Nghe Tự-Mai kể truyện, Thanh-Mai bàn:
- Khắp vùng này ai cũng than thở cho bà Phượng-Ánh, hồng nhan, bạc phận.
Tự-Mai muốn thử mấy bà chị. Nó hỏi:
- Nếu các chị là bà Phượng-Ánh, các chị sẽ xử sự ra sao?
Mỹ-Linh đáp ngay:
- Vợ chồng có hai vấn đề. Một là duyên, hai là nợ. Duyên-nợ không phải kiếp này, mà do muôn vàn kiếp trước đưa đến. Khi nghiệp diễn ra, mình tránh né, chống đỡ, khó mà thành. Mà tránh kiếp này, kiếp sau nó lại đến. Chi bằng chịu vậy.
Tự-Mai biết bà chị mình thâm nhiễm Phật pháp. Nó hỏi thêm:
- Không lẽ bà Phượng-Ánh xinh đẹp, đoan trang, mà suốt đời cứ phải chịu cái ách của tên khùng khùng, điên điên, ngu ngu, dại dại mãi sao? Sống bên cạnh một tên kinh tởm như vậy không thành điên, cũng thành khùng!
- Bởi vậy chị mới cho rằng đó là nghiệp quả.
Bảo-Hoà sống ở Bắc-biên, nơi cho phụ nữ nhiều quyền, lại không bị ràng buộc về Nho-giáo. Nghe Tự-Mai hỏi, mắt phượng chiếu ra sáng long lanh. Nàng nói:
- Truyện vợ chồng, hay truyện đời cũng thế. Con dun đạp mãi, cái đầu phải quằn. Mình càng nín nhịn, họ càng làm tới. Vì vậy mình phải tỏ ra mình không ngu. Dường như Nho-giáo có nói « Hiền quá thành ngu ». Xét cho cùng, bà Phượng-Ánh có nhan sắc, có học. Lại có tài kinh bang tế thế. Ngay trượng phu cũng hiếm người sánh bằng. Vì sinh ra trong gia đình giầu có, danh tiếng, bà phải cắn răng giữ gìn nề nếp. Tên Toàn có kim cương trong tay, tưởng đâu là cứt, ném đi.
Nàng đập tay xuống bàn:
- Thà nó vợ lớn, vợ nhỏ còn tha được. Đây nó đi tôn con dâm nữ, con ma đầu Anh-Trần làm sư mẫu. Mà cái con Anh-Trần giỏi giang cho cam. Nó chẳng có bản lĩnh gì. So với bà Phượng-Ánh, kém xa một trời một vực. Như vậy tên Qúi-Toàn điên khùng. Tại sao phải đem cuộc đời như ngọc, như ngà cho tên điên ấy? Ném nó vào chuồng hôi cho rồi. Chị như bà Phượng-Ánh, trình làng, xin bỏ tên Toàn. Thiếu gì đấng tài hoa đến cầu hôn. Ta lập lại cuộc đời.
Tự-Mai, Tôn Đản nghe Bảo-Hoà nói, hai đứa cười khoan khoái. Tôn Đản hỏi Thanh-Mai:
- Chị Mai! Còn chị?
Thanh-Mai đưa tay làm hiệu như thanh kiếm:
- Chị cho con mụ Anh-Trần một kiếm, vứt xác ra đồng cho quạ rỉa, diều tha. Còn tên Qúi-Toàn ư? Dù sao nó cũng từng làm chồng mình. Mình không thể, không nên giết nó. Chị trình làng, rồi đuổi nó khỏi nhà. Như vậy là yên thân.
Cả bọn bàn đến nhà sư trẻ.
Nghe nói đến nhà sư trẻ, Thanh-Mai tần ngần, thử điểm lại xem, trong môn phái Đông-a có thiếu niên nào giống nhà sư không. Nhưng trí óc nàng không sao tìm ra được. Nàng đoán mò:
- Em nghĩ xem có thể nhà sư đó chính là Lê Thiếu-Mai, con gái của Hồng-Sơn đại phu không?
