Đào Kỳ kể lại tỉ mỉ ngày chàng cùng sư tỷ ra đi theo Nghiêm Sơn ra Bắc. Đến bến đò sông Hồng-hà thì gặp Nguyễn Tam-Trinh giả làm người lái đò, tấu nhạc cho nghe, rồi dìm thuyền bắt sống Nghiêm Sơn ra sao. Chàng kết luận:
- Nguyễn sư-bá với Nghiêm đại-ca là hai người anh hùng. Phàm đã là anh hùng, họ nhìn nhau, nghe nhau nói, là hiểu nhau liền. Sư bá Nguyễn Tam-Trinh biết đại-ca cầm quyền khuynh quốc, tước Lĩnh-nam công, nếu thả đại-ca ra mà đại ca thù hận, chỉ một ngày sau đất Mai-động sẽ thành bình địa. Thế mà sư bá vẫn tha. Còn Nghiêm đại-ca trở về, mấy hôm sau lại đem đủ lễ, nào trâu, nào bò, nào hoa quả, theo tục lệ Âu Lạc để thế mạng. Nghiêm đại-ca còn nói:
Dù đấu văn, đấu võ, đấu môn nào thua thì cũng là thua. Nghiêm đại-ca nhận thua sư bá Tam-Trinh. Sư-bá phục quá, hai người kết bạn với nhau. Sư-bá còn đứng ra làm lễ cưới tam sư-tỷ của tôi với Nghiêm đại-ca nữa.
Bỗng trên trời có tiếng Thần-ưng kêu lên the thé. Phương-Dung ngửa mặt nhìn lên, thấy đôi Thần-ưng đang bay trên đầu mình. Nàng huýt sáo một tiếng, đôi Thần-ưng đáp xuống trước ngựa. Nàng mở ống tre dưới chân chúng ra, lấy một mẩu giấy đọc:
" Đêm hôm qua Chinh-tây đại tướng quân Phùng Dị, Võ-oai tướng quân Lưu Thương lấy ngựa trốn về Hán. Vi Đại-Khê chỉ huy đội Ngao-thần canh phòng đuổi theo bị đánh trọng thương. Ba Ngao-thần bị giết. Sún Rỗ chỉ huy đội Thần-ưng tuần tiễu bị chúng bắt đi mất. Ta đấu chưởng với Phùng Dị bị thương nhẹ. Chúng chạy về hướng Trường-an báo cho tiểu sư-đệ biết mà liệu việc.
Dưới thư vẽ bông cúc vàng. Đào Kỳ biết đó là biểu hiệu của Hoàng Thiều-Hoa. Đào Kỳ hỏi Phương-Dung:
- Nếu Phùng Dị, Lưu Thương chạy thoát về Trường-an, thế nào cũng theo con đường chúng ta đi, e chúng ta không dùng binh phù của Nghiêm đại-ca được nữa.
Phương-Dung cười:
- Khi Phùng Dị, Lưu Thương đầu hàng em biết chúng không thực tâm, dặn Lục Sún cho Thần-ưng tuần phòng trên trời. Dù chúng chạy đâu cũng không thoát con mắt Thần-ưng. Nếu chúng về Trường-an, thế nào cũng theo con đường chúng ta đi. Chúng ta cứ thủng thẳng sẽ gặp chúng. Thần-ưng sẽ báo cho chúng ta biết.
Phương-Dung viết thư trả lời Hoàng Thiều-Hoa, rồi tung Thần-ưng lên trời. Chúng lượn một vòng rồi bay về hướng Nam.
Mọi người lại lên đường. Được mấy dặm, cặp Thần-ưng đưa thư lại lộn trở lại bay tà tà trên đầu. Chúng kêu lên những tiếng khẩn cấp như giục giã, như cầu cứu.
Phương-Dung hiểu ý nói:
- Có lẽ Sún Rỗ bị Phùng Dị bắt mang theo, đang ở gần đâu đây. Chúng thấy chủ tướng bị nạn đến báo cho chúng ta biết.
Năm người phi ngựa ngược trở lại hướng Nam. Đôi Thần-ưng bay lượn trên đầu dẫn đường. Chúng dẫn năm người tới một ngọn đồi cây cối um tùm. Trên trời một đoàn Thần-ưng từng năm con một lao xuống tấn công địch rồi lại bay lên. Chúng lên xuống từng đợt rất nhịp nhàng.
Năm người phi ngựa đến chân đồi, buộc ngựa vào gốc cây, hướng chỗ Thần-ưng đang tấn công lần tới. Xa xa họ nghe tiếng Sún Rỗ nói:
- Đ.M thằng Phùng Dị, mày thân làm Chinh-tây đại tướng-quân cho thằng Quang-Vũ, mà không sao bắt được ông, thì về nhà chui đầu vào quần vợ chết đi cho rồi.
