, người ngoài không được dự. Nhưng đám anh em Thiệu-Thái, Mỹ-Linh là bạn của Thanh-Mai, Tự-Mai, đã được đại hiệp Tự-An chỉ điểm cho hơn nửa tháng qua, vì vậy, ông xin với các sư đệ cho bọn trẻ tham dự.
Đúng giờ họp, ba hồi trốnh đánh. Các đệ tự theo thứ tự vượt qua cầu vào Thủy-các. Mỹ-Linh hỏi Tự-Mai:
- Này sư đệ! Thông thường những buổi họp như thế này khác với buổi họp hồi trưa như thế nào?
- Khác nhiều lắm. Khi khách tới viếng trang thì họp ở đại sảnh đường, để mọi người chào đón khách. Còn họp môn phái, chỉ các đại tôn sư, cùng đệ tử thành danh mới được dự. Họp môn phái để bàn định các vấn quan trọng. Hồi cách đây sáu tháng, khoảng trên mười người được mời, không hiểu trong thời gian tiểu đệ vắng mặt, có gì thay đổi không?
Các đại đệ tử của Thiên-trường ngũ kiệt tất cả mười người. Mỗi người đều có ghế ngồi, ghi tên sẵn. Chị em Thanh-Mai không được thành đại đệ tử, nhưng được dự để bưng trà, rót rượu, cùng sai vặt. Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh, Tôn Đản cùng Đỗ Lệ-Thanh được mời vào ghế dành cho quan khách.
Ba tiếng trống báo hiệu. Thiên-trường ngũ kiệt vào phòng hội. Mọi người dứng dậy hành lễ. Trần Tự-An lên tiếng:
- Các vị sư đệ. Phiên họp tháng này, có nhiều vấn đề quan trọng cần bàn. Một, nghe Thanh-Mai trình bày về diễn biến tại Cửu-chân trong sáu tháng qua. Hai, chúng ta phải có hành động thế nào cho phù hợp với tình thế hiện tại. Vì những diễn biến tại Cửu-chân còn có mấy thiếu niên, bạn kết nghiã của Thanh-Mai, Tự-Mai, nên tôi mời họ cùng tham dự.
Ông vẫy tay gọi Thanh-Mai:
- Con hãy đem tất cả những gì đã xẩy ra trong chuyến đi vừa rồi thuật lại, không thiếu một chi tiết nào.
Thanh-Mai kính cẩn hành lễ, rồi kể lại những gì xẩy ra từ lúc nàng cùng sư phụ gặp bọn Tôn Đản. Khi nàng kể đến lúc khởi diễn lễ tế Lệ-hải bà vương. Vũ-Anh ngắt:
- Con ngừng lại chỗ này. Để chúng ta bàn truyện xem sao đã.
Ông đặt vấn đề:
- Bọn gian làm tế tác cho Tống ở Cửu-chân hiện chỉ mới biết có ĐàmToái-Trạng, Đàm An-Hòa, Nguyễn Khánh và Nguyên-Hạnh. Bọn thiếu niên Hồng-hương một lòng với đất nước, mà bị Nguyên-Hạnh đưa vào đường phản quốc không hay. Tên Tống bịt mặt, giả tấn công Tung-sơn tam kiệt không biết là người Hán hay người Việt?
Tự-Mai đáp:
- Thưa sư thúc theo cháu nghĩ nó là người Hán, vì chiêu số cũng như võ công rất lạ. Cháu chưa từng thấy qua.
Phạm Hào bảo Tự-Mai:
- Cháu thử diễn lại những chiêu y đã xử dụng cho bố với các chú xem nào?
Tự-Mai kình cẩn bái tổ rồi đánh liền ba mươi chiêu. Khi nó đánh chiêu thứ nhất Đỗ Lệ-Thanh đã bật lên tiếng kêu kinh ngạc. Đến chiêu thứ ba mươi bẩy, Trần Kiệt ngoắc tay:
- Được rồi.
Tự-Mai ngừng lại. Nó bái tổ rồi về chỗ. Phạm Hào quay lại hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân, phải chăng những chiêu thức vừa rồi thuộc võ công của bang Nhật-hồ?