Tự-Mai lắc đầu:
- Không phải! Phàm thiếu nữ phải có hương thơm bốc ra. Đây nhà sư có mùi khét khét của đàn ông. Vả nếu chị Thiếu-Mai, đời nào chị ấy dám ôm em như thế?
Mỹ-Linh hỏi:
- Thế hai em có xem trộm cuộc hội Vu-sơn đêm đó không?
Tự-Mai cười:
- Đố chị biết, bọn em có dự không đấy?
- Đố với hỏi! Chắc chắn có. Đản kể cho chị nghe đi. Hai em phá chúng ra sao?
Tôn Đản thuật:
- Vào lúc trăng lên, chúng em lần lại nhà mụ Anh-Trần. Hai đứa leo lên mái nhà dòm xuống. Căn nhà chia làm ba gian. Gian bên Đông do tên Qúi-Toàn tiếp khách. Gian bên Tây do mụ Anh-Trần tiếp khách. Gian giữa làm nơi hành lạc nên tối om. Mụ Anh-Trần son phấn khắp người, cười nói toe toét, chạy ra, chạy vô mồi chài tiếp khách. Khách của mụ toàn đàn ông. Già có, trẻ có. Còn khách của tên Qúi-Toàn lại toàn đàn bà. Mụ nào cũng trên sáu mươi cả. Mặt mũi trông gớm ghiếc. Lễ nghi tiếp khách của bọn Hồng-thiết giáo thực kỳ lạ.
Thuật đến đây, nó nhìn Tự-Mai. Hai đứa ôm nhau lắc đầu cười lăn, cười lộn. Cười hết, Tự-Mai thuật:
- Ngay cửa mỗi phòng ra vào, có ba tượng, do mụ Anh-Trần đắp. Đó là tượng Mã Mặc, Lệ Anh và Nhật-Hồ lão nhân. Mấy mụ già khú đế đại vương tới, đồng cúi đầu lạy ba tượng năm lạy. Rồi tên Qúi-Toàn hướng dẫn vào ghế ngồi. Trước khi một mụ ngồi, tên Qúi-Toàn quỳ gối, tay tốc váy mụ lên, rồi chui đầu vào trong. Không biết y làm gì, chỉ thấy đầu lắc lư hoài, mà mặt mấy mụ đưỡn ra. Lát sau mụ mới ngồi xuống.
Tôn Đản tiếp:
- Phía gian bên Tây. Mụ Anh-Trần kiểm điểm, thấy đủ ba mươi người. Mụ chạy sang gian bên Đông hỏi tên Qúi-Toàn: Đủ chưa. Thưa sư mẫu đủ rồi. Mụ trở về gian bên Tây. Vừa lúc đó bà Phượng-Ánh đẩy cửa bước vào.
Thanh-Mai kinh ngạc:
- Chắc bà đi tìm chồng. Anh-Trần thấy bà, mụ có run sợ không?
- Chị thử đoán xem.
- Ôi! Phường mèo mả gà đồng, thấy người chính chuyên như bà ắt sợ run người lên.
- Chị lầm rồi! Khi bọn Anh-Trần theo Hồng-thiết giáo, mụ coi truyện hành dâm tập thể thuộc hành vi đạo lý, giống như chúng ta ăn chay niệm Phật vậy. Mụ thấy bà Phượng-Ánh, vội le te chạy ra, miệng nói: Phượng-Ánh đấy à! Trời ơi em trẻ quá, em đẹp quá. Em vào đây. Rồi mụ nắm tay dìu bà ngồi xuống ghế. Bà nhìn thấy trong phòng đầy đàn ông, toàn loại du thủ, du thực, đầu trộm đuôi cướp, phát rùng mình. Bà hỏi Tôi muốn tìm chồng tôi. Mụ Anh-Trần léo nhéo :Trời ơi! Em trẻ quá. Thằng chồng em nó già quá rồi. Để chị kiếm cho em người tình. Mụ chỉ vào lão già đầu gáo không chút tóc nào, tuổi có lẽ trên bẩy mươi : Đây! Ông này khéo lắm cơ! Em mà làm tình nhân của ông, thì sướng vô cùng. Bà Phượng-Ánh vung tay tát vào mặt mụ Anh-Trần một cái, mắt phượng dựng ngược, mà mắng: Phường mèo mả gà đồng, mửa ra toàn lời dơ bẩn. Ta nhỏ hơn chồng tám tuổi. Đó là lẽ thường, có gì đáng so trẻ với già? Mi bảo chồng ta già, rồi dẫn dụ ta vào đường bất nghĩa với tên gần bẩy mươi ư? Dứt lời bà ôm mặt khóc, rảo bước đi ra.