Phùng Dị nghe chửi tức quá. Y đến gốc cây nhìn lên, thấy Sún Rỗ ngồi vắt vẻo trên cây, lấy ngón tay để vào mũi ngạo y. Y rút kiếm chặt cây. Công lực y cao thâm chỉ mười nhát, cây đã kêu răng rắc mấy tiếng rồi đổ xuống. Phùng Dị cười ha hả tiến lại bắt Sún Rỗ. Sún Rổ hú một tiếng, toán Thần-ưng trên trời đâm bổ xuống tấn công Phùng Dị. Phùng Dị, Lưu Thương cùng tấn công Thần-ưng. Nhưng Thần-ưng đã bay lên cao. Phùng Dị quay lại định bắt Sún Rỗ. Nó đã thoăn thoắt leo lên một ngọn cây khác.
Lưu Thương bàn:
- Chúng ta mau rời khỏi nơi đây, nếu không quân Thục đuổi theo thì nguy. Nhất là Đào Kỳ, Phương-Dung đuổi kịp tính mệnh khó toàn.
Có tiếng nói khoan thai đâu đó:
- Đào Kỳ, Phương-Dung đã đến từ lâu rồi.
Từ bụi cây năm người tiến ra. Đi đầu là Phương-Dung, rồi đến Đào Kỳ, Đô Dương, Khất đại-phu, Giao-Chi.
Phùng Dị không nói không rằng vung chưởng tấn công Phương-Dung. Phương-Dung nhún mình một cái nhảy lui lại. Ở trên không nàng đã rút kiếm, ánh kiếm lóe lên. Nàng phóng ra một chiêu, biến thành 36 rồi 72. Phùng Dị hoảng kinh lăn mình dưới đất tránh khỏi. Y vọt mình một cái đứng dậy, Phương-Dung không đuổi theo. Trước đây nàng là quân sư, chỉ huy y quen. Bây giờ phải ra tay với y, nàng không nỡ. Khất đại-phu cũng giúp y chống Thục nhiều lần, chỉ đứng nhìn y. Đào Kỳ tính đôn hậu, chàng đã gặp Phùng Dị trong lần hội quân ở Quế-lâm. Hai người đàm luận binh pháp rất tương đắc. Chàng thấy trong các tướng Hán, người có tài dùng binh nhất là Nghiêm Sơn, sau đó tới Đặng Vũ, Ngô Hán, Phùng Dị, Mã Viện và Sầm Bành. Chính sáu người này đã xây dựng nên nhà Đông-Hán. Bây giờ bảo chàng giết Phùng Dị thì không nỡ. Chàng ngẩn người ra suy nghĩ không biết giải quyết sao. Nếu giết y thì uổng một đại tướng tài, một cao thủ võ lâm.
Trong năm người thì Đô Dương là đại tướng Hán lâu năm, thống lĩnh hàng mấy trăm vạn binh, đánh đư trăm trận. Chàng là người trí dũng song toàn, linh mẫn. Quyết đoán ngang với Trưng Trắc, Trưng Nhị, Nghiêm Sơn, chàng nhận ra ngay hoàn cảnh hiện tại. Chàng nói với Phùng Dị:
- Chinh-tây đại tướng-quân, chúng ta chỉ giữ ngươi ở đây 15 ngày nữa, sau khi chiếm được Kinh-châu, Lĩnh Nam, ta thả ngươi. Đạo Hán-trung tới đây coi như ra mặt đối phó rồi, không cần giữ bí mật nữa. Ta đối xử tử tế với ngươi vì nhớ lại trước đây, chúng ta cùng chiến đấu dưới quyền Nghiêm đại-ca. Bây giờ, ngươi vì Hán, ta vì Lĩnh Nam, mà phải ở thế đối nghịch nhau. Ta lấy làm buồn lắm.
Sún Rỗ nhảy xuống dưới đất, nó nhìn Phùng Dị thè lưỡi ra trêu y. Mặt Phùng Dị xám như tro nói:
- Đô thái-thú, thôi tôi đành tuân lời ngươi vậy, chứ biết làm sao.
Sún Rỗ nói với Khất đại-phu:
- Ông nội ơi! Ông nội cho cháu đi Trường-an với nghe?
Nguyên Lục Sún là bọn trẻ con. Khất đại-phu là người nhiều tuổi. Tính trẻ, già thường dễ thân nhau. Chúng bắt chước Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa gọi người là ông đã quen.
Khất đại-phu lắc đầu:
- Con phải về ngay, nếu không Hoàng Thiều-Hoa phải lo sợ cho con mà thành mệt trí.
Hoàng Thiều-Hoa là người ôn nhu nhẹ nhàng, nàng thích trẻ con. Đối với Lục Sún, nàng săn sóc như con đẻ. Vì vậy Lục Sún luôn ở cạnh nàng. Nghe nhắc đến Thiều-Hoa, nó chợt tỉnh ngộ nói:
- Ông nội dạy đúng, con về với Hoàng sư tỷ đây.
Nó nhảy lên ngựa của Lưu Thương cầm tù-và thổi một hơi. Đàn Thần-ưng bay theo ngựa của nó.
Phùng Dị thở dài:
- Đào tướng-quân, tôi nói thực. Nếu Hoàng-thượng hỏi ý kiến tôi có nên cho Lĩnh Nam phục hồi hay không. Tôi khuyên người không cho. Lĩnh-nam nhân tài như lá rừng. Đến Lục Sún chưa quá 18 tuổi, mà còn cương quyết, tài giỏi là dường này. Thì nếu cho Lĩnh Nam phục hồi, chỉ cần năm năm sau. Các vị kéo lên Trung-nguyên quyết chiến một trận là nhà Hán sụp đổ ngay.
Đô Dương cười ha hả:
- Cám ơn Phùng tướng-quân quá khen ngợi. Phùng tướng-quân là tri kỷ của anh hùng Lĩnh Nam chúng tôi. Đại phàm trên đời có hai loại tri kỷ: Một loại biết ta, khuyến khích ta, giúp đỡ ta. Còn một loại tri kỷ nữa biết tài ta muốn kéo ta về với họ. Kéo không được phải tìm cách giết đi, để trừ hậu hoạ. Phùng tướng-quân là loại tri kỷ thứ nhì vậy.Vừa rồi thái sư-thúc, Đào sư-đệ, Phương-Dung đều không muốn giết Phùng tướng-quân, cũng vì biết tướng-quân là người tài vậy. Ở đây còn Chu Bá sư-thúc, Giao-Chi với tôi có thể kiềm chế các vị. Nhưng nghĩ cho kỹ, các vị chống Lĩnh-nam chẳng qua ai cũng vì giang sơn người ấy, chứ có thù oán gì nhau.
Giao-Chi trói Phùng Dị, Lưu Thương. Để hai người chung một ngựa, rồi lên đường.
Đoàn người phi ngựa nhanh như gió trong đêm. Dù phi ngựa song họ có võ công cao, câu chuyện không bị đứt đoạn. Bỗng có tiếng tiêu nhu hòa văng vẳng trong đêm. Đào Kỳ nhận ra đó là khúc Cổ loa di hận chàng đã được nghe tại Mai-động. Chàng quay lại nhìn thì người tấu là Giao-Chi. Tuyệt ở chỗ ngựa phi như bay mà nàng tấu khúc nhạc, tiếng tiêu liên miên bất tuyệt. Tiếng tiêu ngân vang, đầy sầu thảm trong đêm khuya, khiến những người hùng tâm như Đào Kỳ, quảng đại như Khất đại-phu cũng phải thổn thức trong lòng.
Tiếng tiêu vừa dứt. Đô Dương ra hiệu cho mọi người dừng lại. Chàng chỉ về phía trước:
- Đằng trước là Tam-lâm, quẹo xuống Nam mấy dặm nữa là thành Trường-an. Đêm khuya, lại nhân có Hán-đế ở đó, nên thành đóng cửa. Chúng ta ngừng tại đây chờ sáng hãy vào thành.
Đô Dương hỏi Giao-Chi:
- Sư-muội! Khúc nhạc sư-muội vừa tấu tên gì? Ngu-huynh hủ lậu quá không biết.
Giao-Chi đáp:
- Đại-ca chưa nghe qua là phải. Khúc nhạc này do bố em sáng tác mới đây. Tên là Cổ-loa di hận khóc cho người Việt vong quốc.
Đô Dương bàn:
- Nếu sư muội biết soạn nhạc, phải soạn ra khúc Xuân dạ Việt-nữ chiến Hàm-dương mới đúng hoàn cảnh của chúng ta. Giao-Chi gật đầu:
- Đa tạ đại-ca chỉ dạy.
Đào Kỳ nhận thấy ở Đô Dương tính tình hào sảng, lỗi lạc, có thể nói Đô Dương là một Nghiêm Sơn thứ nhì. Chàng nghĩ:
- Nếu Nghiêm đại-ca có bề gì, thì Đô đại-ca cũng sẽ là một đại tướng cầm quân chống Hán như Nghiêm đại-ca được.
Qua kinh nghiệm một thời gian cầm quân. Chàng nhớ đến lời giảng của Lục Mạnh-Tân hồi còn ở Thái-hà trang: Khi dùng tướng chia làm bốn loại. Phàm người có sức khỏe dùng vào việc xung phong, hãm trận, là dũng tướng ví như Phàn Khoái. Loại người có sức mạnh, biết điều khiển quân sĩ, đánh thành, hãm trận, đánh trên núi, đánh ở đồng bằng, ủy cho điều khiển một đạo quân, giao cho một nhiệm vụ. Đó là Chiến-tướng vậy. Loại không sức khỏe biết dùng binh, biết mình, biết người, trên thông thiên-văn, dưới hiểu địa lý, thì dùng làm Quân-sư như Trương Lương, Tiêu Hà. Còn loại trí dũng tuyệt vời, văn mô vũ lược, biết trông rộng, nhìn xa, nhìn giặc, nhìn mình, ngồi trong trướng mà quyết thắng ngoài nghìn dặm là đại tướng như Khương Thượng, Tôn Vũ, Ngô Khởi, Hàn Tín. Còn loại tối cao có chí lớn, ôm trời đất trong lòng, nhã lượng, cao trí, hùng tài, đại lược có đức Nhân như Vũ-Vương, Cao-Tổ, đó là loại Đế vương vậy.
Chàng nhẩm ước tính những người của mình, thì thấy: Khất đại-phu, Nguyễn Phan, Nguyễn Trát, Phan Đông-Bảng, Trương Thủy-Hà, Cao Cảnh-Minh, Đặng Thi-Kế, Nguyễn Thành-Công, đại sư-huynh Trần Dương-Đức, hai anh Nghi-Sơn, Biện-Sơn cho tới Thần-nỏ Âu-lạc, Mai-động ngũ kiệt, Cối-giang tứ hùng đều chỉ là những người có sức khỏe xung phong hãm trận mà thôi. Phật-Nguyệt, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa lại khác.
Chàng suy nghĩ một lúc rồi nói thầm:
- Trội hơn hết có Nghiêm đại-ca, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Đặng Thi-Sách, bố ta, chú ta, cậu ta, bây giờ thêm Đô Dương là có tài đế-vương.
Chàng tự đặt câu hỏi:
- Thế thì những ai làm đại tướng được?
Rồi tự trả lời một mình:
- Dĩ nhiên bố ta đứng đầu. Võ công người cao, lại có tính quyết đoán, giải quyết mọi việc mau mắn. Về xung phong hãm trận, người giỏi đã đành, ước tính biết mình, biết người thật chính xác. Cứ xét như trận đánh cảng Bắc. Chỉ một nhóm đệ tử, tráng đinh chưa quá 500 người, thế mà người chống lại mấy vạn hùng binh của Thái-thú Nhâm Diên. Đốt cháy phủ Thái-thú, đánh Đô-úy trọng thương, giết vợ con Nhâm Diên. Những người tài như bố mình không thiếu. Đầu tiên là chú Đào Thế-Hùng, cậu Đinh Đại, Lê Đạo-Sinh và đệ tử Thái-hà trang cũng đều có tài đại tướng. Sư thúc Lương Hồng-Châu, Lại Thế-Cường, Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ, tám vị Thái-bảo Sài-sơn, Lê Chân, Hồ Đề, Đàm Ngọc-Nga và Hoàng sư-tỷ. Ừ nhỉ! Lĩnh Nam mình nhiều nhân tài quá, do hoàn cảnh đất nước tạo nên.
Chàng lại tự đặt câu hỏi:
- Thế còn mình, mình thuộc loại nào đây? Sư-bá Nam-hải nói mình có tài đại-tướng. Nghiêm đại-ca dĩ nhiên tin là mình có tài đại-tướng mới giao ấn Chinh-viễn đại tướng-quân cho mình. Mình thống lĩnh cả sư-thúc Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu, Đinh Công-Thắng và Hoàng sư-tỷ. Nghiêm đại-ca còn bảo mình là chiến tướng được. Điều này đúng, vì cái ông chiến tướng đó đại-ca dạy mình. Võ công mình cao, dĩ nhiên rồi. Nghiêm đại-ca tự biết tài điều quân, ước tính tình hình không bằng Phương-Dung, nên để Phương-Dung làm quân-sư. Đại-ca thực là người có tài đế vương, nên dù Phương-Dung nhỏ tuổi lại là gái, đại-ca cũng vẫn trọng dụng và tự nhận thua nàng. Chính cái biết dùng người và bỏ tự ái đó, đại-ca mới làm Lĩnh-nam vương. Đại-ca còn bảo mình có tài quân-sư, nên không cần quân-sư. Như vậy mình hơn Đặng Vũ, Ngô Hán, Sầm Bành, Phùng Dị sao?
Chàng chợt nhớ lời sư bá Nam-hải phê bình chàng:
- Cháu đủ tài, nhưng cháu thiếu đức biết người, tin người và để tình cảm át mất linh mẫn. Nếu như cháu biết người, tin người như Nghiêm Sơn, chