Trưng Nhị thấy chưởng của y hùng hậu, tinh diệu, nàng không đỡ vội, vọt người sang bên trái tránh. Trương Linh quát một tiếng vung chưởng lên cao, dồn hết chân khí đánh xuống. Thế chưởng của y hung dữ, xoay tròn, bụi bay mịt mù. Trưng Nhị nhảy lui liền hai bước. Tay phải phát chiêu, tay trái biến thành chảo, đó là chiêu Ngưu hổ tranh phong trong Phục ngưu thần chưởng. Bùng một tiếng, người nàng lại vọt lên cao. Trưng Nhị vốn dĩ thích mặt áo trắng, dây lưng vàng như Phương-Dung. Bây giờ nàng ở trên cao, mượn sức hai chưởng vọt lên như chiếc pháo thăng thiên, trông đẹp vô cùng.
Quang-Vũ cũng phải xao xuyến trong lòng:
- Gái Việt đẹp thật, hèn chi khi xưa Ngô Phù Sai chẳng bị mất nước vì Tây-Thi. Tại sao trong hậu cung mình lại không có những người như thế này?
Trương Linh thấy Trưng Nhị đánh ở trên không một chưởng mạnh như vũ bão, khiến y tê dại cả chân tay. Y chưa kịp phát chiêu đánh tiếp, Trưng Nhị đã tà tà đáp xuống bên cạnh. Nàng xoay mình đánh ra một chưởng từ phải vòng ra sau sang trái, đó là chiêu Ngưu ngọa ư sơn trong Phục ngưu thần chưởng. Chiêu này vừa trầm, vừa mãnh liệt. Trương Linh vung tay đỡ, binh một tiếng, cả hai cùng lui lại. Trưng Nhị là người tuyệt thế thông minh mượn sức lui trở lại, nàng chuyển chưởng thành một dây, từ sau về trước đúng lúc Trương Linh vọt đến tấn công. Chưởng này là chưởng Cửu-chân, hôm ra đảo Đào-hoa, bà Đào Thế-Kiệt đã dạy nàng. Thế chưởng nhàn nhã, gió phát ra nhẹ nhàng, làm y phục nàng bay phơi phới, trông đẹp không thể tưởng tượng được. Trên từ Quang-Vũ xuống đến các quan ai cũng xuýt xoa.
- Gái Việt có khác, đẹp thực!
So về sắc đẹp với Phương-Dung, Tường-Quy, Thiều-Hoa thì Trưng Nhị không thể nào sánh bằng. Nhưng khi đấu võ, thân pháp nàng làm cho quần áo, dây lưng, khăn choàng cổ bay lượn. Tạo thành một hình ảnh đẹp, như tiên nữ múa khúc nghê-thường.
Hai người quấn lấy nhau giao chiến. Trương Linh thì trầm trọng, chưởng lực rất hùng hậu. Còn Trưng Nhị phiêu phiêu, hốt hốt. Nàng dùng toàn võ công Tản-viên. Đấu được trên trăm hiệp. Các võ tướng mới thấy khâm phục Trương Linh võ công kinh người, họ tự nghĩ: Bản lĩnh y như vậy, hèn chi Quang-Vũ không dùng y làm cận vệ. Nhưng dù y tấn công cách nào chăng nữa, cũng không thắng được Trưng Nhị.
Trước đây Phong-châu song quái làm việc dưới quyền Nghiêm Sơn một thời gian. Vì vậy Vương hiểu rất tường tận võ công Tản-viên. Vương đã có dịp trắc nghiệm võ công Song-quái, thấy công lực chúng thấp hơn Vương một bực. Còn ngoại công, chúng biết có 12 chưởng Phục ngưu. Phục-ngưu thần chưởng tinh diệu thì có tinh diệu. Song đánh từng chưởng rời rạc, kết quả lại không đạt được trình độ tối cao. Khi Song-quái phản sư môn, võ công chúng do Lê Đạo-Sinh truyền dạy, cao hơn sư phụ là Nguyễn Thành-Công một bậc.
Hôm nay thấy võ công Trưng Nhị, công lực của nàng dường như cao hơn Song quái, không kém gì Vương. Đó là một điều khiến Vương ngạc nhiên. Điều Vương ngạc nhiên thứ nhì, là nàng xử dụng đủ 36 chiêu Phục ngưu thành một dây, không còn một chỗ sơ hở nào để phản công.