Mỹ-Linh tò mò:
- Bà Phượng-Ánh đi ra rồi, mụ Anh-Trần nói gì với đám đàn ông?
- Tên Qúi-Toàn từ phòng bên kia chạy
sang hỏi tại sao có tiếng ồn ào như vậy? Đám đàn ông thi nhau nói :Mụ ác phụ vợ của mi mới đến. Thế rồi bọn đầu trộm đuôi cướp xúm vào nói xấu bà. Chúng bịa ra đủ truyện nào là bà ta ngủ với trai, nào là bà ta ăn cướp, chứ buôn bán gì mà mau giầu thế. Vậy mà tên Qúi-Toàn lắng nghe có vẻ khoan khoái lắm.
Tôn Đản tiếp lời Tự-Mai:
- Đến đó, có ba tiếng trống, đèn tắt hết. Trong mỗi phòng chỉ còn những nén nhang trên bàn thờ Mã Mặc, Lệ Anh, Nhật-Hồ chiếu ra. Bọn đàn ông, đàn bà quờ quạng sang căn buồng giữa. Mỗi tên đàn ông, túm một mụ đàn bà. Trong bóng tối không biết chúng làm những gì. Còn mụ Anh-Trần, mụ ra khỏi nhà cùng với một tên du thủ du thực đuổi theo bà Phượng-Ánh.
Thanh-Mai, Bảo-Hoà, Mỹ-Linh cùng bật kêu kêu:
- Ủa! Mụ đuổi theo, chắc chắn có truyện không hay cho bà.
Tôn Đản gật đầu:
- Đúng thế. Bọn em theo sát nút. Đến cuối thôn, chúng đuổi kịp. Tên du thủ du thực chặn trước mặt bà. Miệng nói :Con mụ kia, đứng lại. Bà Phượng-Ánh tỏ ra không sợ hãi. Bà hất hàm hỏi : Tên Đặng Đức-Cường kia! Vợ mi bị mụ Anh-Trần mối lái, bỏ mi, bỏ con mi theo tên Quang. Mi còn theo liếm gót mụ ư? Mi định làm gì ta đây?. Tên Đặng Đức-Cần trợn mắt cá quả lên : Mi đánh sư mẫu của tao. Tao muốn mi phải quỳ xuống tạ lỗi. Bà Phượng-Ánh nhổ bãi nước miếng vào mặt mụ Anh-Trần đến bộp một tiếng, gạt tên Đặng Đức-Cần ra bên cạnh, rồi đi.
Tên Đức-Cần nhảy tới túm tóc, còn mụ Anh-Trần dơ tay tát bà Phượng-Ánh. Song mụ vừa vung tay lên, chỉ thấy hoa mắt một cái, cả mụ lẫn tên Đức-Cần, mỗi người bị hai cái tát, ngã lăn ra đường.
Thanh-Mai bẹo tai Tôn Đản:
- Bịa! Bà Phượng-Ánh đâu biết võ công, mà đánh bọn chúng?
Tôn Đản nheo mắt trêu Thanh-Mai:
- Chị nóng tính quá. Chưa chi đã bẹo tai người ta. Ỷ làm chị, rồi bắt nạt trẻ con. Em không kể nữa.
