Chu Anh, Tự-An ra ngoài quan sát, thì thấy mười con thuyền chia làm hai hàng song song, như vây thuyền mình vào giữa. Hà-Thanh run run đứng nép vào vai Tự-An:
- Chắc tụi Hồng-hà lại đến.
Quả như nàng nói, trên các thuyền đều kéo lá cờ mầu xanh, ở giữa có ngọn lửa đỏ, bên cạnh thêu hàng chữ Hồng-hà bang.
Tự-An quên cả tỵ hiềm nam nữ, ông quàng tay ôm lấy vai Hà-Thanh:
- Thanh đừng sợ. Tôi quyết không để chúng đụng vào vạt áo, sợi tóc của Thanh đâu.
Hai mươi con thuyền dàn ra hai bên đò nhỏ của Chu Anh, rồi một người đứng trên đầu thuyền nói vọng sang:
- Bang chủ bang Hồng-hà được tin Trần đại hiệp giá lâm lãnh địa. Toàn bang lấy làm hãnh diện đón mừng đại hiệp.
Y vẫy tay, lập tức phường Bát-âm trên hai con thuyền bang Hồng-hà đồng tấu nhạc. Bản chúng tấu là bản Động-đình ca của Trương Chi.
Bản nhạc hết, hai con thuyền ghé sát thuyền Chu Anh. Trên mỗi con thuyền có hai thiếu nữ đội hai mâm lễ vật đậy bằng lồng bàn đỏ. Họ sang thuyền Chu Anh cùng với người lớn tuổi mặc áo hồng. Người lớn tuổi chắp tay vái Trần Tự-An:
- Tại hạ Thái Quang hộ pháp của bang Hồng-hà, tuân lệnh bang chủ, kính dâng lễ vật lên Trần đại hiệp.
Y mở lồng bàn ra. Mâm thứ nhất, có năm tấm lụa, năm tấm gấm và một hộp lớn, không rõ bên trong đựng gì. Mâm thứ nhì là một cây đàn tranh, một cây đàn đáy, một cái trống đồng, cùng hai cặp rượu.
Y cúi đầu nói:
- Vì không biết đại hiệp giá lâm, nên anh em trong bang vô lễ với Đào cô nương. Kể từ hôm nay, Long-thành Song-phụng cùng Đào cô nương đi đến đâu, bang chúng phải kính cẩn.
Đại hiệp Trần Tự-An đã từng nhận lễ vật như thế này nhiều lần. Vì vậy ông thản nhiên tiếp lấy:
- Tôi gửi Thái hộ pháp lời cảm ơn đến quý bang chủ. Mong rằng sẽ có ngày hội kiến với người.
Thái Quang cúi đầu, để lễ vật lại, rồi cùng hai thiếu nữ về thuyền. Mười con thuyền vừa đánh trống, vừa chèo đi. Khúc sông lại trở về yên tĩnh.
Trong những ngày đi hát, Đào Hà-Thanh biết về luật lệ võ lâm Đại-Việt. Nàng đã từng nghe nói về Trần Tự-An. Nhưng nàng không ngờ ông chỉ lên tiếng một lần với ba tên lâu la, mà bang chủ một bang cướp khét tiếng phải sai người tạ tội bằng một lễ vật lớn, nàng chưa từng thấy.
Tự-An bưng cây đàn đáy trao cho Đào Phúc:
- Đào tài tử, tôi xin tặng Long-thành Song-phụng cây đàn này, gọi là duyên may gặp gỡ.
Đào Phúc đỡ cây đàn để lên đùi, chàng lên dây, bật mấy tiếng. Chàng chú ý, thấy mặt trống vẽ hình một chùm hoa trà, nét vẽ sống động, trông như hoa tươi. Thành trống làm bằng gỗ thông, sơn đen, khảm xà-cừ sự tích Trương Chi ngồi trên thuyền, tay cầm tiêu thổi. Xa xa là ngôi lầu đài, trên đó Mỵ-Nương đang ngồi lắng tai nghe. Chàng than:
- Cây đàn này khá cổ, song không biết làm từ hồi nào. Bang Hồng-hà đem quý vật dâng Trần đại hiệp, hẳn có ý nghĩa chứ không đơn giản như vậy đâu.
Tự-An bưng cây đàn tranh trao cho Hà-Thanh:
- Cây đàn này xin tặng Đào cô nương. Mong cô nương không chê.
