Chương 7b
Một thiếu nữ thân hình mảnh mai đứng núp sau bụi hoa nhài chạy lại ôm chầm lấy Tự-An. Tự-An quên mất thân phận mình là một đại tôn sư võ học vang danh thiên hạ, trước mặt còn tráng đinh, đệ tử. Ông cũng ôm lấy thiếu nữ. Nàng khóc trong cơn nghẹn ngào:
- Em...em tưởng kiếp này không gặp lại anh nữa.
Rồi nàng nấc lên, trong khị vẫn gục đầu vào vai Tự-An. Tự-An khẽ gỡ khăn lụa che mặt nàng ra, tất cả tráng đinh, đệ tử đều bật lên tiếng ồ đầy vẻ kinh ngạc. Họ kinh ngạc là phải, vì lần đầu tiên họ thấy vị đại tôn sư bộc lộ tình cảm một cách mãnh liệt, lộ liễu trước mặt mọi người. Vì thời bấy giờ, ngay vợ chồng cũng không thể nắm tay nhau trước mặt mọi người, chứ đừng nói ôm nhau. Lý do thứ hai họ kinh ngạc, vì thấy thiếu nữ ôm lấy Tự-An gọi bằng anh, ít ra cũng trên ba mươi tuổi. Nào ngờ khuôn mặt nàng quá trẻ, lại đẹp như tiên nữ.
Cách đây hơn năm, nhân có việc qua Thăng-long, đại hiệp Trần Tự-An cùng một người bạn vốn là danh sĩ đế đô tên Chu Anh, thả con thuyền trên sông, uống rượu thưởng trăng. Khoảng gần giờ Tý, thuyền đi vào vùng Từ-ninh, ánh trăng chiếu xuống sáng vằng vặc. Sông Hồng nước chảy mầu đỏ tươi như máu. Chu Anh cho thả neo, rồi hai người đem rượu, hoa quả ra, vừa uống vừa nói truyện thế tục.
Giữa lúc hai người đang vui truyện, thì đâu đó vẳng lại tiếng đàn, âm điệu thanh tao nhẹ nhàng. Chu Anh sẽ ra hiệu cho bạn im lặng để thưởng thức âm thanh kỳ diệu. Tiếng đàn đang êm đềm như sóng nước hồ thu, như thiếu nữ đang đu xuân. Bỗng dồn dập, rồi chuyển sang buồn bã, nức nở như thiếu phụ phòng không, than khóc cho duyên phận.
Tự-An là người bác học, đa năng không học thuật nào ông bỏ qua. Duy có một điều ông không thông, không hiểu gì về âm nhạc. Thế nhưng khi nghe tiếng đàn, giọng hát, ông dễ bị cảm xúc theo âm điệu nhất. Bản đàn đứt, ông hỏi bạn:
- Bản nhạc vừa rồi tên gì nhỉ, mà tôi chưa từng nghe qua?
Chu Anh đáp:
—Bản này tên Xuân dạ Việt-nữ chiến Trường-an. Tác giả tên Nguyễn Giao-Chi, một nữ anh hùng thời Lĩnh-nam.
Tự-An gật đầu:
- À bản này có lai lịch rất hùng tráng. Nguyên vào thời Lĩnh-nam, lúc Trần Tự-Sơn bị Quang-Vũ bắt giam ở Trường-an. Bắc-bình vương Đào Kỳ, cùng vương phi Nguyễn Phương-Dung đem anh hùng đi giải cứu. Trên đường từ Phù-phong đi Trường-an, Nguyễn Giao-Chi đã sáng tác bản này. Cho nên âm điệu hùng tráng thì có hùng tráng, buồn thì cũng có vẻ buồn. Người đánh bản đàn này, ắt phải có kiến thức đây.
Bỗng có tiếng phách, tiếng đàn đáy cùng tiếng hát vọng qua. Hai người lắng tai nghe:
Lĩnh-Nam là đất anh hùng,
Vua Bà ngự trị, một lòng thương dân.
Mê-linh khởi nghĩa,
Ánh trăng soi, lửa chiếu đến ngang trời.
Vua Bà cầm bảo kiếm, quyết một lời:
Thề đem sức, giúp đời dành tự chủ.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếm hãn thanh.