Đỗ Lệ-Thanh kính cẩn đáp:
- Vâng, những chiêu thức ấy không sai chút nào cả. Trong đó có mấy chiêu đã thất truyền, chính Nguyên-Hạnh với tiểu tỳ cũng không biết. Vậy trong đám người làm gian tế cho Triệu Thành ắt có người của bang Nhật-hồ Trung-quốc. Thảng hoặc thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Võ công của y rất cao cường. Hiện chưa thấy y xuất hiện.
Vũ Anh gật đầu:
- Theo cung từ của Quách Quỳ, bọn Triệu Thành bắt liên lạc được với hai người thuộc bang Nhật-Hồ Trung-Quốc, ba trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Hai người Trung-quốc, Ý muốn nói Nguyên-Hạnh với phu nhân. Còn ba trưởng lão Hồng-thiết giáo. Có thể tên bịt mặt nằm trong số ba người đó.
Trần Kiệt nhìn Thanh-Mai mỉm cười:
- Cháu cũng như Tự-Mai đều bị mắc mưu bọn Triệu Thành rồi. Cái tên bịt mặt đó, vốn nghười phái Thiếu-Lâm. Y giả dùng võ công Hồng-thiết giáo, hầu gieo tai vạ cho giáo phái này. Điạ vị tên bịt mặt rất lớn. Mưu trí của y thực siêu phàm. Trong lúc y diễn kịch, chú theo dõi, biết hành tung của y. Chú đã lấy trộm cả tập thơ của y. Sau này chú cho cháu thi tập ấy. Để khi cháu gặp y, đưa ra, làm cho y chết khiếp chơi. Đúng ra chú giết y ngay hôm ấy. Song y vốn có chút tiếng tăm về văn học, xử sự chính nhân quân tử. Vì vậy chú để y sống, ắt có lợi cho Đại-Việt ta.
Thanh-Mai lại tường thuật những gì xẩy ra trong lễ tế Lệ-hải bà vương cho đến khi nàng cùng Bảo-Hòa, Mỹ-Linh lên chùa Sơn-tĩnh, rồi thám thính đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang, bị Tung-sơn tam kiệt bắt giam trong hầm đá.
Trần Kiệt hỏi Tôn Đản:
- Cháu Đản. Bố cháu khám phá ra hầm đá chép bí quyết võ công thời Lĩnh-nam hay những đời trước khám phá ra, rồi lưu truyền lại cho bố cháu?
Tôn Đản thẹn thùng đáp:
- Chính cháu khám phá ra rồi dẫn bố cháu vào.
Hoàng Hùng gật đầu:
- Bố cháu hành sự như vậy là phải. Có điều chúng ta cần phải tìm hiểu xem tại sao Triệu Thành đã biết nơi cất di thư, mà y còn tốn công phái nhiều cao thủ, rồi chính y đi tìm làm gì?
Bảo-Hòa hướng vào Tự-An:
- Cháu thử giải đoán, nếu có sai, xin sư bá miễn tội.
Tự-An cười khoan thứ:
- Đây là việc quốc gia, bất cứ ai có ý kiến, cũng nên phát biểu.
Bảo-Hòa đứng lên nói:
- Tống triều muốn được bộ Dụng binh yếu chỉ nên đã phái nhiều đoàn sang dò thám. Họ đã mua chuộc được bọn Đàm Toái-Trạng, Nguyễn Khánh làm gian tế cho họ. Gần đây thêm đòan thứ nhì là bọn Tung-sơn tam kiệt. Bọn Tung-sơn tam kiệt lên đường rồi, Đinh Tòan mới xuất hiện. Đinh trình tấm áo có ghi chép bản đồ cho Triệu Thành xem. Ông ta hứa dâng di thư, đổi lấy ngôi Giao-chỉ quận vương. Triều Tống đã hứa với ông. Vì vậy ông mới dẫn đường cho bọn Triệu Thành. Thành biết chắc chắn có di thư vì vậy y mới đích thân lên đường cùng với Minh-Thiên, Vương Duy-Chính.