Thoáng một cái Vương đã tìm ra nguyên lý. Sở dĩ võ công Trưng Nhị đạt đến mức này là do Đào Kỳ đã dạy nàng nội công tâm pháp và 36 chưởng Phục ngưu mà y đã học được ở trong gậy đồng.
Vương nghĩ thầm:
- Đào sư đệ quả là người tính tình hào sảng rộng rãi. Thấy y dạy Phục ngưu chưởng pháp cho Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, ta tưởng y với hai cô nhỏ này là bạn thanh mai, trúc mã, y dạy để chiều lòng. Thì ra y dạy cả Trưng Nhị nữa. Người trong võ lâm, khi mình phát minh hoặc tìm kiếm được võ công kỳ lạ, thường giữ làm của riêng, chỉ dạy cho đệ tử thân tín con cái mà thôi. Ít khi dạy cho người ngoài.
Cơ duyên may mắn, Đào Kỳ được bộ Văn lang võ học kỳ thư, chàng nghĩ đây là công trình tâm huyết của tổ tiên để lại. Chàng trao cho Khất đại-phu. Khất đại-phu luyện tập dạy lại cho Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế, Đặng Thi-Sách, nhị Trưng, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa.
Phục-ngưu thần chưởng kỳ diệu ơ¨¨û chỗ người công lực yếu hay mạnh đều xử dụng được. Nếu xử dụng từng chiêu chỉ có sức mạnh mà thôi. Còn nếu học được 36 chiêu, chưởng lực biến thành một thứ tường đồng vách sắt bao trùm lấy người, đối phương không sao tấn công được.
Hai người đấu với nhau đến hiệp thứ hai trăm, Phật-Nguyệt hỏi Khất đại-phu:
- Thái sư thúc, xin người chỉ cho Trưng sư tỷ cánh thắng Trương Linh. Vì sợ đấu lâu, thì người Hán biết võ công mình thì khó thay.
Khất đại-phu với Phật-Nguyệt nói bằng tiếng Việt. Những người có mặt ở đó chỉ Nghiêm Sơn là hiểu.
Khất đại-phu quan sát trận đấu. Ông là đại tôn sư võ học, liếc qua ông cũng biết tình hình. Ông là thầy thuốc, không muốn chém giết người, mà cũng chẳng còn hiếu thắng. Đối với ông, Trưng Nhị thắng cũng thế, mà Trương Linh thắng cũng vậy. Ông không quan tâm cho lắm. Ông biết Quang-Vũ dàn cảnh cho Trương Linh đàn hạch Nghiêm Sơn. Trưng Nhị có thắng cũng chẳng đi đến đâu. Tuổi tác của Trưng Nhị còn nhỏ hơn Trương Linh 20 năm luyện tập, nàng có thua Trương Linh cũng là sự thường.
Ông lơ đãng nhìn khắp điện Vị-ương. Khi Phật-Nguyệt nhắc, ông quan sát trận đấu thấy Trưng Nhị muốn thắng Trương Linh mà không nổi. Ông nghĩ: Ừ thì để con nhỏ này thắng Trương Linh cho nó vui lòng.
Ông lại nghĩ: Chưởng pháp Tản-viên của Trưng Nhị tinh diệu. Nhưng công lực không đủ phát huy để đàn áp Trương. Muốn đàn áp Trương Linh phải dùng võ công Cửu-chân.
Ông tủm tỉm cười, quan sát, dự đoán tình hình hai bên, rồi thình lình lên tiếng:
- Ngưu hổ tranh phong, Loa thành nguyệt ảnh.
Trưng Nhị đang đấu với Trương Linh thấy Thái sư thúc hô như vậy, nàng dùng hết sức ra chiêu Ngưu hổ tranh phong trong Phục ngưu thần chưởng. Hai chưởng đánh mạnh về phía trước. Trương Linh chụm hai tay đỡ. Hai chưởng của nàng và y chạm nhau. Người nàng vọt lên cao. Từ trên cao nàng chuyển chưởng thành chiêu Loa thành nguyệt ảnh của Cửu-chân đánh xuống.