Khi đuổi giặc, rồi thì đất tổ thái bình,
Đem tất cả hùng tài dựng lại nước.
Tài không thiếu, đức cũng đủ, dư thừa phương lược,
Chỉ hiềm vì, thế nước đã suy vi,
Cẩm-khê sóng cả bốn bề,
Anh hùng gieo xuống, hồn về cỏi tiên.
Nghìn năm lịch sử ghi tên.
Tự-An ngơ ngác hỏi Chu Anh:
- Chu huynh, điệu hát này là điệu gì, tôi chưa từng nghe qua? Tôi chỉ phân biệt được hai câu đầu ngâm theo lối Sa-mạc. Còn lại thì mù tịt.
Chu Anh trả lời bằng cái lắc đầu.
Hai người hướng mắt nhìn theo nơi phát ra tiếng hát, nơi đó có một con thuyền nhỏ, đang để trôi theo giòng. Bỗng trên thuyền lại vang lên tiếng hát vọng buồn não nuột. Tiếng hát vừa cất cao, lập tức bị cắt đứt, thay vào đó bằng tiếng hét lanh lảnh, đầy vẻ khủng khiếp, rồi có tiếng la:
- Cứu tôi với!
Tiếng la bị gián đọan bằng tiếng ú ớ, rõ ra tiếng đàn bà bị bịt miệng. Tự-An bảo phu đò:
- Mau chèo thuyền lại phía con đò nhỏ cho ta.
Thuyền lao tới con đò nhỏ. Có tiếng nói lớn:
- Thuyền ai kia, mau ngừng lại. Đừng dại can thiệp vào truyện của bang Hồng-hà mà mất mạng.
Tự-An nhún mình một cái, ông đã nhảy sang con đò nhỏ. Một người tầm thước trên đò vung đao chém ông. Còn ở trên không, ông phóng một chưởng hướng người ấy. Người ấy bay bổng lên không rơi tòm xuống nước. Tự-An đã đáp nhẹ nhàng trên con đò nhỏ. Hai người khác từ trong lòng đò chui ra, vung đao tấn công ông. Ông dơ tay phẩy nhẹ một cái, đao người nọ chém vào đao người kia. Cả hai ngơ ngác ngẩn người ra. Một tên hỏi:
- Người là ai? Phải chăng người thuộc phái Đông-a?
Tự-An chụp cổ hai tên liệng xuống sàn thuyền, ông dẫm chân lên ngực chúng, rồi hướng vào trong đò hỏi:
- Dám hỏi vị nào là chủ đò? Tại hạ Trần Tự-An phái Đông-a cứu viện trễ, làm các vị kinh hoàng, thực có lỗi.
Ánh đèn trong đò cùng ánh trăng chiếu sáng, hiện ra một trung niên nam tử, mặt đẹp như ngọc tuổi khoảng bốn mươi lăm, bốn mươi sáu. Cạnh ông một thiếu phụ tuổi khoảng bốn mươi, dáng người thanh nhã, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ mềm mại. Phía sau, một thiếu nữ tuổi khoảng mười bẩy, mười tám. Nàng cúi đầu trong thuyền, vì vậy ông không nhìn rõ mặt.
Trung niên nam tử chắp tay hướng Tự-An:
- Đa tạ đại hiệp cứu viện. Nếu không chúng tôi đã bị giết chết trên sông này rồi. Tôi họ Đào, tên Phúc. Vợ tôi tên Bích-Lân. Chúng tôi đều làm nghề ca hát trong thành Thăng-long.
Tự-An à lên một tiếng:
- Thì ra hai vị nổi danh Phúc-Lân song phụng đấy. Tại hạ ở Thiên-trường từng nghe danh hai vị nức tiếng Long-thành vì có giọng hát không thua gì Trương Chi. Tại hạ thầm ước ao có ngày được diện kiến, không ngờ duyên may dun dủi, lại gặp hai vị trên sông Hồng.
Đào Phúc hướng vào trong khoang thuyền gọi:
- Hà-Thanh, con mau ra tạ ơn đại hiệp cứu mạng đi.
