Hồi 20b
Các vương công, đại thần không ít thì nhiều đã nghe loáng thoáng về xuất thân của Nghiêm Sơn. Có dư luận nói rằng Nghiêm Sơn người Trường-sa vì chàng nói giọng Trường-sa. Có dư luận nói rằng chàng người Quế-lâm. Thời bấy giờ Quế-lâm, Nam-hải, Tượng-quận bị người Hán cai trị trên 200 năm. Dân chúng phân nửa nói tiếng Hán, sống đời sống như người Hán. Nhưng đối với các quan lại người Hán, họ vẫn coi đó là vùng man di mọi rợ, khinh khi như chó, như lợn. Có dư luận nói rằng Vương là con của người tỳ thiếp Trường-sa Định-vương. Như vậy Vương là em ruột Quang-Vũ. Còn Quang-Vũ đã có dư luận nói rằng, Quang-Vũ là con của người tỳ thiếp Trường-sa Định-vương, sinh đẻ ở ngoài dân dã. Sau Thái-phi mới ra lệnh cho Mã vương-phi nuôi. Có người nói Quang-Vũ với Nghiêm Sơn là anh em cùng cha khác mẹ.
Bây giờ họ biết Nghiêm Sơn sắp nói ra sự thực tất cả. Họ lắng nghe không dám xen vào.
Nghiêm Sơn chậm chạp kể:
- Tôi là người Việt ở Lĩnh Nam chứ không phải người Hán!...
Từ Quang-Vũ đến triều thần đều bật lên tiếng kêu Ồ! Ối chà!.
Nghiêm Sơn tiếp:
- Tôi thuộc dòng dõi Phương-chính hầu Trần Tự-Minh nước Âu-lạc. Khi An-Dương vương bị Triệu Đà đánh lừa cướp mất nước trong vụ Mỵ-Châu, Trọng-Thủy. Vua viết chiếu nhường ngôi cho con trai Tể-tương Trần Tự-Minh là Trần Tự-Anh, thống lĩnh anh hùng phục quốc. Đến đời thân phụ tôi là Trần Kim-Bằng mới nảy ra ý tưởng xưng là người Hán, cải họ Nghiêm lên Trường-sa thí võ, được làm tướng quân. Sau lên tới đại-tướng quân. Khi tôi được hai tháng thì xảy ra biến cố. Hôm đó phụ thân tôi đi săn ở trong rừng. Bỗng nghe có tiếng khóc lóc thảm thiết của người đàn bà từ xa vọng lại. Người vội vàng chạy đến tìm kiếm, thì thấy hai võ sĩ của Trường-sa Định-vương sắp sửa giết chết một thiếu nữ. Phụ thân tôi quát tháo, bắt chúng thả thiếu nữ đó ra. Hai võ sĩ đó nhận được mặt phụ thân tôi, chúng nói:
- Chúng tôi tuân chỉ Vương thái-phi phải giết người đàn bà này. Nếu tướng quân can thiệp vào sẽ bị họa diệt tộc.
Phụ thân tôi thấy việc đã bị lộ. Không dừng được, người giết chết hai võ sĩ kia, cứu thiếu nữ. Bấy giờ người mới nhận thấy đó là một thiếu nữ sắc nước hương trời, có một không hai ở đời. Thân phụ tôi hỏi lý do gì thiếu nữ bị giết? Nàng kể rằng tên nàng là Hàn Tú-Anh, thứ phi Trường-sa Định vương.
Tự-Sơn kể đến đó, trong điện im phăng phắc, không một tiếng động. Nhưng trong lòng các đaÏi thần đã thấy hé mở một tia sáng về lý lịch Tự Sơn và Quang-Vũ. Còn Quang-Vũ đã nghe nói rồi, y không ngạc nhiên. Riêng Mã Viện trong lòng y nóng nảy vô cùng.
Nghiêm Sơn tiếp:
- Phụ thân tôi nghe thuật, trong lòng kinh sợ. Vì người đã nghe nói Trường-sa Định-vương có một thứ phi tên Hàn Tú-Anh. Việc thái-phi muốn giết Hàn Tú-Anh, là chuyện trong nội cung vương-phủ. Thế nhưng phụ thân tôi đã nhúng tay vào, cái họa diệt tộc khó tránh. Người đem Hàn Tú-Anh về nhà kể cho mẫu thân tôi nghe. Mẫu thân tôi quyết định rằng: đã trót cứu người thì cứu cho trọn. Vì vậy phụ thân tôi cáo quan về Quế-lâm ở, mang theo Hàn Tú-Anh. Hàn Tú-Anh mới kể tâm sự cho mẫu thân tôi nghe, tại sao thái-phi muốn giết nàng.
Tự-Sơn hạ giọng:
- Thì ra Hàn Tú-Anh cùng một người bạn nữa là Chu Mẫu-Đơn, hai người xuất thân là con nhà khá giả ở Trường-sa. Rồi một ngày cha mẹ hai người đều bị vu cáo là phản loạn, cả nhà bị giết. Hai người bấy giờ nhan sắc đang độ 16, được người cai ngục cứu ra đem bán cho thanh lâu. Hai người lọt vào lầu xanh, nổi danh tài sắc một thời. Hai người thề nguyện không bao giờ tiếp khách họ Lưu. Vì cho rằng, Trường-sa Định vương đã giết hại cả nhà mình. Một ngày kia có khách văn nhân tới, dáng người thanh nhã. Chàng bỏ tiền ra không tiếc, chuộc Chu Mẫu-Đơn khỏi lầu xanh. Hai người ngày ngày cùng ngao du sơn thủy. Chàng làm từ, làm thơ, nàng ca hát. Rồi sau đó chàng mới thú nhận mình họ Lưu tên Huyền, hiện là thế-tử của Trường-sa Định vương. Chàng nhất định về thưa với phụ thân đem nàng vào thành ở. Trường-sa Định vương thấy con say mê một kỹ nữ, nổi giận ra hai điều kiện: Một là chọn ngôi thế-tử, hai là chọn Chu Mẫu-Đơn. Chàng quyết định chọn Chu Mẫu-Đơn bỏ ngôi thế-tử, ra ngoài Đào-trang sống hạnh phúc bên người yêu. Thế-tử Lưu Huyền bỏ phú quý sống với người mình yêu, khiến người em được kế vị thế-tử. Rồi lên ngôi làm Trường-sa Định vương. Trường-sa vương có Mã vương-phi, có nhiều phi tần. Nhưng ngài không cảm thấy hạnh phúc, hơn nữa ngài không có con. Một ngày kia tiếp kiến người anh, thấy anh hạnh phúc vô cùng bên Chu Mẫu-Đơn, ngài ước mong tìm được hạnh phúc như anh. Vương giả làm văn nhân nghèo tìm Hàn Tú-Anh. Thế rồi tài tử giai nhân gặp nhau họ yêu nhau say đắm. Vương nói dối với Hàn Tú-Anh rằng ngài là học sinh đến Trường-sa du học, chỉ đêm đêm chàng mới về nhà. Còn ban ngày phải vào thành học. Được ít lâu, Hàn Tú-Anh có mang sinh ra đứa con thứ nhất đặt tên là Lưu Diễn, ít lâu sau sinh đứa thứ nhì đặt tên là Lưu Tú.