Trương Linh tưởng nàng đưa ra chưởng dương cương như trước, vung chưởng đánh lên, thì chiêu Loa thành nguyệt ảnh chụp xuống người. Bốn chưởng chạm nhau. Chưởng pháp Cửu-chân khắc chế võ công Trung-nguyên. Chưởng của Trưng Nhị đánh xuống, khiến Trương Linh bị bật vèo về phía sau đến mấy trượng, chân tay bủn rủn lảo đảo chực ngã. Trưng Nhị là người thông minh mưu trí bậc nhất thời Lĩnh Nam. Nàng thấy Trương Linh bị tuyệt căn bản, bước xéo về phải đánh chiêu Thiết kình thăng thiên, tiếp theo chiêu Kình ngư quá hải, đều là hai chiêu thuộc võ công Cửu-chân mà Đào phu nhân dạy nàng. Trương Linh thấy hai chiêu chưởng bao hàm khắc tinh với mình, sát thủ ác liệt. Y vội hít hơi đẩy ra một chưởng đỡ. Chưởng của y chạm vào chưởng của Trưng Nhị, y cảm thấy như tay đẩy vào quãng không. Biết nguy hiểm, y nhảy vọt lên cao, thì chiêu Kình ngư quá hải đã bao trùm khắp người. Cả triều thần thấy vậy đều kêu thét lên kinh hoàng. Những cao thủ bậc nhất muốn ra tay cứu cũng không kịp. Thiết kình phi chưởng là chưởng pháp đánh ra kình lực như mũi dao đâm vào. Trương Linh nhắm mắt chờ chết, Trưng Nhị thấy giết y thì gây oán thù không nhỏ với triều Hán. Nàng nhảy lùi lại đến bốn bước để giảm bớt sức mãnh liệt của chưởng này. Trương Linh chỉ còn bị có hai phần công lực đánh vào đầu gối. Y rơi xuống đất đầu gối nhũn ra, người chúi về phía trước, giống như quỳ lạy Trưng Nhị. Trưng Nhị nhanh trí, thu chưởng, rồi nhảy lại đỡ y dậy. Nàng cười tủm tỉm:
- Trương hiệu-úy! Đa tạ ngài đã nhẹ tay.
Trên từ Quang-Vũ xuống đến các quan đều nghĩ rằng lời nói của Khất đại-phu chắc bao hàm một bí ẩn gì giúp Trưng Nhị thắng Trương Linh. Nhưng họ không có chứng cớ đành im.
Trưng Nhị hướng Quang-Vũ bái rồi nhảy ra khỏi vòng đấu.
Nghiêm Sơn tâu với Quang-Vũ:
- Tâu bệ-hạ Trưng cô nương là quân-sư đạo Kinh-châu, chứ không phải là võ tướng. Sở dĩ Trưng cô nương biểu diễn được mấy chiêu vì cô nương học phòng thân mà thôi. Cuộc đấu vừa qua Trưng cô nương được Trương hiệu-úy nhường cho mấy chiêu.
Quang-Vũ kết huynh đệ với Nghiêm Sơn. Đã từng ăn cùng mâm ngủ cùng giường, y còn lạ gì tính tình của Vương nữa. Vương nói câu đó là khiêm nhường, vuốt mặt cho Trương Linh, nhưng đầy kiêu khí. Bảo rằng Trưng Nhị học mấy chiêu phòng thân, mà đã như thế. Nếu nàng học thực, võ công sẽ đi đến đâu? Vương lại vuốt mặt cho Trương Linh bằng câu nhường cho mấy chiêu.
Một lão già từ võ ban ra phục xuống đất tâu:
- Tâu bệ-hạ, võ công Trưng cô nương cao cường, tinh diệu thì đúng rồi. Thần nghe Vũ Chu kiếm pháp thần thông mà cô nương Phật-Nguyệt thắng được y, thần không tin. Xin bệ-hạ cho phép thần được qua lại mấy chiêu với Phật-Nguyệt.
Nghiêm Sơn nhìn ra thì là Thái-sơn thần kiếm Lưu Quang. Lưu Quang nguyên thuộc tôn thất nhà vua. Cha ông nguyên là Sở-vương, ham võ nghệ, đi khắp thiên hạ chiêu mộ những tay kiếm khách về, để học lấy những chiêu thức đặc biệt. Rồi từ đó sắp xếp thành hệ thống, tạo ra phái Thái-sơn. Cha của ông về ẩn ở Thái-sơn, lập môn hộ luyện tập võ nghệ. Đến đời Lưu Quang, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Lưu Quang xách kiếm phò Quang-Vũ đánh Vương Mãng, Ngỗi Hiêu rồi Xích Mi. Xích Mi nguyên là một kiếm khách khét tiếng Trung-nguyên, được tôn hiệu là Bất bại thần kiếm. Bởi vậy lúc đầu y dấy nghĩa ở vùng Lũng-thượng, tranh dành ngôi vua với Vương Mãng. Sau khi Vương Mãng bại, y tự tôn mình làm vua chống nhà Hán. Quang-Vũ sai Lưu Quang mang quân chinh tiễu. Xích Mi cùng Lưu Quang đấu ba ngày, ba đêm không phân thắng bại. Lưu Quang về suy nghĩ nửa tháng, tìm ra cách phá phi kiếm của Xích-Mi, rồi đánh bại y.
Kiếm pháp của Lưu Quang được coi là vô địch Trung-nguyên. Bất cứ đấu với ai, y chỉ đánh một hai chiêu là đối thủ mất mạng. Y hiện được phong tước Hoài-nam vương, trấn thủ vùng Lạc-dương, tức kinh-đô nhà vua. Trước đây Nghiêm Sơn đã đấu với y. Chỉ 10 hiệp đã bị đánh bay mất kiếm. Nghiêm đành chịu thua.
Bây giờ nghe Lưu Quang nói muốn đấu với Phật-Nguyệt, Vương nghĩ:
- Hiện kiếm pháp cao nhất Lĩnh-nam là Nguyễn Phan tiên sinh, thì ông bị tật. Thứ đến Đào Kỳ, Phương-Dung, Phật-Nguyệt, khó biết ai cao, ai thấp. Không hiểu Phật-Nguyệt có đủ công lực đấu với Lưu Quang hay không?
Vương nói với Phật-Nguyệt:
- Sư muội! Người là thừa kế của Vạn-tín hầu. Vậy người hãy dùng Long-biên kiếm pháp đấu với Hoài-nam vương mấy chiêu. Hy vọng vương-gia dạy cho muội những chiêu kiếm tinh kỳ.
Phật-Nguyệt đi theo đạo Kinh-châu, được nghe nói nhiều đến Lưu Quang. Đặng Vũ nói đến Lưu Quang không ngớt lời ca tụng. Nay thấy y thách nàng đấu thì không khỏi lo ngại. Tuy nhiên nàng tự nghĩ rằng. Long-biên kiếm pháp là kiếm pháp của sư tổ Vạn-tín hầu Lý Thân. Mà Lý Thân chế ra để khắc chế với kiếm pháp Trung-nguyên, nàng tự tin phần nào.
Phật-Nguyệt bước ra sân với hai tay không, nàng tâu:
- Khi tiểu nữ tới đây bệ kiến thánh-hoàng, không dám mang kiếm theo.
Quang-Vũ truyền đưa 18 loại kiếm để nàng lựa. Phật-Nguyệt lựa một thanh nhỏ và dài nhất giống như kiếm Việt. Nàng cầm kiếm hướng vào Quang-Vũ bái một bái, rồi lại hướng Lưu Quang hành lễ.
Nàng nói:
- Hoài-nam vương gia! Tiểu nữ mới được sư phụ truyền nghề. Thời gian luyện tập không được bao lâu. Xin vương-gia nhẹ tay cho.
Quang-Vũ bảo Lưu Quang:
- Hoàng-thúc xin nhẹ tay với nàng một chút.
Lưu Quang vung kiếm lên. Ánh kiếm thành cầu vồng như điện xẹt, mọi người lóa con mắt. Tiếp theo y đánh trên 10 chiêu, kiếm quang bao trùm lấy người Phật-Nguyệt.
Phật-Nguyệt là học trò yêu của Nguyễn Phan, chưởng môn phái Long-biên. Ông đã dốc túi truyền cho nàng. Khi nàng thấy Lưu Quang vung kiếm như đe dọa, thì biết đó là những hư chiêu. Nàng không đỡ, không rút kiếm ra khỏi vỏ.
Đợi Lưu Quang đánh hết mười mấy hư chiêu, nàng mới xoay tròn kiếm đẩy nhẹ vào ngực y rất nhẹ nhàng.
Lưu Quang ngơ ngác, tự hỏi kiếm pháp gì mà kỳ lạ thế này?
Y đợi kiếm của nàng tới ngực, mới đưa tay định bắt. Nhưng kiếm nàng bật đánh véo một cái đưa vào cổ y. Lưu Quang tuyệt không ngờ trên đời có kiếm pháp quái dị như vậy. Y bật ngửa người ra sau tránh, thuận đà lộn đi một vòng. Nhưng Phật-Nguyệt di chuyển thân hình. Khi y đáp xuống đất, mũi kiếm lại đâm vào ngực y.
Muốn đưa kiếm gạt, sợ không kịp, y nín hơi vọt lên không tránh thế kiếm ác liệt đó. Thì nghe tiếng xoạc, áo trước ngực y bị rách một đường dài.
Quang-Vũ cùng quần thần kêu lên:
- Chết!
Lưu Quang ở trên không, khua kiếm dưới chân đề phòng nàng đuổi theo. Nhưng khi y đáp xuống thì Phật-Nguyệt ôm kiếm đứng cách xa chỗ y mấy trượng, thản nhiên như không có gì xảy ra.
Phật-Nguyệt là người trầm tĩnh, ít nói, mặt hơi lạnh lùng, nhưng dáng người xinh đẹp. Qua mấy chiêu kiếm vừa rồi, ai cũng tưởng nàng sẽ hò hét hay tấn công tới. Nhưng nàng chỉ cầm kiếm đứng tần ngần, kiếm vẫn chưa rút ra khỏi vỏ.
Bấy giờ Lưu Quang mới nhớ lời phụ thân khi ông dạy kiếm pháp cho y:
- Cách nay hai trăm năm, một kiếm khách Âu-lạc sang đấu với võ sĩ của Tần Thủy-Hoàng. Y đấu trong một tháng liền, thu thập các chiêu thức của Trung-nguyên rồi tước bỏ bớt đi, chế ra một thứ kiếm pháp khắc chế lại. Vì vậy sau này Đồ Thư sang đánh Âu-lạc. Bất cứ các tướng sĩ dùng chiêu thức gì đấu với ngươi Âu-lạc chỉ một hai chiêu là mất mạng.
Nghĩ vậy y lên tiếng hỏi:
- Cô nương, phải chăng cô nương là con cháu của Vạn-tín hầu Lý Thân?
Phật-Nguyệt lễ phép:
- Vạn-tín hầu là sư tổ của tiểu nữ.
Lưu Quang bấy giờ mới tỉnh ngộ, tự nhủ:
- Chết thật, thì ra thế. Hèn chi những chiêu thức của con bé này đánh ra, chiêu nào cũng bao hàm sát thủ, khắc chế với kiếm pháp của ta. Ừ thì Vạn-tín hầu là người, ta cũng là người, ta không nghĩ ra chiêu thức để thoát vòng kềm chế của Lĩnh-nam kiếm pháp ư?
Nghĩ vậy Lưu Quang vận sức vào kiếm, phóng ra những chiêu thức cực kỳ hùng hậu, kiếm chiêu veo véo. Phật-Nguyệt chuyển thân vung kiếm đánh lại. Có điều chiêu thức Lưu Quang dũng mãnh, đánh là đánh. Còn chiêu thức của Phật-Nguyệt hư hư, thực thực, đâm bên phải đấy nhưng bất thần vọt lên trên. Đang bên trên lại chuyển ra phía hông. Thành ra Lưu Quang cứ phải nhảy nhót tránh né, hao rất nhiều chân lực.
Các võ quan đứng ngoài lúc đầu còn phân biệt được Lưu Quang, Phật-Nguyệt công hay thủ. Nhưng dần dần họ chỉ thấy hai quả cầu bạc bao trùm lấy hai người. Lưu Quang vọt lên cao, nhảy xuống đất. Còn Phật-Nguyệt phiêu phiêu, hốt hốt, khi phải khi trái.
Đấu với nhau trên 200 hiệp, Phật-Nguyệt đã tìm ra nguyên lý kiếm thuật của Lưu Quang. Y dùng kiếm khí nhiều hơn kiếm chiêu. Còn nàng thì dùng kiếm chiêu. Lưu Quang dùng dương cương, còn nàng thì dùng âm nhu. Nàng thấy tất cả cái sơ hở của y. Kể ra muốn giết y thật không khó khăn gì. Là đệ tử của Nguyễn Phan tính tình hiền hòa. Nàng thấy Lưu Quang là hoàng-thúc tước phong tới Hoài-nam vương, địa vị y không phải nhỏ, phải làm thế nào cho y khâm phục hơn là làm nhục y.
