Khất đại-phu nói:
- Tên Trần Lữ kia có nội công Âm-nhu giống hệt nội công của phái Long-biên. Nhưng y lại dùng năm thứ nọc độc là: nọc rắn, nọc rết, nọc bò-cạp, nọc nhện-độc, nọc tằm-núi hợp lại với phân chim quạ và ma-hoàng. Năm loại độc này khi trộn với phân chim quạ, sẽ giữ nguyên độc chất trong người. Thêm ma-hoàng để độc chất dễ nhập vào da người ta. Trong năm thứ nọc độc, mỗi thứ nhập vào một tạng trong người. Nọc Rắn nhập Tâm, nọc Rết nhập Phế, nọc Bò-cạp nhập Can, nọc Nhện nhập Tỳ, nọc Tằm nhập Thận. Vì vậy không có cách gì cứu chữa được.
Chu Bá hỏi:
- Sư phụ! Tại sao nội công phái Trường-bạch lại giống nội công phái Long-biên. Hai bên ở cách nhau hàng mấy vạn dặm?
Khất đại-phu thở dài:
- Tất cả cùng một nguồn gốc mà ra. Nguyên khi Vạn-tín hầu Lý Thân cầm đầu anh hùng Lĩnh Nam sang đấu trước sân rồng Tần Thủy-Hoàng, trong đó có chín người đệ tử của ngài. Ngài ra lệnh khởi diễn cuộc đấu, ngày đầu chỉ lấy hòa. Thỉnh thoảng mới tấn công để đối phương trổ hết sở trường ra. Rồi tối về, thầy trò tóm tắt tất cả chiêu thức của họ lại, tìm lấy một yếu quyết võ công, đưa ra thế phá. Sau hơn 15 ngày đấu, thầy trò Vạn-tín hầu tìm ra khắp Trung-nguyên chỉ có 18 nguyên tắc võ học. Hầu hết đều thiên về Dương-cương. Một lần nữa ngài tìm ra thứ nội công Âm-nhu, phá nội công Dương-cương của Trung-nguyên. Nội công Âm-nhu này chỉ cần luyện một năm, có thể phá người luyện nội công Dương-cương đã tập đến 5 năm. Ngài đem nội công ra dậy cho tất cả 9 người. Sau khi đánh Hung-nô, xây Vạn-lý trường-thành xong, ngài cùng đệ tử trở về Âu-lạc. Tần Thủy-Hoàng giữ nhị đệ-tử của ngài là Trần Mạnh-Chi lại, lĩnh chức Nội-giám hiệu-úy thống lĩnh cấm quân, Trần Mạnh-Chi được phong hầu, lấy vợ Trung-nguyên, sinh con đẻ cái ở vùng Trường-bạch, lập môn phái dạy học trò. Đời thứ năm thì đổi khác. Phan Huy được sư phụ sai đi tiểu trừ một bọn dùng thuốc độc giết người, vô ý bị chúng bắt. Chúng dùng nọc độc để tra khảo y phải khai ra bí quyết võ công. Y vận công chống độc. Nội công y cao, y lại thông minh, nên dù bị kẻ thù dùng thứ tự năm thứ nọc độc, y chống được cả. Cuối cùng kẻ thù lấy phân chim bắt ăn, để phân chim cùng độc chất hành hạ y. Y vận công chống lại đến nổi mê man. Kẻ thù sợ y chết, nấu Ma-hoàng đổ vào cho y uống. Trong cơn mê mê tỉnh tỉnh, y vẫn vận công chống độc. Hai hôm sau y tỉnh dậy trong đêm, thấy người khỏe mạnh như thường, nội lực tăng tiến. Y vận công phá gông cùm, tìm giết kẻ thù. Khi y vận chưởng giết kẻ thù thấy mùi tanh hôi bốc ra, kẻ trúng chưởng bị đau đớn khủng khiếp, rồi mới chết. Y trở về phúc trình sư phụ. Sư phụ khuyên y bỏ lối luyện độc chưởng. Y không nghe cứ bí mật luyện. Cho đến một hôm bị sư phụ bắt được, đuổi y ra khỏi sư môn. Phan Sùng tức Xích-My là hậu duệ của y vậy.
Đào Kỳ ngồi im bây giờ mới xen vào:
- Cùng gốc ở Vạn-tín hầu, tại sao phái Trường-bạch, Long-biên rồi Tản-viên, rồi Cửu-chân lại khác nhau?
Khất đại-phu thở dài:
- Tiểu hữu hỏi câu này thực phải. Nguyên khi rời Trung-nguyên về Âu-lạc. Vạn-tín hầu chế ra nội công Âm-nhu, Trần Mạnh-Chi học được nội công này, vì vậy nội công Âm-nhu phái Trường-bạch giống nội công phái Long-biên.