Hà-Thanh để hai tay nâng cây đàn. Nhưng nàng không nhấc lên. Mắt nàng chiếu ra tia sáng long lanh, mỉm cười:
- Đa tạ đại hiệp.
Tự-An nâng cái trống đồng lên ngắm ngía một lúc, chợt mắt ông sáng ngời:
- Bảo vật. Bảo vật đây rồi.
Ông đưa trống ra, chỉ vào tang của nó:
- Trống này đúc vào niên hiệu thứ nhất vua Trưng 39. Khi vua Trưng thành đại nghiệp, ngài sai Tây-vu Thiên-ưng lục tướng đúc trống đồng. Lục-tướng đúc sáu cái lớn cho sáu tướng chỉ huy sáu đạo quân theo một khổ giống nhau. Sau đó lại đúc năm cái theo một khổ nhỏ hơn dành cho đô-đốc thống lĩnh thủy quân, đại tướng thống lĩnh kị-binh, đại tướng thống lĩnh ngự lâm quân, đại tướng thống lĩnh nỏ thần và đại tướng tổng trấn khu hồ Động-đình. Ngoài ra còn đúc trống cho các vị vương. Cái trống này là của Cửu-chân vương Đô Dương.
Ông chỉ vào mấy chữ khắc khắc ở tang trống:
- Đây là hàng chữ Cửu-chân vương, trống lệnh.
Chu Anh suýt xoa:
- Bang Hồng-hà gớm thực, làm sao họ có báu vật này.
- Họ cũng khôn ngoan đấy chứ. Họ biết tặng gì Trần huynh cũng không thích bằng cái trống này. Không biết bang chủ là người thế nào? Y tặng đàn cho huynh, kỳ thực nhờ huynh tặng Đào cô nương. Ngụ ý đó để tạ lỗi với cô nương đấy.
Bích-Lân uốn cong lưng ong, chắp tay:
- Tệ xá không xa nơi này làm bao. Chúng tôi mạo muội mời Trần đại hiệp cùng Chu tiên sinh ghé chơi, trước nghe hát, sau uống trà. Mong các vị đừng chối.
Tự-An gật đầu:
- Như vậy phiền nhị vị quá.
Hai con thuyền xuôi dòng nước, đến bến Long-biên, họ lên bờ. Nơi ở của Long-thành Song-phụng không xa bờ sông. Ngôi nhà nhỏ, nhưng xin xắn. Trước nhà có dàn hoa Dạ-hương, gió thoảng đưa thơm ngát. Một lão bà mình hạc xương mai, răng đen nhánh mở cửa mời khách. Bích-Lân giới thiệu:
- Đây là mẫu thân tôi.
Rồi nàng thuật cho mẹ nghe những gì đã xẩy ra. Lão bà nghe xong mỉm cười:
- Cách đây nửa giờ, có hai người tới, họ trao cho mẹ một bộ ấm tích, sáu chén pha trà với một bình trà sen. Họ bảo của Trần đại hiệp gửi tặng Đào cô nương. Thế thì...
Tự-An nhìn Hà-Thanh cười:
- Lại bang Hồng-hà rồi. Họ biết bà cụ thích uống trà ướp sen. Họ đem biếu bà cụ, để tạ tội với cô nương.
Hà-Thanh liếc sóng mắt nhìn Tự-An:
- Em thì họ có coi ra gì đâu? Họ biếu bà em, chẳng qua để nhờ em xin anh tha mạng cho họ. Anh chả từng đe giết hết bang chúng không từ con chó, con mèo đó ư?
Lão bà cũng như Long-thành Song-phụng thấy Hà-Thanh gọi Tự-An bằng anh xưng em, mà vẫn im lặng, không một lời cấm cản. Lão bà pha trà mời khách.
Tự-An cầm một tấm gấm, một tấm lụa trao cho lão bà:
- Duyên ca nhạc, chúng tôi được quen với Long-thành Song-phụng cùng Đào cô nương. Gọi là chút quà làm lễ diện kiến với lão bà.
Bà cụ không khách sáo, tay tiếp lụa, gấm, nói lời cảm ơn. Tự-An mở cái hộp nhỏ ra. Trong hộp có đôi vòng ngọc đỏ chói như mầu máu, một bông hoa đào, dính với hai lá và một quả. Hai quả với cành bằng vàng, còn lá thì bằng ngọc xanh mướt. Tự-An cầm lấy cài lên mái tóc Đào Hà-Thanh:
- Bọn Hồng-hà coi vậy mà được đáo để. Chúng tặng tôi, chứ sự thực để biếu cô nương.
Tự-An chợt nhớ ngày vợ ông qua đời trao cho ông chiếc vòng dặn rằng khi gặp người mà anh yêu thương, hãy đem vòng này tặng nàng. Tự nhiên hồn em biết anh định chọn người con gái ấy làm vợ kế. Em sẽ phù hộ cho hai người thành vợ chồng. Bây giờ gặp Đào Hà-Thanh, lòng ông rung động mãnh liệt. Ông cho tay vào ngực, móc ra cái hộp bọc nhung. Trong hộp đựng đôi vòng ngọc xanh biếc. Ông đeo vào tay Đào Hà-Thanh. Dặn:
- Cô nương đeo vòng này, thì luôn luôn được một người rất thiêng phù hộ cô nương.
Hà-Thanh cảm động:
- Đa tạ Trần đại hiệp. Để em hát cho anh nghe mấy bản nữa nhé. Anh có thích bản nào không?
Nếu hỏi về lịch sử cổ kim, hỏi về võ công, có lẽ thiên hạ không ai hơn Tự-An. Nhưng về âm nhạc thì ông mù tịt. Ông lắc đầu:
- Tùy Hà-Thanh. Hà-Thanh hát bản nào cũng được.
Hà-Thanh dạo đàn tranh, trong khi Bích-Lân cầm phách, Đào Phúc bưng trống bật lên. Nàng cất tiếng ngâm theo điệu Sa-mạc:
Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Ngồi cành trúc, dựa cành mai.
Phận em liễu yếu biết ai thương cùng.
Người kiếm khách qua chơi cùng khách,
Trên con thuyền, với bạn tri âm.
Gió trên sông, trăng sáng đêm rằm,
Vừa uống rượu vừa luận bàn kim cổ.
Thanh phong tiếu ngạo, anh hùng lộ,
Hồng thủy bi ai, mạt nữ thanh.
Một tiếng quát, một vung tay, đạo tặc khiếp kinh,
Phận nội cỏ hoa hèn được dựa bóng.
Vạn dặm gian nan, xin chàng bảo trọng,
Căn nhà tranh thiếp dựa bóng trông chờ.
Lòng này ngày nhớ đêm mơ.
Đại bàng tung cánh, phận thơ khóc thầm.
Bao giờ gặp lại tri âm?
Hết khúc hát, Đào Hà-Thanh tuôn hai giòng nước mắt. Tự-An nhìn lại thì Chu Anh, Long-thành Song-phụng cùng bà ngoại Hà-Thanh đã biến đi đâu. Đưới ánh đèn chỉ còn hai người. Thình lình Hà-Thanh gục đầu vào vai Tự-An:
- Ngày mai anh lên đường. Biết bao giờ trở lại. Anh ơi, gian nan vạn dậm, anh đừng bao giờ quên đêm nay nghe.
Tự-An dù có là thánh nhân, quân tử cũng không cầm lòng được. Ông ôm lấy Hà-Thanh. Trong khoảng rung động mãnh liệt, ông ghì sát người nàng vào ngực ông. Cứ như vậy, hai người lặng đi trong không biết bao nhiêu lâu. Tự-An vỗ lưng nàng:
- Em là đệ nhất danh kỹ đế đô. Còn anh chỉ là tên võ phu thôn dã. Anh không thể đem lại những gì em ước mơ được.
Đào Hà-Thanh nghiêng má đào, nhìn vào mặt Tự-An:
- Anh cũng dư biết rằng làm gái, luôn ước ao có tấm chồng cho xứng đáng. Người chồng xứng đáng trong cổ kim Đại-Việt mình không giống người quân tử của Khổng-Mạnh. Cụ Khổng bắt phải tam cương rồi ngũ thường. Còn tự cổ, đấng nam nhi Đại-Việt phải là người có đạo đức, chí khí, tài năng. Còn ngoại giả, xấu, đẹp, già, trẻ không quan hệ.
Tự-An thấy kiến thức Hà-Thanh rất rộng, mỗi lời nói của nàng, ông đều thấy hợp với mình. Ông ôm chặt Hà-Thanh hơn. Hơi thở của nàng thơm thơm. Không cầm lòng được, ông đặt lên môi nàng cái hôn. Hà-Thanh rung động mãnh liệt. Nàng như ngất đi trong tay ông.