Thời bấy giờ, luật lệ cấm không được nhắc đến tên húy của vua chúa. Nhưng Tự-Sơn kể chuyện vương cứ nói thản nhiên như không chú ý đến vấn đề này. Vương tiếp:
- Khi đã có hai con, Hàn Tú-Anh khẩn khoản xin chồng đổi chỗ ở, sợ rằng sau này hai con lớn lên sẽ cảm thấy nhục nhã khi mẹ mình là kỹ nữ. Vương không chịu. Hàn Tú-Anh nhờ người vú nuôi con mình tên Dư Thúy-Nham theo dõi Vương-gia, để biết nhà thầy dạy, hầu Hàn Tú-Anh cầu thầy khuyên chồng.
Dư Thúy-Nham đi một buổi trở về cho biết rằng chồng Hàn Tú-Anh là Trường-sa Định-vương. Hàn Tú-Anh nghe tin khóc hết nước mắt. Chiều đến vương-gia về, thấy tình hình biết đã bại lộ, mới an ủi vợ rằng: Các vương-phi trong phủ không ai có con. Tuy nàng là kỹ nữ, nàng cho Vương hai người con, vậy Vương đưa nàng về phủ sống.
Vương nói là làm, Vương đưa Hàn Tú-Anh về phủ phong làm thứ-phi, cực kỳ sủng ái. Vương thái-phi thấy Vương-gia có hai người con, mừng lắm. Bà không muốn trong vương-phủ có một kỹ nữ sống. Nhất là kỹ nữ đó sau này làm Vương thái-phi. Vì vậy thái-phi nhân một hôm Vương-gia vắng nhà, mới sai hai võ sĩ đưa Hàn Tú-Anh vào rừng giết. Khi Vương-gia trở về hỏi Hàn Tú-Anh đâu. Thái-phi nói nàng có đại tang, phải trở về quê gấp, sẽ trở lại sau ít ngày.
Tự Sơn kể từng chi tiết một, khiến một số quan văn nhiều tình cảm trong điện, nước mắt chan hòa. Phương-Dung dầu sao cũng là một thiếu nữ, nàng đã nghe chuyện này lần thứ nhì, nhưng cũng không ngăn được nước mắt.
Tự Sơn lại tiếp:
- Thân phụ tôi đem Hàn Tú-Anh về Quế-lâm. Giữa đường mẫu thân tôi bị cảm mạo, mất sữa. Hàn Tú-Anh tình nguyện nuôi tôi. Từ đó bà trở thành nhũ mẫu của tôi. Cha tôi là Lạc-hầu một trang ấp tuy không lớn, nhưng cũng có vài ngàn người. Nhũ mẫu được cấp một căn nhà cạnh hồ, có rất nhiều hoa thơm cỏ lạ. Bà được cấp tỳ nữ, đầu bếp hầu hạ. Bà nuôi tôi, dậy tôi đọc sách, dậy tôi nói giọng Trường-sa. Vì vậy tôi nói tiếng Hán giọng Trường-sa như Hoàng-thượng.
Vương đưa mắt nhìn Quang-Vũ ngơ ngẩn xuất thần nói:
- Tôi tập võ với cha. Cha tôi cho mời thầy dạy chữ cho tôi. Người xin thầy dạy toàn Lục-thao, Tam-lược, binh-pháp. Không hiểu giữa người và nhũ mẫu có ước định gì về tôi không rõ, mà khi cha tôi sắp qua đời, người suy tính chưa tìm ra người để chỉ định làm thừa kế chức chưởng môn. Sau hơn mười ngày không quyết định được, nhũ-mẫu tôi đến thăm người, nói nhỏ vào tai người rằng, nếu sau này muốn phục hồi Lĩnh Nam thì truyền chức cho tôi. Bà nói rằng đợi con trai người lên ngôi Trường-sa vương bà mới xuất hiện. Khi mẫu tử trùng phùng bà nhờ con giúp tôi phục hồi Lĩnh Nam. Cha mẹ qua đời, tôi sống bên cạnh nhũ-mẫu. Người thương yêu tôi không biết đâu mà kể. Khi tôi đọc sách, người ngồi cạnh quạt cho tôi, khi tôi tập võ, người đánh đàn, hát cho tôi nghe. Tôi thấy bên cạnh người thực là hạnh phúc toàn vẹn.
Vương ngừng một lúc rồi đi đi lại lại nói tiếp:
- Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Trường-sa Định vương cùng với Mã vương-phi, Lưu Diễn, Lưu Tú, trốn ở Vương-sơn, không ai biết. Tất cả những biến cố gia đình, lý lịch nhũ-mẫu, tôi không biết. Cho đến năm 17 tuổi, một đêm tôi thấy nhũ-mẫu khóc lóc thảm thiết. Tôi gạn hỏi mãi, bà mới chịu nói rõ thân thế cho tôi nghe. Bà yêu cầu tôi hãy xuất lĩnh anh em đi Trường-sa tìm tông tích hai người con bà. Tôi yêu nhũ-mẫu, bà nói gì tôi cũng nghe. Tôi biết võ công mình chưa đủ cao, tôi mời thêm Hợp-phố lục hiệp là người môn phái Quế-lâm cùng lên đường. Chúng tôi tới Trường-sa dò la tin tức, không tìm được gì cả. Một ngày kia do lòng thương nhũ-mẫu, tôi đến Đào-trang nơi nhũ-mẫu cùng Trường-sa Định vương ở, tìm lại di tích người xưa.