Ngừng một lúc ông tiếp:
- Khi về đến Âu Lạc ông tập trung hết các chiêu thức ngoại công như quyền, chưởng của các phái Trung-nguyên. Ngài dậy đệ tử là Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung. Vì bấy giờ Vũ Bảo-Trung lĩnh chức Tư-mã của Âu Lạc thống lĩnh quân đội. Người thống lĩnh quân đội cần học võ công phá võ công Trung-nguyên để đánh giặc ngoại xâm. Muốn xử dụng những võ công phá võ công Trung-nguyên đó, phải học nội công Dương-cương. Do vậy Vạn-tín hầu chế nội công Dương-cương khắc chế nội công Trung-nguyên cho phù hợp với chiêu thức khắc chế võ công Trung-nguyên. Con cháu, đệ tử Trung-tín hầu sau lập ra phái Cửu-chân. Phái Cửu-chân thường đỉnh lập, tránh đụng chạm với người Việt, mà chỉ chú ý đến chống ngoại xâm. Vì vậy đời đời được anh hùng Lĩnh Nam kính trọng.
Chu Bá gật đầu tỏ vẻ hiểu biết:
- Sư phụ! Thì ra là vậy. Trước đây con lấy làm lạ rằng võ công Cửu-chân song kiệt không hơn chúng con làm bao. Nhưng Đinh-hầu, Đào-hầu được chúng nhân tôn phục, kính trọng tuyệt đối. Hơn hẳn nhạc phụ con là Lục-trúc tiên sinh. Chính vì uy đức yêu nước chống giặc?
Khất đại-phu gật đầu:
- Đúng thế! Đất Lĩnh Nam mình, người ít, đất rộng. Bên cạnh Trung-nguyên người đông, đất hẹp. Họ luôn muốn chiếm đất mình, vì vậy người Lĩnh Nam đặt võ đạo chống ngoại xâm lên hàng đầu. Ai chống ngoại xâm được kính trọng... Để ta tiếp, Vạn-tín hầu dạy con cháu nội công Âm-nhu, kiếm pháp thần thông. Con cháu người lập ra phái Long-biên. Vì vậy nội công Long-biên với Trường-bạch giống nhau. Tuy nhiên người tập võ công Cửu-chân muốn luyện võ công Long-biên cũng dễ dàng, vì cùng một nguồn gốc. Do đó Đào tiểu hữu gặp sư huynh, Nguyễn Phan được sư huynh dạy Long-biên kiếm pháp, mà chỉ mấy ngày luyện xong. Còn cháu Phương-Dung lấy chồng rồi, luyện võ công Cửu-chân cũng thành công là thế.
Việc Đào Kỳ học kiếm pháp của Nguyễn Phan dạy lại cho Phương-Dung ai cũng biết. Còn chuyện Phương-Dung được chồng dạy võ công Cửu-chân thì không ai biết. Nay nghe Khất đại-phu nói, mọi người ngơ ngác nhìn nàng. Phương-Dung xấu hổ hỏi:
- Tiên sinh, sao tiên sinh biết cháu luyện võ công phái Cửu-chân?
Khất đại-phu cười:
- Gì mà ta không hiểu! Nội công của cháu thuần Âm-nhu. Khi đối chưởng với Dương-cương bao giờ cũng lùi lại một bước hóa giải kình lực đối phương. Nhưng mấy lần cháu xuất thủ ngoài trận tuyến. Ta thấy cháu vận Dương-cương chống kình lực đối thủ, không chịu lùi bước. Rồi sau đó đổi ra Âm-nhu, xuất kiếm chiêu, thì ta biết cháu tập võ công Dương-cương của Cửu-chân.
Đô Dương gật đầu bái phục:
- Tiên sinh quả đúng là một tiên ông như người đời gọi. Tiên sinh chỉ liếc mắt, mà đã biết rõ nguyên ủy mọi việc. Thưa tiên sinh, cháu còn một chuyện thắc mắc, là bộ Văn-Lang võ học kỳ thư, rõ ràng do phò mã Sơn Tinh chép ra, tức gốc của võ công Văn-lang, tại sao trong đó lại có lẫn võ công của Vạn-tín hầu?
Khất đại-phu nhìn Đào Kỳ nói:
- Điều này Đào tiểu hữu biết rõ hơn ta. Nguyên khi An Dương vương đánh nhau với Hùng-vương, phò mã Sơn Tinh đấu với Vạn-tín hầu. Sơn Tinh dùng võ công Tản-viên, Dương cương, lấy căn bản là Phục Ngưu thần chưởng. Còn Vạn-tín hầu dùng Long-biên kiếm pháp Âm-nhu mà thắng. Khi chiếm được Văn-Lang, Vạn-tín hầu cướp cây đồng côn tượng trưng uy quyền của Hùng vương, trong đó chép võ công Tản-viên, tức võ công Văn-Lang. Ngài đem ra nghiên cứu, thấy võ công Tản-viên đạt đến cao độ bậc nhất Dương cương. Ngài tiếc rẻ một pho kỳ thư võ học. Ngài ngồi ngẫm nghĩ chế ra 36 chiêu Âm nhu cùng tên với 36 chiêu Dương cương, nhưng nội công lại thuộc Âm nhu, cách vận sức, chiêu số hoàn toàn khác các chiêu kia. Ngài khắc thẻ đồng, bỏ chúng vào trong cây đồng côn. Cây đồng côn đó sau thuộc đại đệ tử của ngài là Trung-tín hầu. Trung-tín hầu tuẫn quốc. Cây gậy vẫn để ở đền thờ ngài. Đào tiểu hữu có cơ duyên khám phá ra, mà học được đủ cả 36 chiêu Phục Ngưu thần chưởng cả Cương lẫn Nhu.
Tiên-yên nữ-hiệp hỏi:
- Thúc-phụ, cháu thấy có điều kỳ lạ là cây côn đồng chứa 200 thẻ đồng bên trong. Vậy mà từ Trung-tín hầu đến Đào Kỳ xử dụng tại sao không có tiếng kêu lóc cóc. Đã có tiếng kêu thì người cầm cây côn phải khám phá ra chứ.
Đào Kỳ trả lời:
- Khi cháu xử dụng cây côn đồng đấu với Vũ Hỷ, đã thấy hơi khác lạ. Cháu dùng kiếm gõ vào thấy lạch cạch. Lúc thợ rèn cho gậy vào lửa đốt, mối hàn ở đầu gậy chảy ra. Nắp gậy lộ khe hở. cháu dùng dao cạy, thì thấy bên trong ngoài 200 thẻ đồng, còn chứa đầy cát. Chính cát đã làm cho gậy với thẻ đồng không gây tiếng động.
Chu Báthắc mắc:
- Trước nhạc phụ con là Lục-trúc tiên sinh chỉ biết có 12 chưởng trong 36 chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Cả 12 chiêu đều thuộc Dương-cương, không có chiêu nào thuộc Âm-nhu cả là tại sao?
Khất đại-phu đáp:
- Vạn-tín hầu chế ra nội công, chưởng pháp Phục-ngưu Âm-nhu, chứ ngài không xử dụng được chưởng pháp bằng Dương-cương. Vì ở đời làm gì có người vừa luyện được Âm-nhu lẫn Dương-cương một lúc bao giờ? Do đó bí lục Phục-ngưu thần chưởng Âm-nhu chỉ có Vạn-tín hầu biết. Còn Phục-ngưu thần chưởng Dương-cương chỉ có đệ tử Tản-viên biết xử dụng. Nhưng dần dà chưởng pháp bị mai một đi. Chưởng này, mỗi chiêu phát ra kình lực mạnh vô song. Đánh từng chiêu một, địch có thì giờ xen vào phản công. Nếu thuộc cả 36 chiêu, xử dụng như mây trôi, nước chảy, như thành đồng, vách sắt đối thủ không sao trở tay kịp. Thế rồi Đào tiểu hữu học nội công Dương-cương của Cửu-chân. Y có kỳ duyên tìm được bộ Văn-lang võ học kỳ thư, y không hiểu ất giáp gì cứ tự luyện lấy. Y luyện cả Dương-cương lẫn Âm-nhu. Khi y luyện sắp thành thì gặp ta. Ta đem lý thuyết hòa hợp chân khí thảo luận với y. Y tìm cách hợp hai thứ nội công lại không được. Trong lần thám thính Thái-hà trang, y đấu nội lực với Phong-châu song quái, giữa lúc nguy nan, y đâm liều vận sức cương-nhu cùng một lúc. Không ngờ thành công đánh Song-quái bị thương nặng.
Đào Kỳ nói:
- Khất đại-phu, hồi đầu cháu chỉ có thể phát chiêu hoặc Dương, hoặc Âm. Sau lần đó cháu có thể phát ra một lúc tay phải Dương tay trái Âm, hoặc ngược lại. Hiện cháu vẫn nghĩ rằng một ngày nào đó, hậu thế có người tài trí phát minh ra phương thức hòa hợp, đang giao chiến, thì dù bên tay phải hay trái phát chiêu khi Âm khi Dương. Như vậy có lúc cả hai bên đều Dương hoặc cả hai bên đều Âm, hoặc bên Âm bên Dương rồi thình lình đổi ngược lại.
Giao-Chi nghe các đại tôn sư võ học bàn luận võ công, nàng biết thân phận võ công mình kém nhất, nên chỉ ngồi nghe. Bây giờ mới xen vào:
- Thái sư-thúc, cháu có một thắc mắc mà cho đến nay không giải đáp được. Hồi đại hội Tây-hồ Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa còn là hai cô gái, võ công kém cháu và Hoàng sư tỷ xa. Thế rồi hơn hai năm nay, võ công hai người cao đến độ cháu không ngờ. Trong trận đánh Dương-bình quan, Võ-đô, Phùng sư-tỷ dùng hai người như là chiến tướng xung trận. Cháu thật không hiểu nổi.
Khất đại-phu cười:
- Cháu không hiểu là phải, từ trước đến giờ ta chỉ biết có 16 chưởng Phục-ngưu, dạy cho Quế, Quỳnh. Công lực chúng lại thua cháu xa, xử dụng Phục-ngưu thần chưởng làm sao phát huy được? Kịp đến khi Đào tiểu-hữu đây có lòng quảng đại đem tất cả bộ Văn-lang vũ học kỳ thư trao cho ta nghiên cứu. Ta dạy chúng nội công Dương-cương của Văn-lang rồi dạy chúng đủ 36 chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Trong 36 chiêu nếu chúng xử dụng rời rạc, khi đấu với cháu, chỉ vài chưởng là cháu đã thắng chúng. Nhưng chúng xử dụng đủ 36 chiêu. Chiêu nọ đối chiêu kia, thành một dây liên miên bất tuyệt, như thành đồng vách sắt, nên võ công đã trở thành huyền ảo vô song.
Phương-Dung hỏi:
- Trong trận đấu Tây-hồ, cháu thấy tiên sinh dùng một thứ nội công kỳ lạ không phải của Tản-viên, thắng Lục-trúc tiên sinh. Phải chăng là do tiên sinh chế ra?
Khất đại-phu ngoắc tay cười:
- Cháu thực thông minh. Nguyên ta hợp giữa y học và võ học. Ta thấy luyện nội công mãi thì khí tức vận ra tay. Nhưng nó lớn như một cái cột, sức không mạnh. Vậy tại sao ta không phát ra từng kinh lạc một, có phải mạnh hơn không? Sau bao nhiêu năm luyện tập. Ta biết vận khí vào từng kinh một. Ta nhận thấy rằng Đốc-mạch tổng hợp các kinh Dương. Nhâm-mạch tổng hợp các kinh Âm. Ta vận khí luân lưu theo Đốc mạch, rồi dồn tay một lúc, kình lực mạnh khủng khiếp. Ngược lại chân khí tụ vào Nhâm-mạch rồi vận ra bàn tay, thì hóa ra chân khí nhu hòa. Ta luyện thành công phương pháp này, nên trước đây bản lĩnh ta thua sư đệ rất xa. Mà hôm ở Tây-hồ, ta đánh y mất hết công lực là thế. Y dồn chân khí ra tay như một cây cột. Còn ta thu về Đốc-mạch rồi dồn sang các kinh Dương ở tay là: Thủ dương-minh Đại-trường kinh, Thủ thái-dương Tiểu-trường kinh, Thủ thiếu-dương Tam-tiêu kinh. Vì vậy dương kình ta với sư đệ ngang nhau. Ta biết vận khí vào đơn điền, đưa đến Nhâm-mạch, chuyển qua ba kinh Âm ở tay là Thủ thái-âm Phế kinh, Thủ thiếu-âm Tâm kinh, Thủ khuyết âm Tâm-bào kinh, kình lực thành nhu hòa. Khi sư đệ dồn chân khí Dương-cương sang ta, ta để các chân khí đổ vào các kinh dương, chuyển về Đốc-mạch đưa sang Nhâm-mạch. Bao nhiêu chân khí của sư đệ dồn vào người ta, ta hóa mạnh, còn sư đệ kiệt quệ là thế.
Chu Bá hỏi Đào Kỳ:
- Đào tam-lang, tôi nhớ một hôm ở Thái-hà trang. Một mình người đấu nội lực với Phong-châu song quái. Chỉ một lúc sau Song-quái đều bị kiệt lực, đó là ngươi dùng phương pháp của sư phụ tôi phải không?
Đào Kỳ gật đầu:
- Hôm đó tôi mới gặp tiên sinh, được người mang về chữa bệnh cho, rồi chúng tôi thảo luận về võ học, y học. Do đó tôi học được phương pháp này của người. Trong lúc đấu với Song-quái, nội lực của tôi chỉ có thể ngang với một quái, mà phải đấu với hai người. Vì thế trong lúc nguy cấp, tôi áp dụng liều, hú họa mà thắng. Do đó tôi phát huy được nội lực Âm-Dương một lúc.