Có tiếng chân người đi. ông vội buông nàng ra. Đào Phúc trở lại với Chu Anh. Trời về khuya, Tự-An nói với Đào Phúc:
- Tôi đồ chừng bọn Hồng-hà không dám làm khó dễ các vị nữa đâu. Mai tôi có việc đi xa, lúc trở về, sẽ ghé thăm các vị.
Long-thành Song-phụng tiễn đưa Tự-An, Chu Anh ra bến sông. Thình lình Đào Hà-Thanh cầm lấy tay Tự-An, nàng nắm thực mạnh, rồi bỏ chạy vào nhà.
Sau đêm đó, Tự-An lên đường đi Mê-linh. Suốt dọc đường, ông suy nghĩ:
- Thực khó mà hiểu những cử chỉ ôn nhu của Đào Hà-Thanh. Mình đang góa vợ, nếu muốn tục huyền thì cần người ở thôn dã, may mới có thể giúp mình một tay trong việc tề gia nội trợ. Đào Hà-Thanh là ca kỹ. Nàng với mình chẳng qua chỉ là hoa trong gương mà thôi. Khó có thể bắt nàng khép mình trong song cửa làm phu nhân được.
Thế nhưng trong suốt cuộc hành trình, hình ảnh Đào Hà-Thanh trang nhã, nhu mì luôn hiện lên trong tâm trí ông. Lúc trở về Thăng-long, việc đầu tiên ông tìm đến ngôi nhà bên sông thăm nàng. Khi ông vào, thì Long-thành Song-phụng đi vắng, chỉ có bà ngoại nàng ở nhà. Bà vừa trông thấy ông đã òa lên khóc, khóc thảm thiết, khóc không ngừng.
Ông kinh ngạc hỏi:
- Trong nhà có sự gì không hay xẩy ra rồi ư?
Bà lão vẫn khóc, trả lời ông bằng cái gật đầu. Ông hỏi tiếp:
- Bọn Hồng-hà đến gây truyện với Đào cô nương phải không?
Bà lão tiếp tục khóc. Bà nghiến răng rùng mình:
- Ông ơi, không phải bọn Hồng-hà. Khi ông đi rồi, bọn Hồng-hà vẫn thường cho người tới thăm gia đình chúng tôi. Nay họ biếu gà, mai họ biếu cá. Còn vợ chồng Phúc cùng con Hà-Thanh bỗng nhiên được các chủ tửu lầu trọng đãi cực kỳ. Họ trả lương gấp bốn lần. Trước đây, mỗi khi đi hát, Bích-Lân cùng Hà-Thanh thường hay bị thực khách trêu chọc. Chả hiểu bang Hồng-hà đã làm gì, mà tuyệt nhiên không ai giám trêu ghẹo nữa. Họ đồn rằng con Hà-Thanh sắp làm phu nhân Côi-sơn đại hiệp. Ai ai cũng kính trọng nó. Mà... mà ... nó tương tư đại hiệp ngày đêm. Chúng tôi những tưởng thôi thì nó có nhan sắc, lại có chút ít hoa tay. Đợi đại hiệp về qua, sẽ cho đại hiệp. Lấy chồng như vậy mới xứng tấm chồng. Nào ngờ...
Bà lão lại khóc thảm thiết hơn:
- Mấy hôm trước đây có chiếu chỉ vua ban ra tuyển mỹ nữ vào Hoàng-cung. Tổng số một trăm người, trong một trăm người sẽ tuyển lấy mười người nhan sắc, hoa tay, làm tỳ thiếp cho các vị thái tử. Thăng-long nộp mười mỹ mữ. Tên con Thanh đứng đầu sổ. Nó kêu gào, khóc lóc thảm thiết. Trong khi chín cô khác thì sung sướng vô cùng. Vì đang là con nhà dân, bỗng nhiên thành thiếp của các hoàng tử.
Bà vào nhà, lấy ra một gói bọc lụa đưa cho Tự-An:
- Trước khi nhập cung, nó khóc suốt đêm, rồi trao cho tôi gói này, dặn rằng thế nào đại hiệp cũng tìm nó. Khi đại hiệp đến thì đưa cho đại hiệp.
Tự-An cầm gói lụa trong tay, mà lòng cay đắng. Phút chốc ông nổi dậy mối phẫn uất:
- Mình có nên nhập cung cướp Đào cô nương ra không? Võ công mình cao, dễ gì vệ sĩ Hoàng-cung địch nổi?