Thanh-Mai xoa tai cho Tôn Đản:
- Thôi, Đản ngoan ngoãn hiền lành như khỉ đột. Đản dịu dàng như con hùm xám. Đản thơm tho như con quạ đen. Đản kể tiếp cho chị nghe đi.
Tôn Đản phì cười:
- Người ra tay đánh mụ Anh-Trần, cùng tên Đức-Cần là nhà sư trẻ ở trấn Thanh-hoá. Hai đứa thấy nhà sư, hồn vía lên mây. Chúng quỳ gối lạy ông như tế sao :Nam-mô đại Bồ-tát. Xin Đại Bồ-tát tha cho hai cái mạng kiến ruồi này. Nhà sư chỉ bà Phượng-Ánh nói :Ta muốn từ nay, mỗi lần hai đứa bay gặp bà này, phải cúi đầu hành lễ, cùng tránh đường cho bà đi. Nếu trái lệnh, ta sẽ khoét mắt, cắt lưỡi bọn mi. Hai đưa run lập cập, quỳ gối thề. Nhà sư bắt hai đứa lạy bà Phượng-Ánh đủ một trăm lậy, rồi mới tha cho đi. Bà Phượng-Ánh hành lễ với nhà sư : Sư phụ! Đây là lần thứ chín sư phụ giúp đỡ đệ tử. Đệ tử muôn vàn thọ ơn. Nói rồi bà xá nhà sư ba lần, nước mắt chảy dài, âm thầm đi về cuối thôn.
Tôn Đản tiếp:
- Bọn em nhảy ra hành lễ với nhà sư. Anh Đản thỉnh pháp danh. Nhà sư im lặng. Thình lình ông ôm lấy Tự-Mai. Ôm một lúc, ông cất tiếng khàn khàn nói : Ta yêu cầu hai chú một việc. Không đợi bọn em đồng ý hay không; ông tiếp : Hai chú sắp về Thiên-trường. Hai chú sẽ gặp Bảo-Hoà. Hai chú nhắn với nàng dùm ta rằng...
Đến đó Tôn Đản im bặt. Thanh-Mai, Bảo-Hoà bật lên tiếng kêu lớn:
- Thì ra nhà sư ấy.
Thanh-Mai trầm tư suy nghĩ. Còn Bảo-Hoà thì gương mặt hiện ra nét nhu mì, khi đỏ khi trắng. Hình ảnh nhà sư trẻ lên Bắc-biên giúp anh em nàng trị Địch Thanh. Ông bầy tỏ cảm tình với nàng. Rồi tại trấn Thanh-hoá, khi nàng bị Dư Tĩnh tấn công. Ông cứu nàng. Trong khi nàng với Thanh-Mai, Mỹ-Linh bị giam trong hầm đá. ông xông thuốc mê bọn Triệu Thành, rồi chép hết di thư. Sau đó ông dùng châm cứu trị bênh cho nàng. Rồi cũng chính ông hiện đến với nàng khi nàng bị Hồng-Sơn đại phu giam ở Vạn-thảo sơn trang. Nàng biết đây chỉ là thiếu niên danh gia đệ tử, võ công cực cao đeo đuổi nàng. Có điều ông ẩn trong lớp áo Như-Lai mà thôi.
Tôn Đản tiếp:
- Vị tiểu sư phụ nói : Dù ở phương trời nào, ta cũng theo nàng như bóng trăng. Rồi nhà sư tung mình biến vào đêm tối.
Bảo-Hoà bỏ ra khỏi phòng. Biết nàng đang rung động mãnh liệt vì tình yêu. Thanh-Mai để cho Bảo-Hoà tự do. Nàng hỏi:
- Rồi sao nữa?
Tôn Đản tiếp:
- Bọn em trở lại nhà mụ Anh-Trần. Bây giờ đèn nến bật lên sáng trưng. Cả bọn đàn ông, đàn bà đều ngồi im lặng nghe mụ Anh-Trần thuyết pháp. Mụ nói về đàn ông giao hoan với lợn, với dê cái. Đàn bà giao hoan với chó.