Trương Minh-Đức lại hỏi:
- Đào đại-ca! Tôi nhớ có lần Tường-Quy kể rằng đại-ca dùng một chiêu trong Phục-ngưu thần chưởng là Ác ngưu nan độ nhưng không có một chút kình lực nào, đấu với đại sư-bá Đức-Hiệp, khiến người bị kiệt lực. Có phải đại-ca dùng chiêu Âm-nhu của Vạn-tín hầu không?
Đào Kỳ gật đầu:
- Đúng đó, tôi học được 36 chiêu Phục ngưu thần chưởng trong đồng côn. Nhưng tôi chỉ có thể vận khí ra tay phải Dương, tay trái Âm hoặc ngược lại. Khi giao đấu với Lục-trúc tiên sinh ngoài hải đảo để cứu thân phụ tôi. Tay trái tôi phát chưởng Âm-nhu, tay phải tôi phát chưởng Dương-cương. Vì vậy tôi thắng người chỉ có trong ba chiêu là thế. Chứ thực sự công lực tôi lúc bấy giờ kém người xa.
Đô Dương khâm phục:
- Đào hiền đệ, nếu một ngày nào đó, hiền đệ có thể tay phải đang phát chiêu Dương thình lình phát chiêu Âm. Ngược lại tay trái cũng thế, thì trên thế gian này không ai có thể là đối thủ của hiền đệ được nữa, có phải thế không?
Khất đại-phu thêm vào:
- Khó lắm! Khó lắm. Như khi tay trái đang vận khí Dương-cương, muốn chuyển qua Âm-nhu hay ngược lại, phải mất bốn tiếng đập tim, có khác gì đưa đầu cho đối phương cắt. Vì vậy chỉ có thể tay phải vận Dương-cương, tay trái vận Âm-nhu là đã cao lắm rồi. Chứ còn đang phát chiêu bên phải từ Dương sang Âm, bên trái từ bên Âm sang Dương muôn ngàn lần khó khăn. Khó khăn là đang từ Dương, từ Âm muốn đổi ngược lại phải hóa giải chân khí đã vận trong người đã. Làm sao mà hóa giải được
Trần Công-Minh hỏi:
- Như Huyền-âm độc chưởng của Trần Lữ đánh vào người sư muội đây, chân khí Âm-nhu, độc khí nằm ở tay. Vậy với nội công Dương-cương của Đào tam-lang có thể đẩy được độc chất của sư muội ra ngoài không?
Khất đại-phu lắc đầu:
- Ta đã nghĩ đến điều đó. Bây giờ ta dùng nội công Dương-cương đẩy vào Thủ-tam dương kinh của Tiên-yên, lập tức chất độc lại chạy sang Thủ-tam âm kinh và ngược lại. Vì ngươi nên biết trong lục kinh, Thủ-tam âm, Thủ-tam dương, mỗi kinh Âm, Dương đều có Lạc-mạch thông với nhau. Như Thủ thái-âm Phế kinh tại huyệt Liệt-khuyết có Lạc-mạch thông sang Thủ-dương minh Đại-trường kinh. Ngược lại Thủ-dương minh Đại-trường kinh tại huyệt Thiên-lịch có Lạc-mạch thông Thủ-thái âm Phế kinh.
Phương-Dung sáng mắt lên nói:
- Nếu như tiên sinh vận khí đẩy vào Thủ tam-dương, Đào tam-lang đẩy vào Thủ tam-âm, như vậy độc sẽ chạy ra khỏi người phải không?
Khất đại-phu lắc đầu:
- Không được, hoàn toàn không được?
Phương-Dung xịu mặt xuống hỏi:
- Thưa tiên sinh tại sao thế?
Khất đại-phu nói:
- Độc chất khi nhập vào tay, theo kinh mạch nhập tạng phủ. Nếu ta dùng chân khí thúc vào tạng phủ, độc đẩy ra được. Nhưng Tiên-yên sẽ bị nát tạng phủ ra mà chết. Muốn chữa bệnh này phải có cách gì, biến đám độc khí trở thành không trong người, mới khỏi bệnh.
Khất đại-phu móc trong bọc ra một hộp thuốc đưa cho Tiên-yên nữ-hiệp:
- Cháu hãy cầm hộp thuốc này mỗi ngày uống ba viên vào lúc sớm mai, ba viên vào lúc tối. Tuy không chữa được bệnh cho cháu, nhưng cháu cũng đủ sức chống bệnh, không đến nỗi bỏ mạng. Trong thời gian đó ta tìm bắt tên Trần Lữ kiếm thuốc giải cho cháu.