Đánh đến 300 hiệp, nàng nghĩ: Bây giờ ta dùng chiêu thức thật mau, để cho y mệt lử, chịu thua là xong.
Nghĩ vậy, nàng lùi lại rồi đâm 10 kiếm thật thần tốc vào vai, cổ, ngực y. Lưu Quang kinh hoàng nhảy nhót tránh né, nhô lên hụp xuống. Nhưng dù tránh né thế nào chăng nữa, kiếm của Phật-Nguyệt cũng theo sát y như bóng với hình. Y nhảy nhót được gần trăm hiệp, công lực đã giảm. Y nhận thấy đối phương không muốn hại mình, thì còn đấu làm gì. Nghĩ vậy, y vọt lên cao đá gió một cái, người bay ra khỏi đấu trường.
Y chắp tay:
- Lão phu chịu thua cô nương. Đa tạ cô nương nhẹ tay.
Phật-Nguyệt chắp tay đáp lễ:
- Tiểu nữ vô phép, mong Vương-gia khoan dung, đại lượng.
Lưu Quang là đại tôn sư võ học, lại là bậc hoàng-thúc, nên y có cái nhìn xa. Y tâu:
- Thần nghĩ Lĩnh Nam là đất anh hùng. Kỳ này các hào kiệt Lĩnh Nam tùng chinh đông đảo, lập được nhiều công lao. Qua sớ tâu về triều, thần đọc thì thấy, nếu không có hào kiệt Lĩnh Nam. Hán quân chưa chắc đã thắng được Thục mau như vậy. Thần dám xin bệ-hạ theo chuyện Tần Thủy-Hoàng phong tước Vạn-tín hầu cho Lý Thân, mà phong tước cho hào kiệt Lĩnh Nam. Để sáng cái đức coi con dân bốn bể là con dân của triều đình. Nghiêm vương chỉ dẫn về đây có hai người, tuổi còn trẻ, mà võ công đã dường ấy. Xin bệ-hạ nên trọng dụng họ hơn là nghe lời dèm xiểm.
Quang-Vũ truyền chỉ:
- Trưng cô nương và Phật-Nguyệt cô nương đã hiển oai thần võ, còn Trần tiên sinh, xin tiên sinh cho quả nhân được chiêm ngưỡng võ công của Lĩnh Nam đệ nhất nhân.
Khất đại-phu bước ra tâu:
- Thần năm nay đã 80 tuổi rồi. Từ nhỏ chí của thần là làm sao cho bớt sự đau khổ của chúng sinh. Cho nên thần chuyên chú nghiên cứu y học. Ở Lĩnh Nam thần phiêu bạt thất thường, chữa bệnh cho người, cho thú, cho cây cỏ. Không bao giờ thần đòi tiền ai. Nhưng ai cho gì thần cũng nhận. Gặp đường, ngủ đường, gặp chợ ngủ chợ. Chữa bệnh cho vương, hầu thì vương, hầu đãi cho những miếng ngon, vật lạ. Chữa bệnh cho khỉ, khỉ cho thần hoa quả ăn. Uống nước suối tắm nước sông... Vì vậy người ta gọi thần là Khất đại-phu tức là thầy thuốc đi ăn mày.
Quang-Vũ ngắm nhìn Khất đại phu từ đầu đến chân rồi khen:
- Tiên sinh đúng là tiên ông giáng trần, để cứu giúp chúng sinh. Quả nhân có một bệnh hơi kỳ lạ, dám thỉnh tiên sinh dạy cho.
Khất đại phu hỏi:
- Xin bệ-hạ cứ kể.
- Mấy năm gần đây, quả nhân ăn uống vào thường bị đầy ứ không tiêu. Khi đi ngược gió thì mửa. Mửa ra cả thực vật. Bàn chân, bàn tay lạnh. Đầu căng thẳng, thường thấy như mắc nghẹn mà nuốt không xuống.