Ông từ biệt bà lão ra về, lòng như chết đi một nửa. Ông mở gói ra, bên trong chỉ vỏn vẹn có cái khăn, bộ quần áo nàng mặc, hôm gặp ông lần đầu. Ngoài ra không có gì khác. Ông đưa bộ quần áo lên mặt, hít lấy hơi của nàng, tự than:
- Nàng được tuyển vào cung, thì với nhan sắc ấy, với tài đàn hát, chắc chắn sẽ được một trong các hoàng tử tuyển làm phi tần. Các hoàng tử đều còn trẻ, cuộc đời nàng mấy chốc thành vương phi? Như vậy rồi ngày một ngày hai nàng cũng sẽ quên mình. Bây giờ mình đột nhập vào cung cứu nàng, chưa chắc đã thành công. Mà dù có thành công, cũng mang tiếng cướp vợ người, võ đạo Lĩnh-Nam không thể tha thứ cho mình. Lại nữa, triều đình ắt cử binh về tàn phá Thiên-trường. Thôi đành chịu vậy.
Thế rồi ông ôm mối hận, mang bộ quần áo của Đào Hà-Thanh về Thiên-trường. Thời gian thấm thoắt đã hơn năm rồi, không ngờ, thình lình nàng lại xuất hiện.
Từ Thiên-trường tứ kiệt cho tới Thanh-Mai, Bảo-Hòa, Thiệu-Thái, không ai hiểu gì cả. Tự-An đoán rằng Đào Hà-Thanh từ trong cung trốn về đây. Mà tại đây, Mỹ-Linh hiện diện là công chúa. Nàng có kính trọng ông đến đâu cũng không thể bỏ qua việc một tỳ thiếp của cha nàng, hoặc chú nàng trốn đi. Vì vậy ông vẫy tay nói với các sư đệ:
- Các sư đệ với Thanh-Mai tiếp khách. Sư huynh có truyện riêng.
Ông dìu Đào Hà-Thanh trở về Thủy-các.
Nàng kể:
- Khi quan phủ Long-thành đưa em với chín con gái khác nhập cung. Chúng em được Hoàng-cung tổng quản tuyển chọn một lần. Sau lần đó đến quan Hoàng-môn chỉ hậu tuyển chọn, khám xét một lần nữa, cùng chín toán khác.
Nói đến đây mặt nàng đỏ lên, đầy bẽn lẽn. Tự-An gặng hỏi:
- Họ khám bệnh ư?
- Không. Nói ra xấu hổ chết đi được. Hai ông quan này làm thái giám. Ông Hoàng-cung tổng quản khám trước. Đầu tiên ông ta xem tóc, xem mắt, xem da, xem bàn chân bàn tay. Ông ta khen tóc em là tóc mây, ít có trên đời. Mắt em là mắt phụng, da mịn như sữa, bàn chân bàn tay thon nhỏ, xứng đáng làm mẫu nghi thiên hạ. Ông ta còn ngửi tóc, ngửi chân, ngửi nách. Sau khi khám đợt đầu thì tám mươi đứa bị loại. Chúng nó được chia cho các bà hoàng hậu, phi tần làm cung nữ. Vì chúng tuy đẹp, nhưng đứa thì bị loại vì nách, vì chân có mùi hôi. Có đứa bị loại vì răng. Cùng có đứa bị loại vì dáng đi thô kệch, vì tiếng nói thiếu thanh tao.
Nàng ngừng lại thở, rồi tiếp:
- Em cùng hai mươi đứa được tuyển trúng cách. Chúng em bị quan Hoàng-môn chỉ hậu khám lần nữa. Sau cùng, được ba bà hoàng hậu tuyển nhan sắc. Em cùng ba đứa nữa được coi là đủ mọi điều kiện. Khi tuyển về ca hát, thì một quan Hoàng-cung chỉ em nói: Cô nương đây là một ca kỹ bậc nhất Long-thành, không ai sánh kịp. Đức vua cùng Hoàng hậu quyết định chọn em gả cho Khai-quốc vương.
Nghe đến Khai-quốc vương, mặt Tự-An cau lại. Nhưng Hà-Thanh không chú ý đến thái độ của ông.
Đức vua nói với hoàng hậu:
- Bồ nhi tuổi gần ba mươi, mà chưa một mỹ nữ nào được lọt vào làm tỳ thiếp, chứ đừng nói làm vương phi. Ta hy vọng giai nhân này sẽ được Bồ nhi thu dụng. Đợi ít lâu sau, ta sẽ phong làm Khai-quốc vương phi.