Thanh-Mai nhăn mặt:
- Bịa nào.
Thiệu-Thái ngồi im từ đầu đến cuối. Bây giờ chàng mới thêm vào:
- Có! Trong Hồng-thiết giáo thường diễn trò này. Tôi đã nghe Đỗ phu nhân kể. Chúng giao hoan cả với trâu, ngựa nữa.
Sau khi nghe kể truyện, Thanh-Mai vẫy Tự-Mai ra góc vườn hỏi:
- Bây giờ em có cách nào để bố cho chị em mình đi Thăng-long không?
Tự-Mai biết rõ mối nhu tình của chị với Lý Long. Suốt mấy tháng ở trong động Xuân-đài, Lý Long luôn mơ màng tưởng nhớ đến Thanh-Mai. Nó đoán Thanh-Mai muốn về Thăng-long gặp chàng. Tính tình trẻ con nổi dậy, nó giả tảng:
- Xa bố lâu ngày quá. Em phải ở cạnh bố để Thần hôn định tỉnh. Chị cũng vậy. Mẹ mất rồi, bố chỉ có mấy đứa chúng mình, mà chúng mình xa bố, làm bố buồn. Em không đi. Em không muốn xa bố nữa. Mình đi Thăng-long làm gì ?
Thanh-Mai thấy em đem đạo lý ra cản, nàng thở dài, trong lòng tự cân nhắc:
- Ừ, bố thương yêu chị em nàng không bút nào tả xiết. Nào nuôi nấng, nào dạy dỗ cực khổ trăm chiều. Nàng xa bố bấy lâu, bây giờ đâu dám mở miệng xin đi xa ? Nàng thử so sánh tình yêu giữa bố với chàng. Với bố, nàng vừa kính, vừa yêu, tình nghĩa thực thâm sâu. Với Lý Long, tình yêu thực mãnh liệt, như sóng vỗ, như lửa dậy.
Tuy vậy nàng tự biện luận:
- Anh cả bảo em về Thiên-trường rồi đi Thăng-long. Bây giờ em lại không muốn đi, bỏ mặc anh cả đối phó với bọn Tống sao ?
Tự-Mai méo miệng:
- Ừa! Được, thế em với Đản đi, còn chị ở nhà phụng dưỡng bố.
Thanh-Mai thấy từ xưa đến giờ, cậu em không một lần trái ý chị. Nay đột nhiên dở quẻ, nàng gắt lên:
- Cái thằng này. Liệu hồn !
- A! Đừng có làm tàng. Em phải năn nỉ chị, hay chị phải năn nỉ em nào? Đã vậy em nói hết mọi truyện với bố, chị đừng hòng ra khỏi nhà một bước.
Thanh-Mai biết thằng em đã đọc được ruột gan mình. Nàng nói sẽ:
- Thôi chị năn nỉ em.
- Không đủ. Năn nỉ nữa đi. Phải năn nỉ nhiều nhiều mới đã.
Thanh-Mai muốn nổi lôi đình. Song nàng tự biết mình đang ở thế yếu. Nếu cứ dùng quyền làm chị, không chừng thằng em lý lắc này còn bắt nàng phải chiều nó theo nhiều điều kiện khó khăn cũng nên. Nàng xuống giọng:
- Thôi chị năn nỉ Tự đấy! Mau ngoan. Từ nay muốn gì chị cũng chiều. Không bao giờ trái ý.
- Bây giờ em hỏi câu nào chị phải nói thực. Bằng không, em mách bố hết. Anh cả với chị đã có gì chưa?
- Có gì, nghĩa là?
- Ước hẹn với nhau chẳng hạn.
Thanh-Mai gật đầu. Tự-Mai đưa lưng ra:
- Đấm lưng cho em đi. Em sẽ bầy mưu cho.
Thanh-Mai đành nắm tay đấm lưng cho thằng em hay phá.
