Chương 8b
Đào Hà-Thanh kể:
- Khai-quốc vương công du Thanh-hóa, rồi hết việc này, tới việc kia, không về phủ. Mãi hơn tháng trước người về tới. Nghe vú nói đến em, người mừng lắm. Người sai làm tiệc đãi em. Trong tiệc người cho biết, người đã từng nghe em hát, đã từng say bóng dáng em. Nhưng trong chuyến công du Thanh-hóa, vương gặp một nữ hiệp, tài trí vô song. Vương cùng nàng ước hẹn trăm năm. Kỳ này vương sẽ tâu với đức vua phong nàng làm vương phi. Vương nói rằng, tài sắc em khó kiếm. Song vương không thể sủng ái ai, ngoài vị nữ hiệp kia. Nhân dịp này, em cũng thố lộ về truyện anh với em.
- Thế em có nói rõ anh là ai cho vương nghe không?
- Không! Em không nói rõ anh là ai. Vương trầm tư một lúc rồi nói: Nếu ta cho nàng vế với tình quân thì phạm tội lớn với phụ hoàng, vì nàng đã làm lễ ở Thái-miếu, coi như con dâu trong nhà, không thể cho về dân dã. Nhưng thôi, thà ta bị tội, chứ không muốn để nàng với tình quân đau khổ. Sau đó vương cho em vàng lụa, rồi sai người đưa em về nhà. Bố mẹ em nhờ bang Hồng-hà hộ tống em về đây.
Tự-An ngẩn người ra suy nghĩ. Tình cảm che mất linh mẫn, ông không biết giải quyết sao. Ông hỏi ý kiến Thanh-Mai. Thanh-Mai im lặng suy nghĩ:
- Tại sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ như vậy? Phu nhân Hồng-sơn đại phu cũng như mẫu thân ta đều qua đời vì Nhật-Hồ độc chưởng. Rồi hai người cưới vợ xấu, đanh ác. Cuối cùng cả hai cùng bị đuổi về. Hồng-Sơn đại phu gặp lại người yêu là Huệ-Phương. Bố ta gặp lại Hà-Thanh, cả hai cùng bị tiến cung. Huệ-Phương trốn đi tìm người. Hà-Thanh được chàng cho về. Cuộc gặp gỡ giữa Huệ-Phương với Hồng-Sơn đại phu thì còn bình thường. Cuộc gặp gỡ giữa bố ta với Hà-Thanh dường như có sự xếp đặt. Nhưng thôi, nếu là sự xếp đặt của triều đình, thì chẳng qua họ muốn lấy lòng bố ta mà thôi. Ta cũng chẳng nên nói ra làm gì.
Nàng nói với bố:
- Con mừng cho bố đã gặp được người như trong ước mơ. Bố nên làm lễ cưới Đào cô nương càng sớm càng tốt. Tuy vậy, bố để cho Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đi, rồi hãy cưới thì hơn.
Tự-An gât đầu nghe lời con gái. Ông sai con, với sư đệ trẩy Thăng-long.
Thanh-Mai cho chuẩn bị một con thuyền lớn, để về Thăng-long. Sau đó từ Thăng-long sẽ đi Mê-linh bằng đường bộ. Trong đoàn tùy tùng, kể về quyền thế thì Mỹ-Linh lớn nhất. Kể về vai vế trong võ lâm thì Phạm Hào lớn hơn cả.
Thuyền nhổ neo, kéo buồm, theo sông Vị-hoàng, sang sông Hồng, rồi ngược giòng về Thăng-long. Mỹ-Linh sống ở Thăng-long từ nhỏ, nàng không lấy gì làm nôn nao cho lắm. Thiệu-Thái, Bảo-Hòa đã từng về Thăng-long thăm ông ngoại, nên thành quen. Chỉ riêng chị em Thanh-Mai, Tự-Mai, Tôn Đản, lần đầu tiên được về đế-đô, lòng nao nao lên những niềm vui khó tả.
Nước sông Hồng đỏ tươi như mầu máu, chảy xiết về miền xuôi. Trên sông củi mục, cây khô trôi lềnh bềnh. Dân chúng hai bên sông dùng đò nhỏ ra vớt củi đem về phơi khô bán, làm kế sinh nhai. Họ thấy con thuyền đinh lớn, kéo buồm, còn thêm hàng chục tráng đinh chèo, thì ngơ ngác nhìn.