Khất đại phu cầm mạch, một lúc ông nói:
- Bệnh của bệ hạ không do ngoại tà, mà do nội thương. Trong cơ thể thì Tâm thuộc hỏa, Phế thuộc kim, Tỳ thuộc thổ, Can thuộc mộc, Thận thuộc thủy. Ngũ tạng phải điều hợp với nhau. Khi bệ-hạ lo lắng quá, hoặc ẩm thực không tiết độ, làm thương tổn đến Tỳ. Tỳ chủ vận hòa nước ra ngoài cơ thể. Khi Tỳ-dương bị hư tổn, công năng vận hóa thủy thấp kém đi. Do vậy thủy thấp đình lưu trong cơ thể. Tỳ thuộc âm. Vị thuộc dương. Giữa Tỳ với Vị tương thông biểu lý. Khi Tỳ-dương hư không giúp công năng vị tiêu hóa được. Do vậy bệ-hạ ăn vào thấy đầy ứ. Khi đi ngược gió, gió lạnh nhập vào cơ thể, Tỳ-dương đã hư còn thêm lạnh nữa, cho nên Vị không thể làm nóng thực phẩm, nên bệ-hạ mới nôn ra thực phẩm.
Ngừng một lúc ông nói:
- Tỳ chủ vận hóa chân khí, khi Tỳ dương hư, thì chân khí không được chuyển ra khắp chân tay. Do chân tay bị lạnh. Bụng bệ-hạ ngày càng chướng lên là do thủy thấp đình lưu. Khi Tỳ dương hư thì dương khí không lên được đầu, thành ra đầu nặng, càng khó chịu. Vì bị lạnh, kéo theo thực quản lạnh, nên bệ-hạ tưởng như mắc nghẹn, kỳ thực là do Vị.
Quang-Vũ nhìn Thái-y rồi nói với Khất đại-phu:
- Tiên sinh luận bệnh quả-nhân, thật không sai tí nào. Không biết tiên sinh có chữa cho quả-nhân được không?
Khất đại-phu nói:
- Tâu bệ-hạ, việc chữa bệnh Tỳ, Vị thật dễ dàng. Nhưng cần phải bỏ ra những ưu tư làm thương tổn Tỳ mới dứt được. Có hai phương thức điều trị: Một là dùng dược, hai là dùng nội công thượng thừa đẩy vào kinh mạch tống thấp ra, xin bệ-hạ chọn lấy một.
Quang-Vũ gật đầu:
- Trẫm muốn dùng cả hai. Xin tiên sinh trị cho quả nhân.
Khất đại-phu nói:
- Thần sẽ dùng Lĩnh-nam chỉ pháp. Chỉ pháp này do Chinh-viễn đại tướng quân Đào Kỳ với thần hợp nhau chế ra. Thần vận khí dương về Đốc-mạch, chuyển qua kinh Tam-tiêu, sau đó phóng chân khí vào các huyệt Trung-uyển, Lương-môn, Thủy-phân, Quang-nguyên, Trung-cực, Âm-lăng tuyền, Tam-âm-giao, Thái-khê cuối cùng là các huyệt Can-du, Thận-du, Tỳ-du, Cách-du. Như vậy chỉ trong một ngày, bệ-hạ sẽ đi tiêu ra ngoài 10 cân nước: Thủy tà được trục ra hết. Sau đó chỉ việc uống vài thang thuốc bổ dưỡng nữa là xong.
Quang-Vũ hỏi:
- Tiên sinh có thể trị ngay tại đây, cho triều đình được chiêm ngưỡng thủ thuật của thần tiên chăng?
Khất đại-phu cười:
- Thưa được. Trong khi hạ thần dồn chân khí vào người bệ-hạ. Xin bệ-hạ không nên vận khí chống lại, cũng không nên chuyển động thân hình.
Quan Thái-y hỏi:
- Thưa tiên sinh, tại sao tiên-sinh dùng kinh Tam-tiêu mà không dùng kinh khác?
Khất đại-phu lắc đầu:
- Lý ngũ-hành là Hỏa sinh Thổ. Tam-tiêu thuộc Hỏa. Tỳ thuộc Thổ. Vì vậy lão phu mới dùng kinh Tam-tiêu để trị Tỳ, Vị.
Ông vận khí rồi hướng lên không điểm đến vèo một cái. Khiến quần thần đều kinh hãi. Ông giảng:
- Đầu tiên thần điểm huyệt Trung-uyển. Trung-uyển là mộ huyệt của Vị. Phụ thêm có Lương môn, là huyệt gần nhất của Vị, để làm ấm Vị. Vị ấm thì sẽ đủ khí vận thủy thấp ra ngoài.
Ông chĩa ngón tay giữa, hướng ngực Quang-Vũ điểm hai cái chỉ lực kêu lên véo, véo. Mặt Quang-Vũ đang tái, hồng hào hẳn lên, há miệng ợ liền bốn năm lần. Y nói:
- Thực là khoan khoái. Xin tiên sinh tiếp tục.