Mọi người cùng gật đầu, công nhận lý luận của Bảo-Hòa đúng. Nàng tiếp:
- Bọn Triệu Thành sang đến nơi, chúng liên lạc được với bọn Tung-sơn tam kiệt. Nhân xẩy ra vụ Tôn Đản ném bùn Quách Qùi, chúng bàn nhau gây ra vụ ăn cướp tại đền Tương-Liệt đại vương, làm như chúng không biết gì về di thư. Như vậy chúng vẫn chưa yên tâm. Chúng còn cố xuất hiện trong cuộc tế Lệ-hải bà vương, rồi lên đường đi Chiêm. Chúng biết dù đã có Đàm Toái-Trạng, Nguyễn Khánh làm gian tế, chúng cũng khó che mắt Khu-mật viện Đại-Việt. Vì vậy một mặt chúng lên đường đi Chiêm-thành, để lỡ có bị theo dõi, cũng không sao. Trong khi đó chúng bí mật cho Tung-sơn tam kiệt cùng Đinh Toàn đi đào di thư.
Mọi người vỗ tay hoan hô. Tự-An gật đầu:
- Cháu giải đóan chính xác qúa. Như vậy ông Tôn Trung-Luận không biết nơi cất di thư. Vì ông không có căn bản võ thuật, hơn nữa không biết đọc chữ Khoa-đẩu, thành ra ông luyện mà không thành.
Trần Kiệt nghe kể về hành tung nhà sư trợ giúp Bảo-Hoà, rồi đêm lẻn vào hầm đá, xông thuốc mê, chép hết di thư mang đi. Ông hỏi Bảo-Hòa:
- Cháu có chằc nhà sư đó là người Việt không?
- Chắc một trăm phần trăm.
- Như vậy bộ Võ-kinh lại lưu truyền qua nhà sư trẻ đó.
Ông quay lại Thanh-Mai:
- Con thuật tiếp đi.
Thanh-Mai thuật đến những việc xẩy ra tại Vạn-thảo sơn trang, cùng việc trở lại chùa Sơn-tĩnh dò thám Nguyên-Hạnh. Khi nàng thuật đến Ngũ-độc chưởng, mặt Tự-An nhăn lại.
Ông hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Hai mươi năm trước giáo chúng Hồng-thiết giáo công bố tin Nhật-Hồ lão nhân qua đời, có để lại một di chúc. Khi Nhật-Hồ lão nhân tạ thế, chỉ ba trong mười đại đệ tử của ông có mặt mà thôi. Ba người đó tên Vũ Nhất-Trụ, Lê Ba, và Hoàng Văn. Chúng xây lăng rất lớn thờ lão, bắt dân chúng giáo đồ cúng hàng ngày. Nhưng bẩy để tử khác lại không tin sư phụ qua đời. Có người định đào mồ ông lên xem có đúng không. Nhưng Lê Ba đưa di chúc ra, trong đó có đoạn nói khi lão chết, chỉ Nhất-Trụ, Lê Ba, Hoàng Văn được khâm niệm lão. Cho đến nay, một số đông giáo chúng không tin lão chết. Theo phu nhân, liệu Nhật-hồ lão nhân có còn sống hay không?
- Tiểu tỳ nghĩ, ông không thể sống đến ngày nay. Tuy vậy việc quý phu nhân cũng như phu nhân của Hồng-Sơn đại phu cùng Vương-phi Khai-thiên vương chết về độc chưởng này. Có thể ông ta chết rồi, đệ tử ông ta gây ra tội lỗi mà thôi. Dường như họ mưu đồ gì lớn lắm, nên mới ra tay kiềm chế toàn những phu nhân có địa vị tối cao. Biết đâu các vị phu nhân của các phái khác cùng vương phi, hoàng hậu chẳng bị kiềm chế hết rồi. Nhưng họ bí mật tuân lệnh của Hồng-thiết giáo.
Bà tiếp:
- Như đại hiệp nói, lão có mười đại đệ tử, vậy chúng là những ai?
- Hành tung của bọn Hồng-thiết giáo kỳ bí vô cùng. Sở dĩ người ta biết tên ba trưởnglão Vũ Nhất-Trụ, Hoàng Văn, Lê Ba, vì căn cứ vào di chúc. Còn mặt mũi chúng ra sao nào ai biết? Chỉ nghe phong thanh, chúng ẩn thân dưới nhiều tên khác.