Thanh-Mai cùng Mỹ-Linh, Bảo-Hòa đứng trên mặt sàn thuyền xem cảnh. Chợt Bảo-Hòa chỉ lên nền trời. Thanh-Mai ngước mắt nhìn: Giữa đám mây trắng trôi, hai con chim ưng dang bay lượn trên thuyền. Nàng nhủ thầm:
- Chắc chàng đã tỏ hết những gì xẩy ra ở trang Thiên-trường. Việc ta đi thế này, hẳn chàng cũng biết, cho nên mới sai chim ưng theo dõi.
Mỹ-Linh sinh trưởng ở Thăng-long. Hồi còn sinh tiền, thân mẫu nàng là một kiếm khách phái Mê-linh, bà hay thăm chùa này, viếng di tích đền nọ. Đi đâu bà cũng mang nàng theo. Vì vậy cảnh trí quanh Thăng-long trong vòng một trăm dặm, nàng thuộc làu hết. Khi thuyền còn cách Thăng-long hơn tám mươi dặm, nàng đã nhận ra cảnh trí rồi. Nàng chỉ chòm cây này, hương thôn nọ giảng giải từng chi tiết một. Đến nỗi bác học như Phạm Hào, Trần Kiệt mà cũng phải chịu rằng cô công chúa này kiến thức không tầm thường.
Bảo-Hòa là người rất tinh tế. Nàng thấy từ lúc rời Thiên-trường lên đường đi Thăng-long đến giờ gần như Tự-Mai với Tôn Đản ngồi im lìm không nói gì. Hai người ngồi bên cái tráp, cầm bút viết viết vẽ vẽ bàn luận về võ công hoặc đùa với Thường-Kiệt. Nàng kinh ngạc không ít, vì thường ngày hai cậu em này thường tía lia luôn miệng nói truyện với Mỹ-Linh, Thanh-Mai. Thế mà hôm nay hai người ngồi riêng, lại ít tiếng.
Bảo-Hòa đến bên Tự-Mai hỏi:
- Sư đệ. Em có truyện gì buồn không? Tại sao mặt lại buồn như con mèo ngái ngủ thế kia?
Tự-Mai nghe Bảo-Hòa ví mình với con mèo ngái ngủ thì bật cười:
- Thế sao hôm nay chị lại tươi như con nai cười thế này?
Tuy Tự-Mai tươi cười, đùa với Bảo-Hòa, nhưng nàng vẫn thấy có vẻ gượng gạo. Nàng tự nhủ:
- Phải tìm ra lý do nào cậu em này lại có thái độ như vậy?
Bảo-Hòa tìm không ra nguyên do củng phải. Trước đây Tự-Mai, Tôn Đản chỉ là hai cậu thiếu niên bình thường. Nhưng trong thời gian ở động đá, chúng luyện Thiền-công. Chính Thiền-công làm cho tâm tư con người trầm lắng lại, vì vậy tình tinh nghịch mất đi rất nhiều.
Nàng cầm tay Tự-Mai, Tôn Đản nói:
- Hai em lên sàn thuyền ngắm cảnh với chị Thanh-Mai, Mỹ-Linh đi chứ? Định ngồi Thiền sao đây?
Lên sàn thuyền, Tự-Mai hỏi Mỹ-Linh:
- Chị Mỹ-Linh này, chị có thuộc hết mọi nơi trong thành Thăng-long không? Đến nơi em muốn đi thăm đền thờ các vị anh hùng thời Lĩnh-nam đã tuẫn quốc. Trước em chỉ nghe nói, mà chưa có dịp đến chiêm ngưỡng.
Mỹ-Linh tính đốt ngón tay:
- Về thời Lĩnh-nam, Thăng-long có tên là Long-biên, nơi Bắc-bình vương Đào Kỳ đóng quân. Còn kinh đô lại ở Mê-Linh. Thời Hán thuộc, lỵ sở của thái thú Tô Định đóng tại Luy-lâu, còn đô-úy Lê Đạo-Sinh cũng đồn trú tại Long-biên. Vì vậy thành Thăng-long là nơi diễn ra biết bao trận đánh lịch sử. Hiện còn nhiều đền thờ các vị anh hùng Lĩnh-nam. Chị kể sơ cho em nghe.