Dù sao Thanh-Mai cũng là một thiếu nữ, khi đã là thiếu nữ thì thích tò mò vào chuyện yêu đương của người khác, huống hồ đây là bố mình. Thấy tỳ nữ bưng nước vào Thủy-các, nàng bảo nó :
- Để chị mang dùm em.
Rồi nàng rón rén vào Thủy-các, giữa lúc Tự-An vuốt vai Hà-Thanh:
- Khai-quốc vương là đấng anh hùng đời nay, lại nhã lượng cao trí, một mai ắt sẽ nối ngôi vua. Em được làm vương phi của người, hẳn sau này làm hoàng hậu, mẫu nghi thiên hạ. Em có mừng không?
Hà-Thanh dựa đầu vào vai ông, liếc mắt mỉm cười. Cái liếc mắt của một ca kỹ bậc nhất đế đô làm Tự-An sao xuyến đã đành. Đến Thanh-Mai mà cũng muốn say say. Thanh-Mai nghĩ thầm:
- Nàng này ngang tuổi với mình. Thử xem nàng đối đáp ra sao. Nàng bảo mừng chứ thì hóa ra nàng chẳng có tình nghiã gì với bố, chỉ lóa mắt vì ngôi vương phi. Còn nàng bảo không, thì thực là giả dối, khó mà qua được mắt bố mình.
Hà-Thanh nói sẽ:
- Em không có quyền mừng hay không mừng. Định mệnh đưa đẩy đến đâu hay đến đó. Một đứa khác gả cho Khai-Thiên vương, một đứa cho Vũ-đức vương. Hai đứa kia mừng lắm, vì phút chốc trở thành vương phi. Còn em thì lòng nguội lạnh, vì em chỉ biết có anh. Trong khi ai cũng bảo em có phúc.
Tự-An nghe nói càng nóng lòng:
- Thế rồi các ngài làm lễ cưới cho em với Khai-quốc vương?
Đào Hà-Thanh lắc đầu:
- Không. Luật lệ nội cung nhà Lý như sau: Mỗi khi đức vua tuyển mỹ nữ, thì những người đủ điều kiện, đều phải đưa đến Thái-miếu làm lễ tế, coi như được thu dụng làm tỳ thiếp trong Hoàng-cung hoặc trong các phủ thân vương. Đức vua giữ một vài người lại cho ngài. Còn lại, phân phát cho các thái tử. Bọn em cũng thế, sau khi lễ Thái-miếu, coi như là dâu con nhà vua. Đúng ra Khai-quốc vương đem kiệu rước em về. Nhưng vì người đi vắng, vì vậy hoàng hậu sai đưa em về phủ của vương. Trong các vương phủ khác, ông nào cũng có chính phi, năm sáu bà thứ phi và hàng chục mỹ nữ. Ấy là không kể tỳ nữ hàng trăm. Phủ Khai-quốc chỉ có tỳ nữ. Họ đều thuộc lứa tuổi già trên năm mươi. Người trẻ nhất bốn mươi bẩy tuổi, chính là vú Hậu, người đã nuôi vương hồi xưa. Vú được coi là người có địa vị lớn sau vương. Vương gọi vú bằng u gìa.
Đào Hà-Thanh nhìn Thanh-Mai như định hỏi gì, rồi lại thôi. Nàng tiếp:
- Vú tiếp đón em, gọi em là vương phi. Theo vú kể, em khó lòng được vương thu nhận. Vì trước em, có hàng trăm giai nhân do vua ban cho, vương chối từ đem trả. Chỉ năm trước, một tuyệt sắc giai nhân được tuyển cho vương. Vương ưng ý lắm. Nhưng đang khi động phòng hoa chúc, nghe giai nhân kể, nàng đã có một người yêu thương nàng hết tâm hết dạ. Nàng cũng cảm tình với người đó. Giữa lúc ấy thì nàng bị tiến cung. Vương nghe vậy ngồi dậy sửa sang y phục vái nàng tạ lỗi... rồi cho nàng về với người yêu.
Cả Tự-An lẫn Thanh-Mai đều bật lên tiếng kinh ngạc. Tự-An nghĩ:
- Mình nghe Khai-quốc vương là đấng anh hùng. Nhưng mình vẫn tự hào rộng lượng hơn y. Nay suy truyện này ra, mình muôn ngàn lần không bằng y.