Thiếu nữ từ trong thuyền bước ra, nàng cúi đầu hành lễ:
- Đa tạ Trần đại hiệp cứu mạng. Ơn này nguyện khắc cốt ghi tâm.
Chu Anh cho hai con thuyền kè sát vào nhau. Ông chắp tay:
- Anh em chúng tôi ngồi trên thuyền uống trăng, hãm rượu, nói truyện cổ kim. Bỗng đâu tiếng hát Song Phụng vọng qua, làm cho hồn phách như lên tiên. Nào mời hai vị cùng cô nương Hà-Thanh sang bên này, chúng ta đàm đạo.
Tự-An hỏi hai tên đạo tặc:
- Chúng bay tên gì, mau khai ra.
Vừa hỏi, ông vừa vận sức vào chân. Hai tên đạo tặc đau quá, rên rỉ. Một tên nói:
- Tiểu nhân tên Công. Còn người này tên Du. Bọn tiểu nhân thuộc bang Hồng-hà.
- Các người lên con đò này, với mục đích gì? Do lệnh của ai?
- Thưa, bọn tiểu nhân được lệnh bang chủ theo dõi cô nương Hà-Thanh từ hơn tháng nay. Bang chủ ra lệnh cho bọn tiểu nhân phải bắt cóc, đem về tổng đường. Hôm nay bọn tiểu nhân mới ra tay.
Trần Tự-An đã nghe nói nhiều về bang Hồng-hà. Chúng làm ăn trên suốt giải sông Hồng, sang sông Cầu, sông Đuống. Dân thuyền chài đánh cá, dân buôn gỗ từ mạn ngược về, dân buôn trên sông đều phải phục tùng, nộp thuế cho chúng. Bằng không khó mà yên ổn làm ăn. Bang chủ là ai, ông chưa từng nghe qua. Chỉ biết y gốc người Hoa, võ công rất cao cường. Ông cùng các sư đệ có ý tiễu trừ bọn chúng. Nhưng bang chúng rất khôn khéo, không bao giờ họ đụng chạm với người của sáu đại môn phái Lĩnh-nam. Chúng lại càng tránh không đụng tới quan binh. Vì vậy bang chúng ngày càng đông, thế lực càng mạnh.
Trần Tự-An suy nghĩ rất nhanh:
- Muốn diệt trừ một đảng cướp lớn như bang Hồng-hà, một mình ta không thể làm nổi. Ta cần bàn với các sư đệ, cùng chưởng môn nhân đại môn phái xem sao đã.
Vì vậy ông ôn tồn bảo hai tên lâu la:
- Hai người về nói với bang chủ rằng Trần Tự-An phái Đông-a cấm chỉ bang chúng không được làm khó dễ Song-Phụng đất Thăng-long. Dù các người chỉ đụng đến sợi tóc cô Hà-Thanh, ta sẽ giết toàn bang không sót một người, dù con gà con chó cũng không tha.
Nói rồi ông vẫy tay một cái, hai tên cướp rơi tòm xuống sông. Chúng lặn đi mất tăm.
Thời bấy giờ, trên toàn đất Đại-Việt có hàng trăm bang hội, hàng chục môn phái nhỏ. Bang nào, môn phái nào cũng có đệ tử, gây ảnh hưởng trong vùng. Tự nhiên họ tạo ra luật lệ không thành văn riêng biệt gọi là luật Võ-lâm. Dù bang nào lớn, mạnh đến đâu, dù phái to đến mấy cũng không được vi phạm luật lệ đó. Chủ trương của mỗi bang, mỗi phái có nhiều điều khác biệt. Trong các phái, sáu phái lớn nhất, đã thành lập từ lâu, đào tạo nhiều đệ tử làm lên sự nghiệp hển hách, đó là phái Tiêu-sơn, Mê-linh, Đông-a, Tản-viên, Sài-sơn, và Tây-vu.
Cổ nhất phải kể phái Sài-sơn, do Phù-Đổng thiên vương sáng lập. Ngài được toàn quốc tôn làm bậc thánh. Khi còn sinh thời, ngài đã làm lên công nhiệp kinh thiên động địa. Một người, một ngựa, dùng gậy sắt phá giặc Ân. Sau đó ngài ẩn trên núi Sài-sơn dạy đệ tử, lưu truyền đến nay. Ngài được tôn làm thánh, vì sau khi qua đời, ngài rất linh thiêng. Dân Việt thường gọi ngài bằng nhiều từ ngữ khác nhau như Thánh Dóng, Thiên-vương hay Phù-Đổng Thiên-vương. Phái Sài-sơn không chỉ học võ, mà còn học cỡi ngựa, trồng cấy, Thiên-văn, Lịch-số, kể cả nấu ăn. Tôn chỉ của phái này, lấy việc phù trợ quốc gia làm chính. Tổng đàn đặt trên núi Sài-sơn. Hồng-Sơn đại phu hiện làm chưởng môn phái này. Nhưng ông lại không ở trên tổng đàn.
Tiếp theo, đến gần cuối đời Hồng-bàng, vua Hùng gả công chúa cho phò mã Sơn-Tinh. Sơn-Tinh đem công chúa lên núi Tản-viên hưởng thanh phúc. Ngài cũng được tôn làm thánh, dân chúng thường gọi ngài là thánh Tản-viên. Ngài tuy được tôn kính, song chỉ về phương diện tôn giáo, vì ngài rất linh thiêng. Thế kỷ thứ bẩy, linh khí đất Việt bốc lên chín từng mây. Quan thái sử lệnh tâu lên vua Đường. Nhà vua sai một người giỏi bậc nhất về phong thủy sang làm An-nam đô hộ phủ với lời dặn rằng phải ếm tất cả những linh khí đất Việt, cùng phá các thế đất phát đế vương đi. Cao Biền hoàn thành sứ mệnh khắp nơi. Chỉ duy có núi Tản-viên, y ếm mà không thành công. Y bị thánh vật, súyt mất mạng dưới chân núi.
Đương thời thánh Tản-Viên thu dụng, cùng đào tạo đệ tử rất đông. Vì vậy các đời sau lấy tên núi Tản-viên gọi môn phái này. Phái Tản-viên lấy tôn chỉ khuông phù chính nghĩa, diệt trừ kẻ ác, cứu khốn phò nguy. Thời Lĩnh-nam, vua Trưng xuất thân phái Tản-viên, mà thành đại nghiệp. Chưởng môn phái Tản-viên hiện là Đặng Đại-Khê. Tổng đàn đặt trên núi Tản-viên.
Phái Tây-vu được thành lập vào thời Lĩnh-nam 39. Sự thực lúc đầu, 72 động vùng Tây-vu, Thiên-sớ của các bộ lạc ít người như Thái, Mán, Mường, Nùng, Tày, Mèo, đại hội, bầu Hồ Đề làm thống-lĩnh đặt tên chung 72 động là Tây-vu. Trong cuộc khởi binh của vua Trưng, đệ tử Tây-vu đóng một vai trò cực kỳ trọng yếu. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, họ còn kháng chiến, tự lập thành những tiểu quốc gia riêng biệt, không chịu thống thuộc chính quyền Hán. Trải qua nghìn năm Bắc thuộc, cho đến đầu đời Lý (1010) tổng cộng còn 207 tiểu quốc, sử gọi là Khê-động. Phái Tây-vu hiện do Thân Thừa-Qúi, phò mã của Thuận-thiên hoàng đế làm chưởng môn. Nhưng người làm vua Bắc-biên của 207 khê động là Lĩnh-nam bảo quốc, hòa dân công chúa, con gái thứ nhì của Thuận-thiên hoàng đế, tức vợ của Thân Thừa-Qúi. Tổng đàn của phái này đặt ở núi Hoàng-liên-sơn.
Phái Mê-Linh, mới được thành lập vào thời vua Đinh Tiên-Hoàng. Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc, các tướng sĩ ẩn thân vào dân chúng tiếp tục luyện võ dạy đệ tử, đợi một mai khôi phục đất nước. Phải đợi cho đến thời vua Đinh, Hoa-Minh thần ni, mới viết thư mời tất cả các chi phái nguồn gốc từ thời vua Bà lại họp, lập ra phái Mê-linh. Họ bao gồm đệ tử phái Long-biên, Hoa-lư, Cửu-chân, Khúc-giang, Quế-lâm thời Lĩnh-Nam. Tôn chỉ của phái này thu gọn lại sáu chữ bảo quốc, trấn bắc, bình nam. Tổng đàn hiện đặt ở núi vua Bà hay Mê-linh. Chưởng môn là sư thái Tịnh-Tuệ.
Phái Tiêu-sơn được thành lập từ khi Tỳ-ni Đa-lưu-chi sang Lĩnh-nam. Ngài dạy Thiền-công cho tổ sư Pháp-Hiền. Thiền công gốc ở cửa Phật. Còn ngoại công lại do một tục gia đệ tử tên Trần Tự-Viễn sáng chế ra. Phái Tiêu-sơn coi như được lập vào thế kỷ thứ sáu. Trải qua bao thế hệ, sản xuất nhiều cao tăng đắc đạo. Đến đời Bồ-tát La Quý-An, ngài mới chủ trương can thiệp vào việc đời, lập lại nước Việt. Cho nên lịch sử Việt dùng danh từ Thầy tăng mở nước để nói về các ngài. Tổ thứ mười hai là Vạn-Hạnh thiền sư, chủ trương đó mới thành công. Vua Lê Đại-Hành, đại đệ tử của ngài có chiến công đánh Tống, bảo vệ đất nước. Đệ tử khác của ngài là Lý Công-Uẩn lập ra triều Lý, tức Thuận-thiên hoàng đế. Tổng đàn của phái Tiêu-sơn đặt tại chùa Tiêu-sơn. Chưởng môn hiện là Minh-Không thiền sư. Ngài giữ nhiệm vu Quốc-sư tức thầy của nhà vua.
Mới nhất, phái Đông-a. Tổ của phái Đông-a là Trần Tự-Viễn, nhân học Thiền-công nhà Phật của phái Tiêu-sơn, rồi chế ra ngoại công. Ông chính là tổ sư ngoại công của phái Tiêu-sơn. Ông rời chùa Tiêu-sơn về Thiên-trường lập ra phái mới. Trong chữ Hán, chữ Đông với chữ A hợp lại thành chữ Trần. Vì vậy phái này mang tên Đông-a. Chủ trương của phái Đông-a bao gồm Bảo vệ đất nước, duy trì công đạo, cứu khốn phò nguy. Chưởng môn hiện là Trần Tự-An.
Trong sáu phái, có năm vị nổi tiếng Đại-Việt ngũ long là Minh-Không, Đặng Đại-Khê, Hồng-Sơn đại phu, sư thái Tịnh-Tuệ, và Trần Tự-An. Năm người như ông vua không ngai. Võ công, kiến thức cao không biết đâu mà lừơng. Võ lâm Hoa-Việt nghe đến tên vừa kính, vừa sợ. So về thực lực, phái Tiêu-sơn mạnh nhất rồi đến phái Đông-a. Khi chưởng môn phái Tiêu-Sơn phán một câu, không ai mà không cúi đầu tuân phục. Thứ đến phái Đông-a, có đến năm đại cao thủ ngang nhau. Họ rất đạo đức, song không ai dám đụng vào phái này. Chỉ cần gây oán với họ, thì coi như cuộc đời không bao giờ yên ổn.
Hôm nay, Trần Tự-An đưa ra lời cấm đụng vào Long-thành Song-Phụng cùng Đào Hà-Thanh. Hai tên cướp nghe tên ông mà kinh tâm động phách.
Tuy nghe Trần Tự-An đưa ra lời đe dọa bọn Hồng-hà, nhưng Đào Hà-Thanh cũng run lật bật. Nàng hỏi:
- Trần đại hiệp. Không biết...không biết chúng định bắt... bắt tiểu nữ làm gì?
Tự-An an ủi Đào Hà-Thanh:
- Cô nương đừng sợ. Tuy chúng không nói ra, tôi cũng đã hiểu mục đích của chúng rồi. Cô nương không biết võ, chắc không thù oán gì với chúng. Tuổi cô nương còn trẻ, không giầu có ức vạn, chúng bắt cô nương chẳng phải vì của. Thế thì chúng bắt cô nương vì nhan sắc diễm lệ mà thôi. Cô nương cứ yên tâm, chúng không dám đụng đến cô nương đâu.
Hà-Thanh theo bố mẹ sang thuyền của Chu Anh. Chu Anh thân rót nước, đem hoa quả mời khách, rồi ông nói:
- Chúng tôi ngồi trên thuyền, trộm nghe giọng ca khi thì như sương mờ ban mai, khi thì như mây chiều trên đồi, khi thì lảnh lót như tiếng sáo diều. Lòng cứ tự hỏi, ai mà có giọng ca này. Thì ra giọng ca Bích-Lân của Long-thành.
Ông quay lại giới thiệu với Trần Tự-An:
- Trần huynh ở xa, lại không mấy chú ý đến ca hát, nên không biết danh Long-thành Song-Phụng cũng phải. Đệ xin vì huynh mà trình bầy.
Khi vua Lý Thái-tổ thiên đô từ Hoa-lư ra Thăng-long, dân chúng bốn phương kéo về lập nghiệp, không đầy một năm, đế đô trở thành một thị tứ đông người. Tửu lầu, khách điếm mọc lên nhan nhản khắp trong cũng như ngoài thành. Vì vậy, bấy giờ viên tri phủ Long-thành chia kinh đô làm hai khu vực. Khu nội thành có năm phường. Khu ngoại thành có bốn phường. Tổng cộng chín phường. Thương nhân các phường thi nhau làm sao cho phường mình đẹp đẽ, để có thể thu hút người đến mua bán.
Trong các tửu lầu, có bốn ngôi danh tiếng nhất. Ngôi thứ nhất ở cửa Bắc tên Lạc-viên lầu, quay ra bãi sông. Lạc-viên có hai tầng lầu, hình vuộng vức. Bốn phía đều có thang gỗ lớn đi lên.
Ngôi thứ nhì ở giữa thành, tên Nguyệt-cung lầu, quay ra hồ Tây. Nguyệt-cung lầu có ba căn lầu, ngôi nào cũng có hai tầng. Ba ngôi cách nhau hai trượng. Từ ngôi mọ sang ngôi kia nối với nhau bằng một, hành lang bằng gỗ. Dân bấy giờ gọi Nguyệt-cung là Tam-nguyệt lầu.
Ngôi thứ ba đặt ở ngoài thành, về phía bãi Ngọc-thụy. Tửu lầu là một con thuyền cực lớn, chia làm hai tầng, đặt tên Động-đình lầu. Lầu Động-đình thường đậu ở bãi Ngọc-thụy, đôi khi di chuyển dọc theo sông Hồng.
Tửu lầu thứ tư mang tên Long-biên anh hùng quán xây trên bãi sông Hồng về phía Đông.
Tất cả các tửu lâu đều dùng hết khả năng nấu nướng, cung phụng cho thực khách những miếng ngon vật lạ. Từ hơn mười năm về gần đây, các tửu lâu tìm cách mời những danh kỹ bậc nhất đến hát, để lôi kéo danh sĩ. Trong các danh kỹ, cặp vợ chồng Đào Phúc, Bích-Lân nổi tiếng bậc nhất.
Đào Phúc xuất thân trong một gia đình ca nhạc. Vì vậy chàng được thụ lĩnh giòng máu văn nghệ, cùng nghệ thuật cha truyền con nối. Còn Bích-Lân, dáng người nhỏ nhắn, được sắc đẹp trời cho, thêm gịong ca thiên phú. Hai người gặp nhau trong những buổi hát trên tửu lầu, rồi họ nên đôi vợ chồng. Cặp tài tử đi hát ở cả bốn tửu lầu. Danh sĩ Thăng-long đặt cho họ tên Long-thành Song-Phụng hoặc ghép tên hai người thành Phúc-Lân.
Danh tiếng hai người vang khắp nơi. Ngày hai người hát ở tửu lâu nào, thì tửu lâu ấy đông nghẹt khách.
Cặp tài tử này có một điểm đặc biệt, họ không chịu đến các đại gia ca hát, dù người mời là vương tôn, đại thần, dù chủ nhân trả bao nhiêu tiền, họ cũng từ chối. Nhưng khi gặp tri kỷ, dù ở xa nghìn dặm họ cũng tìm đến. Điều dễ thương nhất, trong những ngày giỗ Quốc-tổ, ngày giỗ Thánh-gióng, ngày giỗ vua Trưng hay ngày giỗ các anh hùng dân tộc, không ngày nào thiếu mặt họ. Họ tự đặt lời, ngụ ý ca tụng công đức người xưa.
Trần Tự-An hỏi:
- Hai vị nổi danh đại tài tử đất đế đô, mà tôi không biết, thực đúng là tên nhà quê. Tôi muốn thỉnh hai vị ít điều, vừa rồi Bích-Lân hát một bài ca tụng vua Trưng, nhưng tôi không biết đó thuộc điệu hát gì?
Bích-Lân hơi bẽn lẽn:
- Điệu hát đó do chúng tôi cùng Hà-Thanh mới sáng chế ra.
Đào Phúc tiếp lời vợ:
- Tự cổ, đất Việt có nhiều điệu ca. Đến đời vua An-Dương còn tới tám. Nhưng kể từ sau vua Trưng tuẫn quốc, cho tới nay không còn nguyên thủy nữa, mà bị hòa lẫn với nhạc Trung-nguyên. Vì vậy chúng tôi mạo muội chế ra điệu ca mới.
Tự-An mừng quá, ông hỏi:
- Hai vị định đặt điệu ca này ra sao?
- Chúng tôi chưa đặt tên. Song, danh sĩ Thăng-long nghe Bích-Lân, Hà-Thanh hát, họ tặng cho tên Hát ả Đào vì chúng tôi họ Đào. Trong một lần chúng tôi hát chầu Phù-Đổng Thiên-vương, được các vị cao nhân phái Sài-sơn đặt cho tên Ca-trù .
Ghi chú,
Đoạn này thuật hành trạng, nguồn gốc của tổ sư một điệu hát cổ Việt mang tên Ca-trù, Hát-nói, hay Hát Ả-đào. Ca-trù đến thời Nguyễn -143 trở thành cực thịnh. Nhờ Hát-nói, mà văn học Việt lưu lại nhiều áng văn chương tuyệt tác. Các thi nhân nổi tiếng của Hát Ả-Đào là Cao Bá-Quát, Nguyễn Công-Trứ, Dương Khuê, Chu Mạnh-Trinh, Tản Đà. Hiện nay (1995) Ca-trù được coi như một bộ môn nghệ thuật, được giảng dạy tại các trường âm nhạc trong nước. Những danh ca nổi tiếng là Hà Vy, Diệu Linh, Thúy-Hòa... Hồi thơ ấu, thuật giả được tiền nhân giảng dạy hết sức chu đáo về thú tiêu khiển này.
Bích-Lân chỉ Hà-Thanh:
- Hồi đầu tôi đặt lời, không có nguyên tắc nào cả. Sau Hà-Thanh sửa đổi dần, thành lề lối, nguyên tắc. Hiện các danh kỹ Thăng-long đều sáng tác theo nguyên tắc chúng tôi đặt ra.
Bích-Lân chỉ vào cái đàn đáy trước mặt:
- Khi hát, cần có nhạc công dùng đàn đáy đệm. Ca kỹ phải dùng cặp phách đánh nhịp. Trong lúc hát, cần có một danh sĩ ngồi bên cái trống nhỏ với dùi. Danh sĩ tùy theo giọng ca kỹ mà khen hay chê. Khi khen, đánh một tiếng trống, khi đến chỗ tuyệt hay đánh ba tiếng. Còn khi ca kỹ hát dở, đánh vào thành trống.
Chu Anh gật đầu:
- Hiện nay, người ta thường gọi tiếng trống là tom tiếng gõ vào thành trống là chát. Trong bốn đại tửu lầu đều có danh kỹ hát Ả Đào. Nhưng không ai hơn được Long-thành Song-Phụng cùng cô nương Hà-Thanh.
Đào Phúc kính cẩn nói với Tự-An:
- Hôm nay bèo mây gặp gỡ anh hùng. Chúng tôi xin hát lại khúc chầu vua Trưng hồi nãy, mong đại hiệp chỉ cho chỗ khiếm khuyết.