Nói rồi nàng đưa tay ra tính. Bàn tay Mỹ-Linh vốn trắng hồng, da mịn. Các ngón dài như búp măng. Gần đây nàng luyện nội công phái Long-biên, nên bàn tay càng tươi đẹp như cánh hoa sen. Nàng kể:
- Đầu tiên đền thờ vua Trưng cùng các đại công thần ở bờ sông Hồng gần bến Tiềm-long, rồi phải kể đến đền thờ các vị họ Đào là Hiển-Hiệu, Quý-Minh, Phương-Dung ở Thổ-quan. Đền thờ Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương, Quách Lãng ở Đông-ba. Đền thờ Nguyễn Tam-Trinh ở Mai-động. Đền thờ công chúa Tử-Vân ở Vĩnh-hưng...Nhiều lắm, kể không sao hết được.
Tôn Đản hỏi:
- Nước Việt mình từ hồi lập quốc đến giờ trải qua biết bao đời. Không biết những triều đại trước đóng đô ở đâu?
Mỹ-Linh đáp:
- Vua Hùng đóng đô ở Phong-châu. Đến đời vua An-Dương đóng đô ở Cổ-loa, sát Thăng-long ngày nay. Vua Trưng đóng đô ở Mê-linh. Thời tiền Lý, vua Lý Nam-Đế đóng đô ở Ô-diên, cũng gần Thăng-long. Đến thời vua Ngô Quyền, lại đóng đô ở Cổ-loa. Trải tới vua Đinh, ngài đóng đô ở Hoa-lư tức Trường-yên bây giờ. Qua đời Lê, vẫn giữ kinh đô Hoa-lư. Kịp đến khi ông nội chị lên ngôi vua
mới dời đô ra thành Đại-la.
Tôn Đản reo lên:
- Việc này em có nghe bố kể. Khi mới lên ngôi vua, Thuận-Thiên hòang đế thấy đất Hoa-lư chật hẹp, lại ở vào khu đất nghèo, không xứng đáng là nơi đế vương ngự trị. Ngài mới hỏi sư phụ là Vạn-Hành xem nên dời đô đến chỗ nào có nhiều linh khí. Thiền-sư Vạn-Hạnh vân du khắp đất nước, ngài thấy thành Đại-la có thế đất chín rồng chầu vào, khí thiêng sông núi tụ lại. Ngài lại xem thiên văn, thấy trên Thiên-hà, đế khí, phú khí, linh khí chiếu cả xuống nơi đây. Ngài mới khuyên vua dời đô ra. Khi thuyền gần tới nơi, thì thấy một con rồng bay lên, lượn trên không. Vì vậy mới đổi tên là Thăng-long.
Thanh-Mai hỏi Mỹ-Linh:
- Thiền sư Vạn-Hạnh nói Thăng-long có chín con rồng chầu vào. Thế liệu những con rồng đó có ở yên, hay theo thời gian sẽ di chuyển đi nơi khác?
Mỹ-Linh đáp:
- Khi ông nội hỏi câu đó, Vạn-Hạnh tổ sư nói Đất linh, do khí thiêng sông núi, do thần linh kết thành. Vì vậy trải qua nhiều đời, thì khí thiêng cũng không đổi. Theo đạo Phật, dù tiên, dù thần, cũng có ngày nhập diệt. Do vậy khí thiêng cũng biến theo. Vạn-Hạnh tổ sư còn nói, Khí thiêng Long-thành chỉ được có nghìn năm mà thôi. Sau này, khó mà biết được.
Thiệu-Thái hỏi:
- Anh nghe nói thành Thăng-long trước đây do Cao Biền đắp, có đúng không?
Câu hỏi của Thiệu-Thái làm mọi người cười ồ lên. Thiệu-Thái không hiểu tại sao mọi người lại cười mình. Chàng ngơ ngác:
- Suốt bao năm qua, người Trung-quốc đều kể rằng thành Thăng-long do Cao Biền đắp từ hồi nhà Đường.
Mọi người lại cười nữa. Tôn Đản nói:
- Anh Thái à. Anh là người bộc trực, tâm tính hiền hậu dễ tin người thành ra mới bị người ta đánh lừa.
Thiệu-Thái càng ngơ ngác. Mỹ-Linh thương hại người yêu, nàng vỗ nhẹ tay lên vai chàng:
- Không phải vậy đâu. Người Hoa thường khoa trương công đức của các quan người Hán sang cai trị đất Việt. Họ phao vu rằng thành Thăng-long do Cao Biền đắp. Sự thực vào đời Đường, Cao Biền sang làm An-nam đô hộ sứ, y có đắp thành Đại-la, nhưng nhỏ xíu. Khi ông nội lên ngôi vua, sai phá cái thành nhỏ ấy đi, xây thành mới năm cửa ngày nay. Công trình xây dựng trải mấy năm mới xong. Thành có hai lớp. Lớp trong gọi là Hoàng-thành, lớp ngòai gọi là Kinh-thành. Hoàng-thành nằm trong lòng Kinh-thành.
Trần Kiệt gật đầu:
- Đó là kiến trúc cổ của người Việt. Thành Phong-châu thời vua Hùng cũng như thành Mê-linh thời vua Trưng đều xây dựng theo mô thức đó. Trong Hoàng-thành, khu Cấm-thành có tường cao, là nơi hoàng đế cùng hoàng hậu, phi tần, thái tử, công chúa ở. Còn Hoàng-thành có nhiều cung điện. Vua cùng tể tướng, quần thần làm việc. Kinh-thành là nơi dân chúng ở. Đại để là thế. Tôi không biết thực sự có những cung nào, điện nào đã được xây và xây từ bao giờ. Công chúa! Công chúa có biết không?
Mỹ-Linh kính cẩn đáp:
- Thưa đại hiệp, tiểu nữ xin trình đại hiệp rõ. Thăng-long chỉ có Hoàng-thành, mà không có Cấm-thành. Trong Hoàng-thành xây rất nhiều cung điện. Tuy so với cung điện thời vua Hùng vua An-Dương không đi đến đâu, nhưng cũng không kém phần tráng lệ. Tại trung ương, lớn nhất là điện Càn-nguyên, cao bốn tầng, có chín nóc chồng lên nhau. Ngói đều mầu xanh. Tường bằng những tảng đá lớn. Kèo cột, cầu thang, gác đều bằng gỗ lim, gỗ trắc hay gỗ gụ.
Thanh-Mai hỏi:
- Bốn tầng đó dùng để làm gì?
- Tầng trên cùng là nơi thờ quốc tổ, quốc mẫu.
Tôn Đản vốn ít học, nó hỏi Bảo-Hòa:
- Có phải quốc tổ là Lạc-Long quân, quốc mẫu là Âu-Cơ không?
Bảo-Hòa mỉm cười:
- Đúng mà sai.
Tôn Đản xịu mặt xuống:
- Sao vậy?
Bảo-Hòa giảng giải:
- Từ thời cổ người Việt mình thờ quốc tổ gồm: Phục-Hy, Thần-Nông, Hùng-vương, An-Dương vương. Còn người Hoa thờ Phục-Hy, Thần-Nông, Hoàng-đế làm quốc tổ. Em còn nhớ sử mình ghi không: Vua Đế-Minh là cháu ba đời vua Thần-nông đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ-lĩnh kết hôn với một nàng tiên đẻ ra thái tử Lộc-Tục. Ngài lập đàn tế cáo trời đất, phong cho con trưởng là vua Đế-Lai làm vua phương bắc tức Trung-nguyên. Phong cho con thứ làm vua phương nam tức vua Kinh-Dương. Vua Kinh-Dương kết hôn với con gái vua Động-Đình đẻ ra thái tử Sùng-Lãm. Sùng-Lãm làm vua tức Lạc-Long quân. Lạc-Long quân lấy bà Âu-Cơ là con vua Đế-Lai đẻ ra một trăm con.
Tôn Đản hiểu ra:
- Vậy mình với Trung-nguyên cùng ông tổ Phục-Hy, Thần-Nông. Còn từ sau thì phân ra Nam, Bắc.
Trần Kiệt lại hỏi Mỹ-Linh:
- Tầng trên cùng thờ quốc tổ. Tầng thứ nhì để làm gì?
- Thưa cũng để thờ. Cả tầng thứ nhì thờ từ vua Bà cùng anh hùng thời Lĩnh-nam cho đến vua vua Đinh. Tầng thứ ba thờ liệt tổ họ Lý. Còn tầng cuối cùng là nơi hoàng đế ngồi làm việc.
Ngừng lại một lúc, Mỹ-Linh tiếp:
- Trước điện Càn-nguyên là điện Cao-minh. Điện Cao-minh có một thềm lớn, là nơi thiết đại triều. Bên trái điện Càn-nguyên là điện Tập-hiền, nơi các quan văn làm việc. Bên phải là điện Giảng-võ nơi các quan võ làm việc.
Phạm Hào thắc mắc:
- Tôi nghe nói lầu Thúy-hoa có muôn ngàn hoa thơm cỏ lạ, do công chúa An-Quốc dâng cho vua cha. Vậy lầu đó ở đâu?
Mỹ-Linh đáp:
- Phía sau điện Càn-nguyên là điện Long-an, sau điện Long-an là điện Long-thụy, nơi hoàng đế an nghỉ. Điện Long-an do chính cung hoàng hậu Lập-quốc ở. Sau điện Long-an là điện Long-thụy do hoàng hậu Lập-nguyên ở. Bên phải điện Long-an là điện Nguyệt-minh cho các công chúa ở. Bên trái là điện Nhật-quang cho các thái tử ở. Lầu Thúy-hoa ở sau cùng, có ba tầng là nơi thưởng hoa của hoàng cung.
Trần Kiệt gật đầu:
- Thế từ Hoàng-thành thông với Kinh-thành bằng mấy cửa?
- Thưa có sáu cửa. Bốn cửa chính. Hai cửa phụ. Bốn cửa chính theo đúng Đông, Tây, Nam, Bắc là Tường-phù, Đại-hưng, Quảng-phúc và Diệu-Đức. Ngoài ra còn hai cửa nữa là cửa Phi-long thông thẳng ra cung Nghinh-xuân, cửa Đan-phượng thông ra cung Uy-viễn.
Càng về chiều, nước chảy càng chậm, thuyền đi thực mau. Phạm Hào chợt nhớ ra điều gì. Ông hô lớn:
- Tất cả xuống dưới khoang thuyền. Chúng ta có việc cần bàn.
An toạ xong, Phạm Hào hỏi Mỹ-Linh:
- Công chúa. Cứ như cung khai của tên Đặng Trường cùng Trần-thị Phương thì rõ ràng có sự liên kết giữa Nhật-Hồ lão nhân với bọn sứ đoàn nhà Tống. Điều chúng ta cần phải tìm cho ra Nhật-Hồ lão nhân hiện còn sống hay đã chết rồi. Giang hồ võ lâm nói rằng lão có mười đệ tử. Đệ tử của lão đều vào hàng kiệt hiệt vô song. Chúng ta chỉ biết được tên của năm người. Còn bốn người thì không biết rõ là ai.
Mỹ-Linh hỏi Bảo-Hòa:
- Chị có nghe biết gì về bọn Nhật-Hồ không?
Bảo-Hòa gật đầu:
- Lúc từ Trung-nguyên về Đại-Việt, Nhật-Hồ lão nhân cùng các đệ tử ẩn thân ở vùng Bắc-biên. Họ chiêu dụ các khê động. Có khá nhiều khê động theo họ. Nay dù Nhật-Hò chết, vẫn có nhiều khê đông chủ trương chống lại mạ mạ. Vì vậy mạ mạ theo dõi họ rất kỹ. Chị nghe nói đệ tử đắc ý nhất của lão là Vũ-nhất-Trụ. Nhất-Trụ nguyên là thầy đồ trẻ ở Thăng-long, thường ngồi ở các quán, kể truyện lịch sử Đại-Việt làm kế sinh nhai. Sau Nhất-Trụ bỏ Thăng-long lên Bắc-biên theo lão, được lão thu làm đồ đệ. Tên Đặng-Trường là đệ tử thứ nhì. Đệ tử thứ ba tên Phạm-văn-Trạch. Trạch là con nhà danh gia, có học thức. Đệ tử thứ tư là Hoàng-Văn. Nghe đâu y gốc là người Hoa. Người thứ năm là Nguyễn-Chí. Chí với Vũ-Nhất-Trụ thường hay tranh dành quyền uy với nhau.