Tự Sơn thở dài:
- Giữa lúc đó Vương Mãng sai võ sĩ đến giết gia quyến Vương. Tôi cùng Hợp phố lục hiệp liều mạng mới cứu được hai người con của Vương-gia. Chúng tôi bảo vệ hai thế-tử, vừa đánh vừa chạy. Một đêm đánh đến 20 trận, tôi bị thương 15 chỗ...
Tự Sơn thản nhiên cởi áo ra chỉ vào 15 chỗ bị thương. Mỗi chỗ Vương thuật từng chiêu thức bị thương như thế nào. Vương tiếp:
- Chúng tôi vừa đánh, vừa chạy suốt đêm, cho đến lúc mệt lử thì tới vườn bắp, hái bắp non ăn. Trong khi chạy, Lưu Tú bị thương. Tôi phải cõng thế-tử chạy. Đến sáng, ngồi dưỡng thương ở vườn bắp, Lưu Tú hỏi tuổi tôi. Thì ra chúng tôi cùng tuổi. Lưu Tú muốn cùng tôi kết nghĩa huynh đệ. Tôi nghĩ trong lòng: Người với ta tuy khác máu mủ, nhưng cùng uống một dòng sữa. Mẫu thân người là nhũ-mẫu ta, người với ta là anh em rồi còn gì nữa? Chúng tôi so tuổi, Lưu Tú sinh giờ Sửu ngày mồng một tháng sáu tuổi Bính-thìn. Tôi cũng Bính-thìn, sinh tháng chín, ngày mồng một giờ Thìn. Như vậy tôi nhỏ hơn ba tháng. Chúng tôi cùng quỳ xuống thề với trời đất rằng sau này có phước cùng hưởng, có họa cùng chịu. Nếu ai phản bội hai lòng trời tru, đất diệt. Lưu Tú hỏi về chí hướng của tôi. Tôi đáp rằng, chỉ mong một người, một gươm ngao du sơn thủy, hành hiệp giúp đời. Còn Lưu Tú muốn nuốt trời, ôm đất vào lòng, muốn kế tục sự nghiệp Cao-Tổ. Lưu Tú yêu cầu tôi giúp. Tôi hứa sẽ giúp, điều kiện là khi mọi sự đã thành, cho tôi một con ngựa, một thanh gươm ngao du thắng cảnh. Lưu Tú nói: Chúng ta là anh em, cùng khởi nghiệp, sau này giang sơn của ta là của hiền đệ, chúng ta chia đôi sơn hà để cùng hưởng.
Thấy Tự Sơn ngưng kể, Quang-Vũ như đắm vào cõi mộng, hỏi:
- Rồi sao nữa?
- Rồi chúng ta khởi binh đại chiến Côn-dương. Khi thu được nửa thiên hạ, đại-ca nói rằng: Tuy đoạt được Kinh-châu, nhưng phía sau Kinh-châu còn Quế-lâm, Nam-hải, Tượng-quận, Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ. Các Thứ-sử, Thái-thú tại đó nay theo Vương Mãng, mai theo Hán. Đại-ca muốn tôi xuống xếp đặt cho yên vùng này. Tôi cùng Hợp-phố lục-hiệp, một người, một ngựa kinh lý đất Lĩnh Nam. Đại-ca phong cho tôi làm Bình-nam đại-tướng quân, tước Lĩnh-nam công. Các Thứ-sử, thái-thú khoanh tay quy phục. Tôi ra lệnh tuyển quân, thu nạp lương thảo cho đại-ca tranh hùng ở Trung-nguyên.
Tự Sơn thở dài:
- Nhưng khi tôi tới Lĩnh Nam mới bừng tỉnh mình là người Lĩnh Nam. Các Thái-thú ở đây coi người Việt như trâu, như chó. Tôi ra lệnh cho các Thái-thú phải bỏ những chính sách hà khắc, coi người Việt như người Hán. Tôi cho người Việt được quyền làm các chức quan như người Hán. Tôi gửi tấu chương về xin đại-ca bổ nhiệm một người Việt tên Đặng Thi-Sách làm Thái-thú Giao-chỉ. Đại-ca không những không đồng ý, mà còn tuân chỉ Thái-hậu bổ nhiệm Tô Định làm Thái-thú. Tô Định mang theo Ngũ-phương thần kiếm sang, với ý định vu vạ cho tôi làm phản. Ngũ-phương thần kiếm minh mẫn tìm ra sự thật. Tô Định ỷ là cháu Thái-hậu, đánh thuốc mê Ngũ-phương thần kiếm toan giết đi. Chính hào kiệt Lĩnh Nam cứu họ thoát chết.
Nghiêm Sơn mơ màng nhìn ra xa:
- Trong khi ở Lĩnh Nam, tôi nhận thấy một điều: Các quan lại người Hán đến Lĩnh Nam chỉ với mục đích vơ vét cho đầy túi tham. Chém giết cho phỉ chí, làm mất đức hiếu sinh của Thượng-đế, làm mất cái đức thương dân như con đỏ của đại-ca. Tôi nghĩ: Đất Lĩnh Nam xa xôi, trở thành quận, huyện cũng thế, mà cho người Việt tự trị cũng thế. Tôi đồng ý cho một người Việt là Lê Đạo-Sinh đứng ra tổ chức đại hội hồ Tây, đưa anh hùng võ lâm thiên hạ sang Trung-nguyên cầu kiến đại-ca, xin được tự trị. Vừa tổ chức xong, tôi nhận được chiếu chỉ của đại-ca phong làm Lĩnh-nam vương, Tả tướng-quốc mang quân đánh Thục. Anh-hũng Lĩnh Nam nghĩ rằng nếu họ lập được chút công tất nhiên đại-ca ban chức tước cho họ. Lúc đó nếu họ đều từ chối, chỉ xin cho Lĩnh-nam phục quốc. Chắc đại-ca cũng sẽ ưng thuận.
Vương cười lớn:
- Không ngờ lúc đại-quân vào đất Thục, thế như chẻ tre, đại ca lại nói mang quân đến Trường-an để tiếp viện. Tôi cũng như hào kiệt đều biết rằng: Chúng tôi sắp diệt Thục thì việc gì đại-ca phải mang quân tiếp viện? Chẳng qua đại-ca nghi ngờ, bắt chước Cao-Tổ du Vân-mộng bắt Sở vương Hàn Tín. Mọi người xúi tôi rằng: Chúa đã nghi, bầy tôi phải chết. Thì trước khi chết đánh một trận cho hả lòng. Vì đại quân Lĩnh-nam, Kinh-châu, Đông-xuyên, Tây-xuyên, Trường-an nằm trong tay tôi. Nếu tôi phản đại ca, dù không thành đại sự thì cũng chia đôi thiên hạ. Tôi không thích làm quan, không thích làm vua. Tôi tin vào đại-ca. Tôi dắt Khất đại-phu, Phật-Nguyệt, Trưng Nhị đi Trường-an.
Đến đó Vương ngưng lại, cầm thanh Thượng-phương bảo kiếm của Quang-Vũ đưa lên, khẽ rung động hai lần. Thanh kiếm vọt ra khỏi vỏ. Vương búng tay một cái, thanh kiếm gãy làm hai. Vương búng thêm mấy cái nữa, thanh kiếm gãy nát ra. Vương tiếp:
- Về võ công đại-ca thấy, tôi chỉ hơn Ngô Hán, Mã Viện, chứ không hơn Ngũ-phương thần kiếm, Tương-dương cửu-hùng. Thua cả đến Tạ Thanh-Minh, Trần Lữ, Ngô Lương, và lại càng không bằng Hoài-nam vương nữa. Nhưng sở dĩ tôi thành công, vì mối nhu tình nhũ mẫu đối với tôi, mà tôi quyết tâm giúp đại-ca. Người ta theo giúp đại-ca vì công danh, vàng bạc. Tôi theo giúp đại ca vì lòng nghĩa hiệp. Nay đại-ca đi trái với nghĩa hiệp, thì tôi không giúp đại-ca nữa. Ơn nhũ mẫu đối với tôi là ơn cá nhân. Tôi trả như vậy đủ lắm rồi. Tôi không thể đem sinh linh Lĩnh-nam cho đại-ca, để đại-ca sai những tên chó Ngô sang giết hại dân chúng. Ở đây có Ngũ-phương thần kiếm, tại Lĩnh-nam còn Lục Mạnh-Tân. Họ cũng là người Hán như đại-ca, hơn nữa họ lại có công với tiên-đế. Nếu họ tham công danh phú quý, họ đã xu phụ theo đại-ca. Họ đã đến Lĩnh Nam, đã thấy những tên Hán bốn chân tàn sát lương dân. Họ không chịu được, họ vung thước gươm cứu khổn phò nguy. Họ quyết giúp cho Lĩnh Nam phục hồi cố thổ.
Đoạn vương nói với các quan:
- Từ sau hôm nay trở đi, tôi với đại-ca Lưu Tú không còn tình nghĩa gì nữa. Nếu gặp nhau trên chiến trường, ai vì giang sơn người ấy. Còn ai giết hại Lưu Tú cũng không liên quan đến Trần Tự-Sơn. Ai giết Trần Tự Sơn cũng không liên quan gì đến Lưu Tú.
Vương quay lại:
- Khất đại-phu, Chu huynh, Đô hiền đệ, Đào sư đệ, Dung muội. Khất đại-phu là một tiên ông trên thế gian. Suốt đời lấy y đạo cứu người. Chu huynh tuy là đệ tử, con rể Lê Đạo-Sinh, nay tỉnh ngộ trở về với Lĩnh Nam, không theo phú quý của người Hán, là điều Trần mỗ khâm phục vô cùng. Đô hiền đệ kết bạn với ta từ nhỏ, luyện võ với nhau, đánh nhau, chửi nhau.
Vương chỉ vào vết thẹo ở tay trái:
- Hồi ta chín tuổi, Đô hiền đệ bảy tuổi. Chúng ta tranh nhau bắt một con chim. Ta nhanh tay bắt được. Đô hiền đệ nhảy đến vật ta, dành con chim, ta lớn tuổi hơn học võ trước, ta đá Đô hiền đệ lăn xuống ruộng. Đô hiền đệ nhảy lên cắn ta. Ta đau quá phải xin hàng. Đô hiền đệ mới tha ta ra. Từ đấy chúng ta là một cặp huynh đệ không rời nhau. Khi ta nghe lời Nhũ-mẫu cứu Trường-sa vương Lưu Diễn, Lưu Tú. Đô hiền đệ khẳng khái bảo ta rằng: Nên làm, vì cứu người Việt hay người Hán cũng là cứu. Dù cứu con chó, con mèo cũng là cứu. Ta nghe lời Đô hiền đệ, lòng đầy hân hoan lên đường.
Vương nắm tay Đô Dương:
- Khi nghe ta giúp Lưu Tú, đại chiến Côn-dương. Hiền đệ lại tới với ta. Trận Côn-dương khiến cho muôn đời kinh hồn động phách, do công hiền đệ. Bấy giờ quân ta ít, quân giặc nhiều. Ta không biết làm sao thắng giặc, mới nảy ra ý dùng một đội cảm tử quân, nửa đêm xông vào trại đốt lương, rồi chúng ta ở ngoài đánh vào. Mã Anh, Mã Viện là cháu Thái-hậu cũng không dám lĩnh nhiệm vụ đó. Chỉ có hiền đệ dám làm. Ta còn nhớ trước khi lên đường, chúng ta tế sống hiền đệ. Thế rồi trận Côn-dương kinh hồn động phách diễn ra. Hiền đệ vẫn còn sống. Hiền đệ được phong tước Tân-bình hầu, lĩnh Thái-thú Phù-phong. Thế mà khi nghe ta bị giam, hiền đệ bỏ quan tước, đi cứu ta. Xét về võ đạo, về tình nghĩa, hiền đệ hơn Lưu Tú nhiều.
Vương ngừng lại nói với Đào Kỳ, Phương-Dung:
- Đào tiểu sư đệ, bây giờ sư đệ đã lớn quá rồi. Ta vẫn muốn dùng tên Tiểu sư-đệ để lưu niệm. Ta nhớ khi ta mang quân vào đánh Cửu-chân, làm Đào-gia nhà tan, cửa nát. Thế mà khi đối trận trong đêm, hiền đệ nhìn ra ta không phải ô quan, ta không phải người chủ động hại nhà hiền đệ. Ai cũng bảo ta là chó Ngô, chó Hán, chỉ có hiền đệ bảo Hán, Ngô, Việt cũng thế cả, ai có lòng tốt thì trọng. Đừng thấy Hán mà cho là độc ác hết, đừng thấy Việt mà cho là tốt hết. Hiền đệ thân mật với ta giữa trận tiền. Hiền đệ có con mắt tinh đời, biết rõ chân tâm ta. Trong đời hiền đệ chỉ có Tam sư-tỷ là người thân nhất với đệ. Hiền đệ có ý mở đường cho ta. Nhờ đệ, ta tìm được diễm phúc nhất trần gian. Hoàng sư tỷ đối với ta như nước sông Trường-giang, võ công nàng cao, tính tình nhu thuận, và... trên thế gian này không có người nào đẹp hơn. Ta nghĩ rằng, giá ta bỏ hết Lĩnh-nam vương, bỏ tất cả, để đổi lấy Hoàng sư-tỷ cũng sẵn lòng. Ta nghĩ dù ta có vì Hoàng sư tỷ mà chết đến một trăm lần, cũng không bằng một phần tấm lòng của nàng đối với ta. Các vương hầu nhà Hán, thê thiếp hàng đàn. Còn ta, chỉ sủng ái một mình Hoàng sư-tỷ vẫn cho là không đủ.