Tự-Mai nói sẽ vào tai Thanh-Mai:
- Nói với chị Bảo-Hòa, cho chim ưng gửi thư đến sư phụ. Sư phụ gửi thư cho bố nói rằng phải cho bọn mình đi đón Thanh-Nguyên. Khi thư tới, chúng mình xin đi có phải hợp tình, hợp lý không? Có vậy mà chị nghĩ không ra.
Nó ngâm Sa-mạc se sẽ:
Yêu nhau cởi áo cho nhau.
Về nhà bố hỏi, qua cầu gió bay.
Thanh-Mai lo lắng:
- Lỡ bố sai người khác đi thì sao?
Tự-Mai cười:
- Bố có bao giờ làm trái ý sư phụ đâu? Sao hồi này chị lẩn thẩn quá vậy! Nếu bố sai người khác, chị thú thực với chú Kiệt. Chú Kiệt nói một tiếng, gì mà chẳng được? Hoặc chị sợ chú Kiệt cười, thì em năn nỉ một lúc bố cho ngay. Chị yên tâm.
Thanh-Mai chợt nhớ ra, mỗi khi gặp điều gì bố nàng không đồng ý thì nàng với Thanh-Nguyên thường sai Tự-Mai năn nỉ. Dù bố nàng có khó khăn đến mấy, nó cứ lèo nhèo mãi, rồi ông cũng mềm lòng mà cho.
Thư Bảo-Hòa gửi đi đã hai ngày mà không thấy tin tức của Tịnh-Huyền viết cho Trần Tự-An. Thanh-Mai bồn chồn trong lòng, đứng ngồi không yên. Một hôm nàng đang cùng Thiệu-Thái, Bảo-Hòa, Mỹ-Linh luyện võ, kế mẫu cho người tìm nàng.
Thanh-Mai vốn không ưa bà kế mẫu. Nghe bà tìm mình, nàng đổ quạu:
- Có việc gì mà tìm đây? Sao lại kiểu cách thế này. Đến đây gặp mình mà cũng không dẫn xác được ư?
Nàng thay quần áo, đến phòng của bà.
Khi mẫu thân Thanh-Mai qua đời, thân phụ nàng tục huyền với một người con gái vùng Lịnh-yên. Mụ có nhũ danh là Phương. Khi Phương về nhà ngày đầu đã đụng chạm với Tự-Mai. Câu truyện thực giản dị. Thanh-Mai với em được bố dạy dỗ cực kỳ cẩn thận. Kiến thức cũng như võ công, không thể có người nào đồng tuổi so sánh kịp. Mụ Phương thì trái lại. Tuy xuất thân trong gia đình khá giả, nhưng mụ không được học nhiều, kiến thức quá hẹp. Đã vậy, mụ lại không tự biết mình, cũng chẳng biết người. Cứ luôn luôn lên mặt dạy khôn chị em Thanh-Mai. Vô tình để lộ cái dốt ra. Thanh-Mai lớn tuổi, nàng biết tự chế, nhỏ nhẹ cho Phương biết. Còn Tự-Mai, tính bồng bột, mỗi dịp như vậy nó bưng miệng cười. Thế là trong nhà có truyện. Mụ ta lăng nhục Tự-Mai. Nó định phản ứng. Thanh-Mai khuyên em:
- Tự không nên gây ồn ào trong nhà. Dù gì bà ấy cũng là vợ bố. Tự gây ồn ào, chỉ làm mất hạnh phúc của bố mà thôi.
- Hạnh phúc? Hừ! Bố bưng mụ về, cho có vợ. Mụ không biết tề gia nội trợ, cũng chẳng có nhan sắc. Bố hạnh phúc ở chỗ nào?
Người con lớn nhất trong nhà tên Thông-Mai, lớn hơn Thanh-Mai hai tuổi. Thông-Mai cực kỳ thông minh, võ công cao nhất trong đám đệ tử đời thứ nhì. Từ khi thân mẫu qua đời, ngoài thời giờ luyện võ, học văn, Thông-Mai đóng cửa tụng kinh, mong cầu cho mẹ siêu thoát.