Khất đại-phu giảng:
- Bây giờ thần điểm huyệt Thủy-phân. Thủy-phân là huyệt ngăn cách giữa Trung-tiêu và Hạ-tiêu. Mục đích để thông thủy thấp Tam-tiêu, thì thủy mới dễ trục ra. Tiếp theo là huyệt Quan-nguyên để bổ nguyên khí. Khi bệ-hạ bị Tỳ, Vị hư, thì nguyên khí bị suy nhược. Thần điểm luôn huyệt Trung-cực là mộ huyệt của Bàng-quang, có vậy Bàng-quang mới khí hòa, dễ thông tiểu tiện.
Giảng đến đâu, ông vung tay điểm đến đấy, chân khí tiết ra kêu veo véo.
Ông lại giảng tiếp:
- Bây giờ thần điểm tới huyệt Thái-khê. Thái-khê là nguyên huyệt của Thận. Thận chủ thủy. Dùng nguyên huyệt của Thận, để Thận tống nước ra ngoài.
Kế tới là huyệt Tam-âm-giao, để điều hòa Túc tam-âm kinh Can, Tỳ, Thận. Thần còn dùng thêm Túc tam-lý là Hiệp-huyệt của Vị. Âm-lăng-tuyền là Hiệp-huyệt của Tỳ. Hiệp-huyệt để kích thích công năng tạng phủ. Như vậy Tỳ, Vị làm việc, đẩy thủy thấp ra ngoài.
Khất đaị-phu nói đến đâu, điểm đến đó. Ông định bảo Quang-Vũ quay lưng để ông điểm vào các Du-huyệt trên lưng, thì Quang-Vũ vẫy tay đứng lên. Ông biết Quang-Vũ muốn đi tiểu. Vì ông điểm bằng ấy huyệt, thì thủy thấp bị kích động, thoát ra đầy Bàng-quang của y.
Khất đaị-phu cầm bút ghi một toa thuốc, đưa cho Quang-Vũ:
Bạch-truật 4 tiền, Thượng-truật 4 tiền, Hậu-phác 3 tiền, Quế-chi 3 tiền, Cam-thảo 2 tiền, Phục-linh 5 tiền.
Quang-Vũ đưa cho Thái-y. Thái-y đọc nhưng không hiểu, hỏi:
- Trần tiên sinh! Tiểu nhân tối tăm lắm, xin tiên sinh dạy cho. Tại sao lại không dùng Sâm-thang, Lộc-nhung?
- Đại-nhân hỏi câu này thực phải. Rõ ràng Tỳ, Vị hư nhược, phải ôn bổ Tỳ, Vị, dùng Nhân-sâm là đúng. Dương hư dùng Lộc-nhung là đúng. Nhưng trường hợp Thiên-tử bị thấp ứ đọng quá nhiều. Nếu dùng Nhân-sâm, Lộc-nhung bổ Tỳ, Vị, thành ra bổ luôn thủy thấp. Hàn thấp hóa nhiệt thấp, càng khó khăn. Vậy lão phu mới dùng Hậu-phác, Thượng-truật trục thủy-thấp ra. Hai vị này công năng vừa ấm, vừa thông tiểu, thủy thấp sẽ ra ngoài. Thêm Bạch-truật, Phục-linh là hai vị vừa trục thủy thấp, vừa bổ Tỳ, Vị. Riêng Quế-chi là vị thuốc là để thông dương, hành thủy. Tức đưa dương khí chạy khắp cơ thể, làm cho nước chuyển động. Thiên-tử sẽ hết nặng đầu, chân tay ấm áp. Như vậy thang thuốc này 7 phần tả chỉ có 3 phần bổ. Sau khi uống ba thang, thủy thấp tống ra hết rồi, bấy giờ mới đổi thuốc.
Ông ngừng một lát, nói tiếp:
- Sau đấy mấy ngày thấp trong người bệ-hạ đã tống ra hết, bấy giờ mới cần bổ Tỳ, Vị. Thái-y có thể dùng thang thuốc như sau:
Bạch-truật 4 tiền, Phục-linh 4 tiền, Nhân-sâm 2 tiền, Nhục-quế 3 tiền, Cam-thảo 2 tiền, Xuyên-khung 3 tiền.
Uống trong vòng 10 đến 15 thang thì mình rồng khỏe mạnh, không còn sợ gì nữa.