Vương mỉm cười bí mật:
- Chính tiểu sư đệ đi cạnh ta để phục hồi đất Lĩnh-nam. Khi ta đem quân từ Lĩnh Nam về đánh Thục. Các anh hùng nhất quyết chống lại. Nhờ tiểu sư đệ thuyết phục, họ mới theo giúp. Tiểu sư đệ lại thân cầm đạo quân Lĩnh-nam đánh vào phía sau Thục, vượt núi Kim-sơn là điều mà cổ kim chưa ai làm được. Hoàng-thượng hứa rằng ai vào Thục đầu tiên, sẽ cho làm chúa Ích-châu. Chính tiểu sư đệ đã vào Thục đầu tiên, bỏ xa Mã Viện, Ngô Hán. Hoàng-thượng trở mặt với ta. Tiểu sư đệ cũng không ham công danh, phú quý, thân vào ngục cứu ta ra... Thôi ta nói vậy đủ rồi. Khất đại-phu, Chu đại-ca, Đô hiền đệ, Đào sư đệ, Dung muội chúng ta mau đi Lạc-dương cứu nhũ mẫu. Trước đây khi mới khởi sự, có một thầy tướng nhìn Lưu Tú nói rằng: Người này nói ưa điệu bộ, chu mỏ ra, hay cau có. Đó là người chỉ biết có mình, mặt lại hóp như lưỡi cày chắc chắn sẽ coi người thân như cừu thù, kẻ ác như chân tay, còn nói gì tử tế tình nghĩa với ai. Thôi chúng ta đi Lạc-dương cứu Nhũ-mẫu ta.
Chu Bá hỏi:
- Phương-Dung! Tại sao chúng ta lại đi Lạc-dương?
Phương-Dung cười:
- Chu sư bá, người chủ trương giết Hàn thái-hậu là Mã thái-hậu. Chúng ta cứ đi Lạc-dương dí kiếm vào cổ Mã thái-hậu là yên mọi chuyện. Tại Lạc-dương tuy vệ sĩ đông, tuy quân nhiều, nhưng không ai đỡ được chưởng của Khất đại-phu, Đào tam-lang và thanh kiếm của tôi.
Thấp thoáng một cái, nàng nhảy lên cao, vung kiếm đưa ra những chiêu quái dị vô cùng. Choang, choang, choang, hơn hai mươi chỏm mũ của các võ quan tại đó bị cắt đứt. Quang-Vũ cảm thấy cổ mát lạnh, y rú lên một tiếng, đưa tay lên sờ cổ, không bị thương, còn mái tóc bị xén mất cái chỏm.
Các quan kinh hoàng. Khi định thần lại thì Phương-Dung đã vọt mình lên nóc điện, biến mất hồi nào.
Quang-Vũ nói:
- Trần hiền-đệ, ngươi nói về mẫu thân ta, ta không tin được. Ta chỉ tin khi nào ngươi đưa mẫu thân ta đến đây đối chất.
Đào Kỳ quát lên:
- Ngươi thân là hoàng-đế, giàu sang nhất thế gian, mà có mẹ không nhìn, lại còn bảo phải đưa mẹ đến đối chất. Cái thứ vua chúa bất hiếu như ngươi để làm gì.
Vương hít hơi, vận đủ mười thành công lực, phóng một chưởng như trời long đất lở vào người Quang-Vũ.
Trần Tự-Sơn kêu lên:
- Tiểu sư đệ! Xin dung tình.
Đào Kỳ nghe đến tiếng tiểu sư đệ, lại nhớ đến những ngày còn nhỏ, mất tin cha mẹ, ở với Trần Tự-Sơn và Thiều-Hoa, tình nghĩa thâm trọng. Vì vậy Vương hướng chưởng chênh chếch sang phía Đông điện. Ầm một tiếng, cả nóc điện bể tan tành, ngói gạch rơi xuống ào ào.
Quang-Vũ thấy Đào Kỳ phóng chưởng, y những tưởng mất mạng. Nhưng rồi chưởng của Vương hướng lên trời, y còn được Ngũ-phương thần kiếm cùng vung chưởng hóa giải, nên y khỏi bị áp lực. Thế mà y còn cảm thấy ngực như muốn tắt thở.
Tự-Sơn hú lên một tiếng cùng mọi người nhảy lên nóc điện, phút chốc biến mất.
BÀI ĐỌC THÊM
Y phục thời Lĩnh-Nam
Trong khi khởi thảo viết bộ Anh hùng Lĩnh-nam vào ngày 10 tháng 3 năm Mậu-thân (1968), một những vấn đề làm thuật giả bận tâm là y phục thời đó ra sao? Điều này đưa tới việc tìm hiểu văn minh của người Việt trong buổi bình minh lịch sử. Đọc trong kho tàng văn hóa Việt-nam, không thấy thư tịch nào nói đến. Hỏi thăm những bậc thức giả, mười người thì đủ mười đều lắc đầu. Thảng hoặc có vị cho vài lời khuyên.
Một vị khuyên rằng:
- Nên theo y phục những năm trước đây, người ta cho các thiếu nữ trung học Trưng-vương, Gia-long tại Sài-gòn đóng vai hai bà Trưng vào ngày phụ nữ hay ngày giỗ vua Trưng.
Một vị khuyên:
- Cứ cho mặc áo dài, khăn đóng vành vàng, khoác ngoài lớp sa mỏng trắng, quần trắng, đi hài là được.
Đem ý kiến ấy hỏi một vị khác, lập tức vị này bác bỏ:
- Không được, như vậy là đầu gà đít vịt, chẳng ra thể thống gì. Bởi chiếc áo dài đó phỏng theo áo Le Mur mới chế vào thập niên 1930, rồi biến hóa đi. Khi áo Le Mur vào đến Huế, lại có màn tân cổ giao duyên, thêm chiếc khăn với cái áo choàng ngoài. Y phục ấy đâu phải y phục thời Trưng Vương. Quần đó là quần tân thời, không phải của người Việt xưa.