Tiên-yên nữ-hiệp cũng biết sơ về thuốc, bà hỏi:
- Thúc phụ, thuốc này tên là gì vậy?
Khất đại-phu cười:
- Thuốc không có tên, do ta chế ra. Nguyên vùng núi Tản-viên có nhiều muỗi. Muỗi đốt người lên cơn sốt rét cách nhật. Nguyên do vì muỗi hút chất độc ở cây cỏ trong rừng. Khi nó đốt người đầu tiên dùng vòi châm vào da, nhả chất độc vào người theo vòi, rồi mới hút máu. Chất độc đó vào máu chạy khắp cơ thể. Chất độc của muỗi và máu làm huyết bị hư hoại, chất độc theo máu vào Can, Tỳ, Tâm. Tâm bị chất độc vào, làm thành bệnh. Y kinh nói rằng: Tâm chủ thần chí. Khi tâm có chất độc, thần chí u mê. Tỳ bị chất độc vào, không hoạt động đều, do vậy công năng sinh huyết kém đi. Người hóa ra vàng vọt. Can bị chất độc thì sưng lớn. Vì vậy người bị muỗi đốt vào mới làm cho gan sưng lớn. Bụng họ thường chướng lên.
Ông nhìn Tiên-yên nữ hiệp nói:
- Ta dùng Hà-thủ-ô pha lẫn với Quế-chi, Phục-linh, Đào-nhân chế ra thứ thuốc này. Hiệu năng của Hà-thủ-ô là ích tủy, thiêm tinh, điều hòa lao huyết như vậy được coi là vị chính để trị bệnh hoại huyết do chất độc. Nó có khả năng chống độc ở Tâm, Tỳ, Can. Còn Phục-linh để bổ Tỳ, đẩy thấp ra ngoài. Đào-nhân an thần, ngủ được, bổ tâm-huyết. Còn Quế-chi thông dương, cũng là để chống độc chất.
Tiên-yên nữ hiệp bỏ ba viên thuốc vào miệng nuốt. Bà ngồi nhắm mắt vận khí, một lát thì sắc mặt bà hồng hào, hơi thở nhẹ nhàng. Bà nói:
- Thuốc của thúc-phụ thật là thần diệu.
Khất đại-phu nói:
- Ta cần phải bắt tên Trần Lữ, khảo nó, bắt khai ra phép luyện Huyền-âm thần chưởng, rồi nghiên cứu ra phương pháp khử độc hầu cứu những người khác trong thiên hạ. Phương-Chi, cháu ngồi im, nhắm mắt, buông thả kình lực. Để ta vận khí chuyển bớt chất độc ra ngoài cơ thể cháu. Có như vậy mới không nguy hiểm.
Tiên-yên nữ hiệp ngồi xếp chân nhắm mắt dưỡng thần.
Khất đại-phu bảo Đào Kỳ:
- Này bạn nhỏ, ngươi vận khí Âm-nhu về đơn-điền. Chuyển qua Nhâm-mạch, đưa lên Thượng-tiêu rồi phát ra ở Thủ-khuyết-âm Tâm-bào kinh, phát Lĩnh-nam chỉ tại huyệt Trung-xung cho ta xem thử?
Đào Kỳ nói:
- Thưa tiên sinh, hôm trước tiên-sinh phát minh ra Lĩnh-nam chỉ pháp đặt trên nguyên tắc: Một là vận khí ra Dương-kinh rồi chuyển chân khí vào Lạc-mạch, xuất chỉ ở tĩnh-huyệt Âm-kinh. Như chúng ta vẫn dẫn khí vào kinh Tam-tiêu, không xuất chỉ ở huyệt Quang-xung, mà lại phát ra ở huyệt Trung-xung. Hai là vận khí ra Dương-kinh rồi xuất chỉ ở tĩnh-huyệt của nó. Như vậy vận khí ở Thủ-dương minh Đại-trường kinh rồi xuất chỉ ở huyệt Thương-dương.
- Đúng! Vì vậy Lĩnh-nam chỉ là chỉ pháp Dương-cương. Ta không tập nội công Âm-nhu. Tiểu hữu đã tập rồi. Vậy tiểu hữu thử vận nội công Âm-nhu rồi chuyển qua Âm-kình phát chỉ xem sao.