Hoàng Hùng hỏi:
- Cứ như phu nhân, hiện thời với công lực của Bố-Đại hòa thượng, cũng như Thiệu-Thái, thừa sức phá giải Nhật-hồ độc chưởng. Còn phu nhân có thuốc giải chưởng này!
- Vâng.
Trần Kiệt hỏi Bảo-Hòa, Mỹ-Linh:
- Này hai cháu. Hai cháu thuộc chỗ thâm tình với Khai-quốc vương. Hai cháu có thể cho ta biết tại sao Khai-quốc vương biết bọn Tống ăn cắp di thư Lĩnh-nam, người không cho quân bao vây, bắt chúng phải trả lại. Di thư đó, dù thực, dù giả, dù có còn hữu dụng hay không, vẫn là công trình tâm huyết của tổ tiên. Mặt khác, chúng ăn cắp di thư, với mục đích dùng để xâm chiếm Đại-Việt, thế mà người cầm vận mệnh Đại-Việt lại lờ đi thì thực cũng lắm điều lạ.
Bảo-Hòa mỉm cười. Trong cái cười của nàng ẩn tàng biết bao bí mật:
- Hiện cháu chưa thấy cậu hai có hành động gì tương ứng với vụ này. Tuy vậy, cháu biết cậu hai không bao giờ bỏ qua đâu. Cậu cháu vốn mưu trí thâm cơ vô cùng, khó ai đoán biết trước cậu cháu sẽ làm gì, nghĩ gì. Mãi tới gần đây, cháu mới thấy hai người đoán trước được ý nghĩ của cậu cháu.
Vũ Anh hỏi:
- Là ai vậy?
- Sư bá Tự-An, và chị Thanh-Mai.
Thiên-trường ngũ kiệt cùng đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Thanh-Mai cúi mặt xuống không dám nhìn lên. Thời bấy giờ phụ quyền rất mạnh. Trai, gái không có quyền quyết định về hôn nhân của mình. Mọi việc do cha mẹ hết. Đối với đại hiệp Trần Tự-An, ông không quá câu nệ lễ giáo, cho nên ông để Thanh-Mai được ra ngòai. Việc nàng với Tự-Mai du lịch Trường-yên thăm hoa, gặp Khai-quốc vương, rồi vương sai người đem hoa đến tặng nàng. Nhất nhất không qua được mắt ông. Trong khi đó chính Thanh-Mai không biết người thanh niên hào phóng đó là một vị thái tử, một vương tước, cầm quyền nghiêng nước.
Cho đến khi gặp lại chàng tại Cửu-chân, nàng mới biết người tình của mình có thân thế to lớn. Bây giờ ngồi trước mặt bố, chú, sư thúc, Bảo-Hòa vô tình nói ra sự thực, làm Thanh-Mai lo lắng không ít. Nhất là giữa môn phái Đông-a lại có nhiều bất hoà với triều đình. Nàng nghĩ thầm : Truyện mình với chàng chỉ có mấy chị em nàng biết. Mà tại sao bố với các sư thúc cũng biết. Nhất định phải có người tiết lộ. Nhưng nàng chợt nhớ ra, khi nàng bị bọn Tung-sơn tam kiệt bắt đi. Sư huynh của nàng là Ngô An-Ngữ đã sai người về báo tin cho bố nàng biết. Chắc bố nàng cho người âm thầm điều tra chứ không sai.
Tự-An gật đầu:
- Việc này coi như xong. Bây giờ tới việc Triệu Thành hăm, nếu họ Lý không trả ngôi vua cho Lê Long-Mang, triều Tống sẽ cất quân sang đánh. Các sư đệ nghĩ sao?
Vũ Anh thở dài:
- Anh em chúng ta không muốn dính dáng gì đến việc vua chúa. Tuy nhiên có mấy việc không đừng được. Lẽ thứ nhất, thủa thơ ấu chúng ta với Mang thuộc chỗ thâm giao. Sau khi thất thế, Mang đóng cửa luyện võ, trở thành Hồng-Sơn đại phu. Đại phu với chúng ta chưa từng gặp nhau, nhưng lại có nhiều qua lại thâm tình. Nếu như bây giờ Hồng-Sơn đại phu khởi binh, nhân danh võ đạo diệt kẻ tiếm ngôi, yêu cầu chúng ta trợ thủ. Chúng ta làm sao chối được? Võ đạo của bản phái lấy tình bạn làm trọng. Nay bạn hưng binh đòi lại cái đã bị người cưỡng chiếm rất hợp lý.