Một vị khác khuyên:
- Bà Trưng quê ở Bắc-ninh, Sơn-tây, chắc hồi ấy mặc quần đen, áo búi que, đầu đội khăn vuông mỏ quạ như con gái Bắc-ninh đầu thế kỷ này.
Lập tức vị khác nhăn mặt:
- Bậy! Phụ nữ Việt-nam mặc quần, mới chỉ có từ thời Nguyễn. Trước kia các cụ bà mặc váy. Trong văn chương bình dân chẳng từng có câu:
Tháng tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì ăn cướp quần chồng sao đang!
Như vậy từ triều Nguyễn về trước đàn ông mặc quần, đàn bà mặc váy. Loại váy này cho đến năm 1947-1948 ở nông thôn vẫn còn tồn tại. Còn áo dài ư? Từ triều Nguyễn về trước phụ nữ Việt-nam mặc áo tứ thân, thắt khăn vòng qua bụng nút ở ngang hông. Gái chưa chồng thì nút ở bên phải. Gái có chồng thì nút ở bên trái.
Đại loại những ý kiến như thế được đưa ra. Nhưng không ý kiến nào có luận cứ vững chắc. Có vị khuyên:
- Anh viết tiểu thuyết như vẽ ma, vẽ quỷ, muốn tả y phục thời ấy như thế nào mà chả được.
Ý kiến này gia nghiêm gạt thẳng:
- Lịch đại văn học Việt-nam, chưa có vị nào chịu bỏ thì giờ, chịu bỏ cả đời viết tiểu thuyết lịch sử trường thiên. Nay con là người đầu tiên viết. Con viết vì muốn làm sáng tỏ hào khí dân tộc. Con viết vì muốn trả nợ tổ tiên. Ông kỳ vọng vào con. Bố kỳ vọng vào con. Con phải học hỏi những gì của người đi trước. Tại sao bộ Tam quốc chí của La Quán-Trung lại thành công hơn các bộ Phong thần, Đông-Chu liệt quốc, Tây-Hán, Đông-Hán, Thuyết-Đường, Chinh-Đông, Chinh-Tây? Một là văn La diệu hơn văn các vị kia. Hai là La đi sát với lịch-sử, đi sát với sự thực, nên được tin tưởng hơn. Gần đây, Kim-Dung thâu thái của cổ nhân, thêm vào nghệ thuật Tây-phương mà thành công. Kim-Dung chỉ đặt tác phẩm vào hoàn cảnh lịch sử, mà không viết tiểu thuyết lịch sử. Con đi sau tất cả bằng ấy người. Con có kiến thức Trung-quốc ngang với họ, con lại có kiến thức Tây-phương sâu xa. Con hơn họ ở điểm con được luyện võ từ nhỏ, nay đến trình độ đáng kể. Con hơn hẳn họ ở điểm con học tới trình độ cao nhất của y học Đông lẫn Tây. Con cần viết sao cho tác phẩm không đi đến chỗ quá đáng như ma trâu đầu rắn. Con nhớ rằng một lời con viết là Trưng-Vương nói, Hưng-Đạo vương nói. Tuyệt đối không nên, không thể bịa đặt quá đáng. Không tìm ra y phục thời vua Trưng chắc chắn, thì tìm lấy một nét có thể bấu víu được, là quần áo các bà hầu bóng Ngài. Hay hãy tìm trong y phục cổ Việt-nam, lấy một loại quần áo cổ điển nhất, rồi phong cho làm y phục thời vua Trưng là được rồi, việc gì phải quá câu nệ.
Thói thường của thuật giả, là khi gặp vấn đề nan giải là tắm rửa sạch sẽ, đến trước bảo điện đọc kinh Bát-nhã, rồi nhập thiền. Sau khi nhập Thiền nhắm mắt tưởng tượng. Trong tưởng tượng đó thấy gì hiện ra thì tùy nghi giải quyết. Bởi vậy đối với y phục thời Lĩnh-nam thuật giả nhập Thiền ba lần đều thấy vua Trưng mặc một thứ y phục rất khác lạ với y phục Trung-quốc và Việt-nam, nhưng lại rất quen thuộc.
Trong dịp giỗ vua Trưng năm 1969, thuật giả chở mẫu thân đi giúp bà bạn hầu bóng hay nói nôm na là lên đồng vua Trưng. Khi bà mặc quần áo về đồng uy nghi mà đẹp vô cùng. Thuật giả mới bừng tỉnh: Mình đáng chết thực, thì ra từ nhỏ mình đã thấy hình bóng, y phục vua Trưng qua các bà đồng, cho nên trong lúc nhập thiền, y phục đó hiện lên.
Kỷ niệm về thời thơ ấu sống lại mãnh liệt. Đền thờ hai Bà bao giờ cũng có tượng, trong tư thế ngồi bệ vệ, quần áo rực rỡ, đầu đội khăn. Tượng đặt phía sau màn. Chỉ quan khách đặt biệt mới được phép mở màn chiêm ngưỡng tượng hai Bà. Hai bên bệ thờ còn có tượng của sáu hai nữ đại công thần, đẹp đẽ trong các bộ quần áo đủ màu, đầu đội khăn.
Hồi ấy cứ đến ngày mùng 6 tháng 2 âm lịch, tại các đền thờ vua Trưng, ban trị sự đền tổ chức lễ tắm tượng, để chuẩn bị cho ngày Thánh hóa. Lễ tắm tượng được tổ chức theo nghi lễ cổ truyền như sau:
Công việc tắm tượng được trao cho một cụ bà đạo cao đức trọng. Trước ngày tắm tượng, bà phải trai giới ba ngày, tắm rửa sạch sẽ. Sáng ngày 6 tháng 2, bà mặc áo dài đỏ cùng với ba đồng nam, ba thiếu nữ, bưng nước ngũ vị hương, dùng lụa mới tắm tượng. Năm 11 tuổi, thuật giả cũng được hưởng ân huệ bưng nước ngũ vị tắm tượng vua Trưng cùng sáu nữ đại công thần. Vì vậy được thấy tường tận y phục các ngài. Y phục đó giống hệt y phục các bà đồng mặc, khi vào giá vua Trưng.