Đào Phúc đưa trống và dùi cho Chu Anh cầm chầu. Chàng ôm cây đàn đáy dạo lên mấy tiếng. Hà-Thanh cầm cặp phách gõ vào nhau. Nàng ngâm Sa-mạc hai cầu đầu, tay gõ nhịp bằng phách. Tiếp theo các câu khác nàng cất cao giọng hát. Cho đến câu lục bát cuối, nàng lại ngâm Sa-mạc, sau đó buông thõng câu cuối cùng.
Tự-An bị giọng ca êm đềm, nhẹ nhàng như gió thoảng của Hà-Thanh đưa vào giấc mộng huyền ảo. Mặt nàng vốn đẹp như người đi trong sương như có như không, thêm giọng hát hòa lẫn với đàn, tiếng phách, khiến ông như ngây như dại.
Bài ca vừa dứt, Tự-An chưa kịp khen ngợi, nàng đã bắt sang bài khác, mở đầu bằng câu lục bát ngâm Sa-mạc:
Cái tình là cái chi chi,
Anh hùng, danh sĩ mấy khi thoát vòng.
Khi hạ xuống câu bát, nàng liếc nghiêng, khóe mắt lướt trên người Tự-An, miệng nở nụ cười, rồi ngừng lại:
- Trần đại hiệp, em chế ra lối hát này đấy. Ca-trù có đôi chút ảnh hưởng của người Hoa mà thôi. Một bài hát thông thường có ba khổ. Khổ đầu gồm ba câu, câu đầu là lá đầu, hai câu kế là xuyên thưa. Khổ giữa có bốn câu, hai câu đầu là hai câu thơ, có thể là ngũ ngôn, có thể là thất ngôn, cũng có thể thực dài. Miễn hai câu phải đối nhau. Hai câu kế là xuyên mau. Khổ cuối cùng là khổ xếp, gồm có ba câu. Câu đầu là dồn câu kế là xếp, câu cuối cùng là keo. Tổng cộng mười một câu.
Trần Tự-An nghe nàng nói, gật đầu:
- Từ cổ mình vốn có văn tự Khoa-đẩu, với một nền văn chương giầu có. Khi Mã Viện sang chiếm Lĩnh-nam, y cấm lưu truyền văn tự Khoa-đẩu, cấm học. Thành ra cho đến nay không còn tác phẩm nào cả. Hơn nghìn năm bị người Tàu cai trị, mình không còn gốc, đành lấy cái của người làm của mình. Cho nên hiện trong triều, ngoài dân dùng chữ Hán. Các thể thơ văn dùng Phú, Sở-từ, thơ Đường. Dần dà không còn gì của mình cả. Nay cô nương đưa ra thể Ca-trù, hoàn toàn do cảm hứng sáng tạo, thực hợp lý.
Chu Anh hỏi:
- Trong bài ca ban nãy, cô nương có ngâm theo điệu Sa-mạc một cặp lục bát ở đầu và một cặp ở cuối. Ý nghĩa như thế nào?
Hà-Thanh nghiêng đầu bẽn lẽn:
- Em chế thêm biệt lệ. Đúng ra một bài Ca-trù phải có đủ những câu trên. Nhưng cũng có ngọai lệ. Một bài có thể thêm một cặp lục bát ở đầu gọi là mưỡu đơn hoặc hai cặp lục bát gọi là mưỡu kép. Có mưỡu đầu, thì cũng có mưỡu cuối. Mưỡu cuối phải đặt lên trên câu keo. Mưỡu cuối cũng có thể là mưỡu đơn hay mưỡu kép. Khi hát, câu mưỡu ngâm theo giọng Sa-mạc.
Hà-Thanh lại cất tiếng ca bài Mùa xuân Động-đình thuật lại truyện Quốc-tổ Lạc Long-Quân cùng Quốc-mẫu Âu-Cơ gặp nhau. Nàng vừa hạ xuống câu keo, thì phu đò vào nói với Chu Anh:
- Thưa chủ nhân, có mười con thuyền, trên thắp đèn, đang hướng đến thuyền chúng ta.