Một hôm luyện võ trở về, chàng thấy mụ Phương từ trong phòng mình bước ra. Chàng ngăn lại hỏi:
- Cô vào đây làm gì?
- Nhà này, tao muốn đi đâu mặc tao. Mày không có quyền hỏi.
Thoáng một cái, Thông-Mai thấy tượng thờ mẹ mình bị hai cái kim đâm vào giữa trán với tim. Không tự chủ được, chàng tát mụ một cái, gẫy bốn cái răng hàm.
Sau cơn nóng giận, biết việc chẳng lành, chàng viết thư để lại cho bố, rồi lẳng lặng ra đi. Khi Tự-An trở về, ông nổi giận, định đuổi mụ Phương khỏi trang, các sư đệ can gián mãi, ông mới bỏ qua. Từ đấy trong nhà không ai dám nhắc đến tên Thông-Mai nữa.
Một lần sắp đến tết Nguyên-đán, Tự-Mai xin bố mấy món quà đem biếu thầy đồ dạy chữ của nó. Đại hiệp Tự-An bảo:
- Tết thầy mà chỉ có món quà nhỏ vậy thôi ư? Phải dâng một lễ sao coi cho được. Con định tết gì nào ?
Tự-Mai xấu hổ mói:
- Con tết thầy cặp gà trống thiến, cặp bánh chưng, cặp rượu tăm.
Tự-An lắc đầu:
- Không đủ. Đối với học trò khác tết như vậy coi được rồi. Con là con bố. Nhà mình khá giả, phải tết lớn hơn.
Ông sai Thanh-Mai chuẩn bị, một gánh gạo thơm, cặp gà trống thiến, rượu tăm hai cặp, bánh chưng ba cặp, trà sen ba cân. Thân phận ông cao biết chừng nào, thế mà ông đích thân cùng người nhà đến tết thầy đồ.
Khi trở về, mụ Phương không dám nói gì với chồng. Mụ cằn nhằn Tự-Mai:
- Thầy đồ ăn lương vua, dạy học là bổn phận của thày. Việc gì phải bầy ra tết với nhất. Rõ lắm truyện.
Tự-Mai nổi cơn điên lên:
- Con học thầy suốt mấy năm qua, năm nào cũng tết thầy, đó là lễ nghi Đại-Việt. Đành rằng thấy ăn lương của vua, nhưng lương đó dù gấp vạn lần cũng không xứng đáng công ơn của thầy. Quà con tết thầy, chẳng qua để làm cho thầy vui lòng, chứ không thể nói rằng báo đáp công ơn. Cô đã không biết đạo lý, thì đừng đem cái không biết bắt người khác theo.
Mụ Phương như không nghe lời Tự-Mai nói. Mụ tiếp tục:
- Thì ra mày muốn làm thầy vui lòng, như vậy mày nịnh thầy rồi. Đẹp mặt chưa ?
Tự-Mai lại lý luận:
- Nịnh như con dao. Biết xử dụng rất tốt. Không biết xử dụng cực xấu. Làm người dưới, nịnh người trên, để hưởng ân huệ vô ích thì xấu. Còn học trò nịnh cho thầy vui lòng là phát xuất tấm lòng hiếu thảo, cần phải nên nịnh. Hè...hè . Con chỉ sợ không có dịp làm cho thầy vui thôi. Ngày xưa ông lão Lai tám mươi tuổi, giả bộ múa hát, rồi ngã lăn ra, ôm mặt khóc, khiến bố mẹ vui cười. Đức hiếu đó nay sử sách còn ghi. Thầy còn nhớn hơn bố. Phải làm cho thầy vui chứ. He... he!
Đại để, bất cứ truyện gì mụ Phương cũng kiếm truyện với Tự-Mai, khiến nó như ngồi trên gai, không bao giờ yên ổn cả. Trong nhà lúc nào cũng căng thẳng. Sau mỗi lần cãi nhau, Tự-Mai lại phải nhịn nhục cho êm nhà, khiến bố khỏi buồn.