Đào Kỳ ngồi ngay ngắn, vận khí cho lưu thông khắp vòng Tiểu chu-thiên. Lập tức trên đầu chàng có một làn khí trắng mờ mờ bốc lên. Chàng quy liễm chân khí vào đơn-điền, đưa lên Thượng-tiêu chuyển vào Tâm-bào rồi dẫn tới vai theo Thủ khuyết âm Tâm-bào kinh tới đầu ngón tay. Ngón tay chàng run lên mãnh liệt. Chàng đưa tay lên phát chỉ nhưng không kết quả.
Chàng lại vận khí một lần nữa, lần này tay rung động mãnh liệt, chàng chỉa ngón tay lên không, chỉ lực phát ra Xì một tiếng. Tiếp theo tiếng choang rất lớn. Khắp phòng phủ một luồng khí lạnh kinh người.
Thì ra Đào Kỳ ngồi gần bệ thờ. Lúc chàng phát chỉ, trúng phải bát hương bằng đồng, bát hương bật tung khỏi bàn thờ.
Phương-Dung đứng lên nhặt bát hương để lại chỗ cũ, thấy thủng một lỗ bằng đầu ngón tay.
Khất đại-phu vỗ tay reo:
- Thành công rồi! Từ nay ta đặt Dương-chỉ là Lĩnh-nam cương chỉ. Còn Âm-chỉ gọi là Lĩnh-nam huyền-âm chỉ. Bây giờ Đào tiểu hữu vận khí, dùng ngón tay ấn lên huyệt Dũng-tuyền dưới bàn chân Phương-Chi, vận Huyền-âm chỉ đẩy ngược trở lên.
Đào Kỳ tuân lời đứng trước mặt Tiên-yên nữ hiệp. Chàng quỳ xuống vận Huyền-âm chỉ đẩy vào huyệt Dũng-tuyền của bà. Lập tức người bà rung động mãnh liệt. Khói trắng bốc lên đỉnh đầu như một làn sương. Giữa lúc đó thì Khất đại-phu chĩa ngón tay trỏ phát ra Lĩnh-nam chỉ đến véo một cái vào huyệt Đại-trùy của bà. Người bà đang lạnh toát bỗng thấy nóng bừng lên. Hai huồng Âm, Dương chỉ của Đào Kỳ và Khất đại-phu dồn vào người bà, hòa hợp làm một. Khiến bà cảm thấy cái đau đớn của độc chưởng từ từ tiêu tan. Một lát sau, người bà toát ra mùi hôi tanh không thể tưởng tượng được.
Khất đại-phu hô lớn:
- Ngưng lại.
Đào Kỳ thu nội lực lại, Khất đại-phu giảng:
- Chúng ta dùng Âm, Dương chỉ, đẩy chất độc ra ngoài người Phương-Chi. Song chỉ tạm thời không nguy hiểm mà thôi.
Từ khi Mã Viện đi rồi, mọi người xoay quanh câu chuyện võ công khử độc, bây giờ Phương-Dung mới có dịp hỏi Trần Công-Minh:
- Sư bá! Tại sao sư bá và các vị sư huynh Ngũ-phương thần-kiếm lại đi chung với nhau? Giữa đường gặp Mã Viện trong trường hợp nào để xảy ra cớ sự.
Trần Công-Minh kể lại tất cả chi tiết xảy ra, từ khi Nghiêm Sơn đem quân đánh Thục, cho tới khi Trưng Trắc trở về Lĩnh Nam, cùng những biến chuyển xung quanh việc Hàn Tú-Anh.
Phương-Dung tuy thông minh, giỏi điều quân, nhưng những suy nghĩ sâu xa về quốc sự nàng thua xa Trưng Trắc và Trưng Nhị. Nàng hỏi:
- Như vậy Trưng sư tỷ cùng các vị sư thúc, sư bá cùng quyết định rằng chúng ta phải làm bằng này việc. Thứ nhất cho Quang-Vũ biết mẹ đẻ là Hàn Tú-Anh. Hàn Tú-Anh là mẹ nuôi của Nghiêm đại-ca. Chính Nghiêm đại-ca đã nghe lời nhũ mẫu cứu Quang-Vũ. Thứ nhì cho Quang-Vũ biết vụ này, để gây cho trong triều Hán hai phe là phe Thái-hậu, phe Quang-Vũ xung đột nhau. Như vậy triều Hán sẽ yếu đi để Thục có thì giờ cũng cố các vùng mới chiếm. Thứ ba cứu bằng được Hàn Tú-Anh, đưa vào Lĩnh Nam làm con tin, khiến Quang-Vũ không dám xâm lăng Lĩnh Nam. Hầu chúng ta có thời giờ cũng cố binh lực, chia ba thiên hạ với Quang-Vũ. Thứ tư cứu Nghiêm đại-ca, đưa về làm Hoàng-đế, phục hồi thành một nước hùng mạnh, chịu điều kiện xưng thần với Quang-Vũ, như An-Dương vương đối với Tần Thủy Hoàng xưa kia. Còn nếu như Quang-Vũ cứ nhất định chiếm Lĩnh Nam. Chúng ta cùng Công-tôn Thuật đánh thẳng lên Lạc-dương.