Đến đó khoang thuyền mở rộng, thuyền trưởng vào thưa với Trần-Kiệt:
- Trình trang chủ, phía trước có hai con thuyền lớn, đậu ép vào nhau. Người trên thuyền giao chíến kịch liệt. Xin trang chủ quyết định, chúng ta nên tránh ra hay lại gần?
Trần-Kiệt vẫy tay cho mọi người lên mui cùng quan sát. Phía trước, hai con thuyền lớn vô cùng, đậu sát vào nhau. Trên thuyền quả đang có cuộc giao chiến. Tiếng vũ khí chạm vào nhau kêu loảng xoảng. Trần-Kiệt bảo thuyền trưởng:
- Người cứ cho thuyền thẳng tới.
Con thuyền hướng phía trước mà đi. Có tiếng từ trên thuyền vọng lại:
- Chúng ta đang có truyện riêng tư cần giải quyết với nhau. Những người vô can nên tránh xa. Gươm đao vô tình, nếu cứ lướt tới thì đừng trách.
Thuyền càng tới gần, trông càng rõ. Bảo-Hòa tinh mắt nhất. Nàng nói:
- Trong hai bọn đánh nhau, một bọn là sứ đoàn nhà Tống. Còn bọn kia không rõ là ai.
Thanh-Mai đề nghị:
- Sư thúc. Bọn Tống biết mặt chúng ta hết rồi. Xin sư thúc cho giả trang, để quan sát trận đánh, tùy nghi ra tay.
Trần-Kiệt gật đầu. Tất cả mọi người đều vào trong khoang. Thanh-Mai, Bảo-Hòa cùng hoá trang cho mọi người. Phạm-Hào, Trần-Kiệt, Thiệu-Thái giả làm ba người nhà quê. Còn Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Bảo-Hòa giả làm ba cô gái thôn dã, đáp thuyền về Thăng-long.
Tất cả mọi người lên thuyền đứng nhìn sang hai con thuyền phía trước. Trên một con thuyền lớn, bọn Triệu-Thành đứng đối diện với một đám người lạ. Trong đám người lạ có Chu-Minh. Trần-Kiệt dùng lăng-không truyền ngữ nói vào tai mọi người:
- Thì ra bọn Tống đang giao chiến với bọn Đại-lý. Chúng ta cứ đứng ngoài cuộc. Không nên ra mặt vội.
Thuyền càng tới gần, nhìn càng rõ. Một người trên thuyền bọn Tống nói vọng sang:
- Thuyền nào kia. Mau tránh ra chỗ khác. Nếu cứ tiếp tục lại gần đây thì đừng trách chúng ta ác độc.
Nghe tiếng quát đó, tâm tư Mỹ-Linh trấn động mạnh. Vì người nói đó chính Dực-Thánh vương, em ruột ông nội nàng. Nàng nói nhỏ vào tai Thiệu-Thái, Bảo-Hòa:
- Dực-Thánh vương đấy. Không hiểu sao người cũng có mặt ở trên thuyền bọn Tống.
Thanh-Mai ngơ ngác hỏi:
- Dực-Thánh vương là ai vậy?
Mỹ-Linh giải thích:
- Ông nội em có bốn anh em. Trên cao nhất là ông bác, được phong Vũ-Uy vương. Ông nội thứ nhì. Dưới người là Dực-Thánh vương. Út nhất là sư thái Tịnh-Huyền. Dực-Thánh vương hiện giữ chức đô đốc thống lĩnh thủy quân. Cháu nội của người là Lý Long-Hưng đã đính hôn với Bảo-Hoà đấy.