Đặt vấn đề ai đã may quần áo mặc vào tượng vua Trưng, cùng mười hai nữ đại công-thần? Người may đã căn cứ vào đâu để may các loại y phục như vậy? Một lần thuật giả đem vấn đề đó đặt ra với các vị trưởng thượng. Các vị đó đều cho ý kiến. Nhưng ý kiến của giáo sư Nguyễn Đăng-Thục có tính chất trung dung nhất, thuật giả xin ghi lại:
- Sau khi bà Trưng nhảy xuống sông Hát-giang tự tử, mười hai nữ đại công-thần vị quốc vong thân. Người đương thời đã lập đền, tạc tượng thờ. Dĩ nhiên họ phải may quần áo giống như hồi sinh tiền các ngài đã mặc. Đền thờ sau này tuy có trùng tu, xây mới. Nhưng không ai có can đảm may loại y phục khác với y phục trên tượng các ngài. Vì, vậy y phục trên tượng các ngài là y phục thời Lĩnh-nam. Còn các bà đồng khi bà hầu bóng, bao giờ cũng may y phục giống như y phục mặc trên tượng. Kết lại y phục trên tượng hai bà Trưng và mười hai nữ đại công thần được coi là đúng nhất so với y phục phụ nữ hồi đầu thế kỷ thứ nhất.
Thế là thuật giả căn cứ y phục trên tượng vua Trưng và mười hai nữ đại công-thần mà tả y phục phụ nữ thời Lĩnh-nam. Nhưng chỉ tuân theo loại quần áo mà không theo màu sắc. Về mầu sắc, thì lại theo sử, hoặc theo các cuốn phổ lưu truyền. Như y phục bà Hoàng Thiều-Hoa thường màu vàng. Y phục bà Hồ Đề theo người Mường, mầu tím. Y phục bà Phùng Vĩnh-Hoa, mầu trắng v.v...
Về cờ của Lĩnh-nam với Hán, thời bấy giờ mang mầu gì? Tìm mầu sắc cờ Hán, phải trở lại với bộ sử ký Tư-mã Thiên. Trong đoạn Lưu Bang luận bàn với Trương Lương nên dùng mầu gì. Trương Lương đưa ý kiến nên dùng mầu đỏ. Lưu Bang kinh ngạc, vì Hán ở phương Tây thuộc Kim. Mầu đỏ thuộc Hỏa. Hỏa khắc Kim, nếu dùng mầu đỏ chẳng hóa ra tự mình khắc hại mình ư? Trương Lương giải thích rằng: Hán ở phương Tây thuộc Kim. Kim cần Hỏa mới luyện thành khí. Kim không Hỏa thì không thành. Vì vậy ta mới dùng cờ màu đỏ. Khi vua Quang-Vũ nhà Hán phất cờ trung hưng, nối tiếp sự nghiệp tổ tiên, vẫn dùng cờ đỏ.
Còn cờ Lĩnh-nam? Không một bộ sách nào ghi lại. Chúng tôi tạm theo cờ của đền thờ vua Trưng. Nền màu vàng, viền ngoài đỏ và tua màu xanh. Theo cuốn phổ của đền thờ Giao-long nữ ở Hổ-môn, Quảng-tây tả trận Lãng-bạc: Thủy quân Hán bại bỏ chạy, từ xa, hễ thấy thuyền nào kéo cờ vàng, tưởng là thuyền Lĩnh-Nam, thì bỏ vũ khí trốn chạy. Vì vậy trong toàn cuộc khởi nghĩa vua Trưng, tôi tả cờ Lĩnh-nam màu vàng.
Từ đấy thuật giả cặm cụi viết và vấn đề y phục thời Lĩnh-nam không nhắc đến nữa. Bẵng đi hai mươi năm không đem ra bàn cãi. Cho đến năm 1986, khi trao bản thảo bộ Anh hùng Lĩnh-nam cho nhà xuất bản Nam-á. Vấn đề y phục của vua Trưng lại được đặt ra. Anh Mai Trung giám đốc nhà xuất bản Nam-á muốn chọn một trong các bức danh họa đã có sẵn về vua Bà, làm bìa. Thuật giả nghiên cứu trong bốn mươi bức tranh vẽ cũng như sơn mài làm trước và sau 1975. Trong hơn bốn mươi bức đó, y phục hai Bà chia làm ba loại khác nhau:
- Loại thứ nhất, phỏng theo y phục các thiếu nữ mặc, khi đóng vai hai Bà Trưng trong ngày lễ phụ nữ vào khoảng 1956-1963. Trong đó có bức tranh của họa sĩ Phạm Hoàng, đã được chọn để làm bìa cho bộ Anh hùng Lĩnh-nam.
- Loại thứ hai quần trắng, áo dài Le Mur mầu vàng. Không thắt lưng, ngoài choàng một lớp sa mỏng mầu trắng. Chân đi hài đầu đội khăn vành.
- Loại thứ ba ngoài chít khăn mầu, quấn ngoài một giải khăn, để xõa xuống lưng. Áo dài hơi giống áo tứ thân, cổ choàng khăn, phủ xuống đến vai. Ngang lưng quấn khăn, nút sang một bên hông. Vua Trưng thì nút ở bên trái, bà Trưng Nhị thì nút ở bên phải, quần hơi giống quần phụ nữ ngày nay. Chân đi giày, lưng đeo kiếm.
Sở dĩ chúng tôi chọn tranh của Phạm Hoàng làm bìa, vì biết chắc rằng hồi quyết định y phục cho các thiếu nữ trường Trưng-Vương, Gia-Long đóng vai Hai Bà, ban tổ chức có tham khảo ý kiến của ban trị sự hội tôn kính Trưng-Vương. Trong hội này có rất nhiều lính hay ghế của hai Bà. Sau khi bàn đi tính lại, dung hòa ý kiến, ban tổ chức đưa ra y phục trên, hơi giống y phục của tượng hai Bà, sau đó canh tân đôi chút.
Một lý do nữa khiến chúng tôi chọn tranh ấy, vì trước mắt dân chúng Việt-nam, dù muốn, dù không y phục đó đã thành quen rồi. Tiểu thuyết khác với lịch sử. Sử cần đúng, cần thực chính xác. Tiểu thuyết cần quen với quần chúng. Khi loại y phục đó quen với quần chúng, thì tự nó đã thành tiểu thuyết rồi.