Trần Công-Minh gật đầu:
- Sách lược thì như thế. Còn chi tiết thì Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, với cháu thực hiện.
Phương-Dung suy nghĩ rồi nói:
- Như vậy chúng ta phải làm ngay ngày mai mới kịp. Phải ra tay trước khi Mã thái-hậu tìm được Hàn Tú-Anh. Chúng ta cần có phái đoàn đột nhập hoàng-thành, nói cho Quang-Vũ biết mẹ mình đang bị Mã thái-hậu truy lùng. Y có thể ra lệnh cho các nơi không tuân mật chỉ của Mã thái-hậu. Trong khi đó chúng ta cùng tìm Hàn Tú-Anh. Cũng đêm nay chúng ta cứu Nghiêm đại-ca ra khỏi nhà tù. Nội trong một ngày phải làm xong, nếu không sáng ngày thứ ba quân của Hoàng sư tỷ và thái-tử Công-tôn Thuật tới Trường-an. Đạo của sư bá Cao Cảnh-Minh tới Thiên-thủy, thì hỏng mọi sự. Nhất là ngăn làm sao không cho Mã Viện yết kiến Quang-Vũ trước khi quân Thục tới Trường-an.
Tiên-yên nữ hiệp nói:
- Thế này: Cứu Nghiêm Sơn thì Phương-Dung, Khất đại-phu, Đô Dương, Chu Bá. Còn yết kiến Quang-Vũ thì Trần sư huynh, Ngũ phương thần kiếm, Đào Kỳ và tôi. Tuy nhiên cần đề phòng lỡ chúng ta bị bắt hết, còn có kẻ báo cho mọi người biết. Vậy Đặng sư đệ cùng với Cao sư huynh, Giao-Chi, Cảnh-Nham, Cảnh-Khê, Trương Minh-Đức ở đây đợi tin tức. Nếu sau một ngày không thấy chúng ta về, phải sai Thần-ưng mang thơ cho Hoàng Thiều-Hoa.
Mọi người tiếp tục đi ngủ. Sáng hôm sau vừa thức giấc, Giao-Chi đã kêu lớn lên:
- Lưu Thương, Phùng Dị với Trương Minh-Đức đâu rồi?
Từ lúc vào miếu Phương-Dung trói Phùng Dị, Lưu Thương vào gốc cây phía sau, giao cho Trương Minh-Đức canh gác. Bây giờ nghe Giao-Chi nói vậy. Nàng chạy ra phía sau thấy mất hai con ngựa. Dây trói Phùng, Lưu bị cắt đứt bỏ ở đó. Mọi người đổ ra tìm dấu vết chúng thấy xác Trương Minh-Đức bị bóp cổ chết, quẳng ở bụi cỏ, trên cổ còn có vết tím bầm.
Đô Dương thở dài:
- Chúng ta sơ ý, để hai tên đó cọ tay vào cây, làm đứt dây trói. Chúng thừa dịp bóp cổ Trương Minh-Đức. Ăn cắp ngựa chạy trốn. Chắc chúng chạy về Trường-an. Ngày mai là ngày chẵn, Quang-Vũ không thiết triều. Vậy chúng ta cần hành động gấp. Bởi ngày kia Quang-Vũ thiết triều, Phùng, Lưu sẽ tâu hết kế hoạch của chúng ta cho Quang-Vũ.
Cả đoàn vội vã lên ngựa hướng Trường-an tiến. Trời vừa sáng, cửa thành mở, mọi người vào trong. Đô Dương dẫn cả đoàn đến nhà một người thân, trong trang trại lớn phía Đông thành. Tới nơi Đô Dương lấy vải, vẽ bản đồ các cung trong thành Trường-an.
Tiên-yên nữ hiệp nói:
- Bây giờ chúng ta ăn rồi đi nghĩ. Đợi tối hãy hành động. Chu Bá, Đô Dương thông thuộc đường lối, cùng cung cách của cấm binh, sẽ cùng Phương-Dung, Khất đại-phu giả làm cấm quân. Tìm chỗ giam Nghiêm Sơn cứu y ra. Cần nhất đừng để lộ tung tích, tránh giao tranh. Bất đắc dĩ phải giao tranh, thì tìm cách chạy vào hoàng-cung.
Đặng Đường-Hoàn ngạc nhiên:
- Chạy vào cấm cung ư? Như vậy chẳng hóa ra nguy hiểm ư?