Lần đầu tiên Trần Kiệt biết truyện duyên tình của Bảo-Hòa. Ông tò mò:
- Lý Long-Hưng là người thế nào?
- Học văn rất uyên bác. Về võ công, thì học với Dực-Thánh vương. Nghe đâu bản lĩnh không kém gì những cao thủ bậc nhất. Hưng đã đấu với anh Tạ Sơn, ngang tay.
Mọi người kêu lên tiếng ái chà. Vì bản lĩnh Tạ Sơn đâu phải tầm thường. Mà Long-Hưng mới có mười chín, hai mươi tuổi, võ công đã bằng Tạ Sơn thực hiếm có.
Trần Kiệt càng thắc mắc:
- Võ công của Dực-Thánh vương có cao không? Người là đệ tử Tiêu-sơn chăng? Dường như Bảo-Hòa không mấy thích Long-Hưng thì phải.
Mặt Bảo-Hòa nhăn lại:
- Không hiểu sao, mỗi lần thấy Long-Hưng là cháu lại nổi giận. Y chỉ có cái vẻ bề ngoài mặt trắng, hay làm điệu, làm bộ. Trong khi cháu ưa thực tế.
- Võ công của Dực-Thánh vương với Vũ-Uy vương thuộc phái nào?
- Cháu không rõ. Ông Vũ-Uy vương với Dực-Thánh vương không biết học nghiệp với ai. Song võ công không thua gì ông nội. Còn võ công thái cô Tịnh-Huyền, thuộc phái Mê-linh.
Mọi người nhìn sang thuyền phía trước. Trên sàn chia ra làm ba cặp đấu với nhau. Cặp thứ nhất, Minh-Thiên đại sư đấu với một lão già tuổi khoảng sáu chục. Võ công hai người ngang tay. Mỗi lần chưởng lực chạm nhau, một tiếng bùng vang dội, các ngọn cờ trên thuyền lại bay phần phật.
Thanh-Mai kinh hãi nghĩ:
- Không biết lão già là ai, mà võ công đến trình độ ngang tay với Minh-Thiên thì ắt không thua bố mình với Hồng-Sơn đại phu. Nước Đại-lý có những cao thủ như vậy, hèn gì họ dám chống lại nhà Tống.
Cặp thứ nhì, một trung niên nam tử đấu với Địch Thanh. Cả hai cũng ngang tay nhau. Cặp thứ ba Đông-Sơn lão nhân đấu kiếm với một thiếu phụ rất xinh đẹp.
Trần Kiệt nói với Mỹ-Linh:
- Thiếu phụ kia là ai mà đấu kiếm được với Đông-Sơn lão nhân, một trong bốn tay kiếm thuật lừng danh Hoa-hạ. Dường như kiếm pháp của nàng giống kiếm pháp phái Thiên-sơn bên Trung-nguyên.
Mỹ-Linh chỉ vào ngọn cờ bay trên thuyền bọn Tống:
- Lá cờ có con kỳ lân là biểu hiệu của Dực-Thánh vương đấy.
Nàng chỉ vào một người tuổi khoảng năm mươi, đang đứng cạnh Triệu Thành trên đài chỉ huy của chiếc thuyền lớn lược trận:
- Người đó là Dực-Thánh vương.
Thình lình có tiếng xé gió. Một mũi tên từ thuyền Dực-Thánh vương bay lại, hướng vào cổ Trần Kiệt. Trần Kiệt lờ đi như không biết. Chờ cho mũi tên tới trước mặt ông. Ông phẩy tay một cái. Mũi tên đang bay với tốc độ kinh hồn, bị gẫy làm bẩy tám đoạn, rơi xuống sàn thuyền.
Người trên thuyền Dực-Thánh vương quát lớn:
- Thuyền kia, mau ngừng lại.
Ba mũi tên lại xé gió bay tới trước mặt Trần Kiệt. Ông phẩy tay một cái. Ba mũi tên đổi chiều bay ngược trở lại. Ông chĩa ngón tay phóng theo ba chỉ. Kình lực đẩy mũi tên trở thành cực mạnh. Ba mũi tên xé gió kêu lên tiếng vo vo inh tai nhức óc trúng vào cột cờ theo một hàng thẳng từ trên xuống dưới.