Một lý do nữa khiến chúng tôi chọn tranh ấy, vì trước mắt dân chúng Việt-nam, dù muốn, dù không y phục đó đã thành quen rồi. Tiểu thuyết khác với lịch sử. Sử cần đúng, cần thực chính xác. Tiểu thuyết cần quen với quần chúng. Khi loại y phục đó quen với quần chúng, thì tự nó đã thành tiểu thuyết rồi.
Có thân hữu nêu ý kiến, nên cho người về Việt-nam chụp hình đền thờ vua Trưng ở quận Hai Bà Trưng ở Hà-nội, hoặc chụp hình hai Bà trong đền để làm hình bìa.
Đến đầu năm 1988, giữa anh Mai Trung và thuật giả có bàn luận về việc chia cuộc khởi nghĩa của vua Trưng ra làm ba đoạn. Giai đoạn một vẫn để nguyên tên là Anh hùng Lĩnh-nam từ quyển một đến quyển bốn. Giai đoạn hai từ quyển năm đến quyển bẩy, đặt tên là Động-đình hồ ngoại-sử. Giai đoạn ba, từ quyển tám đến quyển mười đặt tên là Cẩm-khê di hận. Khi quyết định như vậy, đương nhiên hình bìa phải thay đổi. Hình bìa bộ Động-đình hồ ngoại sử phải nhờ họa sĩ Phạm Đình-Tín vẽ. Khi họa sĩ vẽ xong, thuật giả xem y phục của bà Phật-Nguyệt đứng trên chiếm hạm, thấy giống hoàn toàn y phục của các bà mặc khi hầu bóng Trưng-Vương. Thuật giả có hỏi họa sĩ Tín về lý do nào mà ông vẽ y phục như vậy? Ông nháy mắt rồi cười tủm tỉm trả lời:
- A... à thì tôi đã thấy nhiều lần rồi.
Thuật giả hiểu trong cuộc đời gần bảy mươi năm của ông. Ông đã từng được xem bà xã là một nhà văn nữ lên đồng, các giá về vua Trưng, Hoàng Thiều-Hoa, Trần Quốc, cho nên ông vẽ giống như y phục ấy.
Ngày 20 tháng 12 năm 1989, thuật giả có công tác y học phải đi Vân-nam. Khác với những lần trước, muốn đi Vân-nam phải đến Bắc-kinh, rồi đổi máy bay đi Côn-minh. Lần này có đường bay mới từ Vọng-các đi thẳng Vân-nam. Thuật giả tới Vọng-các rồi đổi máy bay đi Côn-minh. Vừa đi vừa về giảm đường bay được 12.000 cây số, thành ra thời gian công tác dư được năm ngày. Các bạn đồng hành lập tức trở về Vọng-các tắm hơi, hoặc vào nhà hàng No hands để được các cô gái Thái xinh đẹp đút cơm, mớm thức ăn cho. Thuật giả thì lợi dụng thời gian đó đi Ngô-châu, Liễu-châu thuộc Quảng-tây và Quảng-châu thuộc Quảng-đông. Tại các bảo tàng viện di tích văn hóa cổ ở đây, thuật giả tìm được nhiều ánh sáng về y phục thời vua Trưng.
Trong bốn bảo tàng viện Côn-minh, Ngô-châu, Liễu-châu và Quảng-châu, các công trình khai quật những ngôi mộ cổ, cũng như tranh khắc ở các thạch động, trống đồng vào thế kỷ thứ nhất, cung cấp cho thuật giả nhiều chi tiết quan trọng về y phục thế kỷ thứ nhất. Dưới đây thuật giả trình bày các hình chụp các y phục vào thời vua Trưng và thời Đông-Hán.
- Lạc-dương, kinh đô nhà Đông-Hán.
- Liêu-đông, vùng phía Đông Trung-quốc.
- Vân-nam, Quảng-tây, Quảng-đông, lãnh thổ Lĩnh-nam.
Qua các hình cho ta thấy y phục ba tỉnh thuộc lãnh thổ Lĩnh-nam hoàn toàn khác biệt với y phục thuộc lĩnh thổ Hán. Khác biệt đến độ gần như hoàn toàn. Mà y phục đó giống y như y phục trên tượng vua Trưng, cũng như các bà lên đồng mặc khi hầu giá các anh hùng thời Lĩnh-nam.
Thuật giả không chép sử, không thể và không bao giờ có hy vọng viết sử. Thuật giả chỉ viết tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết tha hồ phóng túng. Dưới ngòi bút của La Quán-Trung, Ngụy Võ-đế Tào Tháo đang là một anh hùng, đang là một thi sĩ đáng yêu trở thành một thứ gian hùng. Quan Vũ đang là một tên vũ phu thô lỗ, trở thành một đại anh hùng, trung nghĩa thiên thu. Thuật giả không viết theo lối đó. Ngược lại theo sát lịch sử. Tuy y phục thời Lĩnh-nam không phải là yếu tố quan trọng, nhưng khi tả các ngài cũng không thể cho các ngài mặc quần đen, đội khăn vuông mỏ quạ như vậy chẳng khác gì cho các ngài mặc quần jean, nhảy disco. Tuy nhiên nếu muốn cho vua Trưng mặc váy, áo búi que, đầu chít khăn vuông mỏ quạ như các cô gái Bắc-ninh hồi trước 1945, trong giai đoạn đầu các cuộc khởi nghĩa thì cũng còn có thể cãi được rằng: Khi bà Trưng mới khởi nghĩa, bà mặc quần áo giống như thôn nữ, để hòa đồng với mọi người thì cũng được. Mấy năm trước đây, Phong trào liên bang Đông Nam Á, tranh đấu ở hải ngoại, đã cho cờ của quân Tây-sơn mầu vàng. Vua Quang-Trung thì mặc giáp trụ giống như giáp trụ của Tôn Sĩ-Nghị. Rồi phong trào ra nghiêm lệnh, cấm dùng bất cứ cờ nào khác. Hôm làm lễ ra mắt phong trào, có mấy đứa trẻ con hơn mười tuổi tham dự, chúng cãi rằng cờ của vua Quang-Trung mầu đào và ngài mặc quần áo nâu sồng như trai thôn quê, vì căn cứ vào bài Ai tư vãn của công chúa Ngọc-Hân sau khi được phong Hoàng-hậu, khóc ngài:
Mà nay áo vải cờ đào,
Thay vì người ta giải thích cho chúng, thì lại xua đuổi chúng ra, Buồn thực.
Viết tại Paris ngày giỗ thứ 1947 vua Trưng (1990).
Yên-tử cư-sĩ
Còn Tiếp