Hoàng Hùng cũng tiếp:
- Dù Lý, dù Lê làm vua, chúng ta cũng không cần biết đến. Nhưng nếu để Lý làm vua, ắt quân Tống kéo qua, chiến tranh sẽ rất tàn khốc. Dù Lý có thắng, đất nước cũng điêu linh. Chi bằng chúng ta nên giúp Hồng-Sơn, áp lực bắt Lý trả ngôi vua, hầu tránh chiến tranh.
Tự-An suy nghĩ một lúc, rồi ông nói:
- Bất cứ trường hợp nào, dù Lý làm vua, dù Lê làm vua, đường lối hành động của chúng ta phải ở trong bằng này điều: Một là làm sao cho nội bộ triều đình, các gia, các phái người người đồng tâm. Chính sự phải tốt đẹp, khiến nước giầu dân mạnh. Bấy giờ Tống mới có thể để mình yên. Hai là phải liên kết các nước, vốn thuộc tộc Việt cũ như Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la làm thế ỷ dốc. Ba là hoà hiếu với Tống. Về phương diện này, cần gửi một số cao thủ sang Biện-kinh cùng Lưỡng-Quảng. Hễ bọn quan liêu nào manh nha lòng tham chiếm Đại-việt, ta âm thầm giết chết. Hay cũng giết thân nhân chúng, để chúng không lòng dạ nào nghĩ đến xâm lăng mình nữa.
Thình lình có tiếng quát:
- Người là ai, mà dám lớn mật đến trang Thiên-trường dò thám?
Trên nóc Thủy-các có tiếng chưởng lực chạm nhau. Mọi người vội rời phòng họp cùng nhảy lên mái nhà.
Trên mái nhà, một người bịt mặt đang giao đấu với đại đệ tử của Vũ Anh tên Đào Hiển. Võ công Đào Hiển khá cao, nhưng bản lĩnh người bịt mặt cũng không tầm thường. Hai bên giao nhau đến chiêu thứ mười, Đào Hiển kém thế rõ rệt. Sau mỗi chiêu chàng phải lùi đến hai bước.
Đào Hiển đánh liền mười chiêu Đông-a chưởng pháp. Người kia thản nhiên đỡ. Cứ hai chiêu chạm nhau, Đào Hiển lại lùi liền một bước. Thấy Đào Hiển sắp bại, Phạm Hào quát lớn:
- Ngừng tay!
Hai người ngừng lại. Phạm Hào chắp tay:
- Phái Đông-a hôm nay hân hạnh được tiếp một cao thủ Đại-lý giá lâm. Xin quí nhân cho chúng tôi được thấy kim diện cùng biết cao danh quí tính?
Người bịt mặt tần ngần một lát, rồi phát chiêu hướng Đỗ Lệ-Thanh tấn công. Chưởng cửa y mãnh liệt vô cùng. Biết Đỗ Lệ-Thanh khó đỡ nổi chưởng đó, Phạm Hào vung tay đỡ. Binh một tiếng. Cả hai bật lùi lại ba bước. Mọi người đều la hoảng. Vì bản lĩnh Phạm Hào không thua sư huynh Trần Tự-An bao nhiều, mà dường như công lực xấp xỉ với người này.
Người bịt mặt cười nhạt:
- Thiên-trường ngũ kiệt danh vang Hoa-Việt, mà bản lĩnh chỉ có thế thôi ư? Xin tiếp chiêu nữa của tại hạ.
Y vung chưởng đánh tới. Chưởng chưa phát ra mà mọi người như muốn ngộp thở. Phạm Hào quát lên một tiếng xuất chiêu Đông-a chưởng pháp đỡ. Binh một tiếng, bọn đệ tử Đông-a công lực chưa đủ, phải nhảy xuống nóc Thủy-các để tránh áp lực.
Người bịt mặt với Phạm Hào đã giao nhau đến chiêu thứ mười. Công lực hai bên ngang nhau.