Nhưng mụ Phương cứ tìm đủ cách nói xấu nó với bố, với các đệ tử trong trang. Khổ một điều khắp trang ai cũng biết tính Tự-Mai từ lâu. Nó vốn hiền, hay giúp đỡ người, không gây gổ với ai. Ai gây, nó cũng chỉ cười xòa. Nay nghe mụ Phương bịa đặt, họ cười rồi bỏ qua.
Mụ ta xoay ra nói xấu nó với chồng. Đại hiệp Tự-An là người cực kỳ minh mẫn. Lúc đầu ông nghe vợ nói, cứ ậm ừ cho qua. Sau bà nói nhiều quá, ông bực mình:
- Trong nhà này, bà muốn làm gì thì làm, còn thằng Tự-Mai, bà để mặc tôi. Con tôi đẻ ra, nuôi bấy nhiêu năm tôi lại không hiểu nó bằng bà ư?
Từ đấy ông thương Tự-Mai hơn thế thường. Ông cho rằng vì mình tục huyền, khiến cho con gặp phải cái gai bên mình. Một lần giữa ngày tết Nguyên-đán, ông cùng cả nhà đi lễ chùa. Lúc ra về, Tự-Mai lẻo mép nói:
- Bố, con được hòa thượng mừng tuổi cho một đồng với quả quýt. Hòa thượng bảo lộc Phật, ăn vào tâm tình thư thái, tránh ma quỉ ám hại. Bố có được mừng tuổi không ?
Mụ Phương cắt lời nó:
- Bố mày không ám hại ma quỷ thì thôi, chứ ma quỷ nào hại được bố mày?
Thấy đầu năm vợ đã nói ra điều khinh bạc, Tự-An chỉ đưa con mắt nghiêm khắc nhìn vợ, không nói gì. Tự-Mai biết bà dì ghẻ thiếu giáo dục về cách ăn nói, ngu tối về Phật giáo. Nó cười xòa, nói với mụ, muốn nhân dịp mở mắt cho bà dì ghẻ:
- Không phải vậy đâu cô ơi. Trong kinh Phật nói đến ma quỷ, tức nói đến cái tâm. Khi tâm trong sáng thì pháp nảy sinh. Khi tâm u tối thì ma quỷ hiện. Kinh Phật chả từng nói «Hết thảy pháp đều không có. Hết thảy chúng sinh đều vô hình» đó sao? Hòa thượng mừng tuổi quả quýt, ngụ ý mang cái hạnh của nhà Phật giúp tâm mình trong sáng, chứ có phải bùa phép đâu?
Nói rồi nó bóc quả quýt, một nửa đưa cho bố:
- Bố ăn lộc Phật đi.
Tự-An cảm động về lòng dạ của con, ông cầm nửa quả quýt ăn ngon lành. Nửa còn lại, Tự-Mai đếm được bốn múi. Nó cầm một múi đưa cho mụ Phương, một múi đưa cho Thanh-Mai, một múi cho Thanh-Nguyên. Còn một múi nó cầm trên tay. Nó nói:
- Múi dành cho chị Thanh để xua đuổi quỉ A-tu-la. Loại quỉ này thường làm cho người ta hay nổi giận. Mà chị Thanh năm vừa qua A-tu-la nó phá quá, nên gắt với em hoài.
Thành-Mai vui vẻ cầm múi quýt bỏ vào miệng ăn, nàng tát yêu em:
- Cảm ơn thằng xạo.
Tự-Mai lại nói với Thanh-Nguyên:
- Múi dành cho Nguyên để trừ Ngạ-qủi. Kinh Hoa-nghiêm nói: Ăn năm thứ rau cay, sẽ bị Ngạ-quỉ liếm môi. Con bé này chuyên ăn tiêu, chắc chắn Ngạ-quỉ liếm môi nhiều lần. Ăn múi quýt này để trừ Ngạ-quỉ.
Thanh-Nguyên đấm sẽ vào lưng anh:
- Anh ăn ớt còn nhiều hơn em, không biết quỷ nó có cắn môi anh không?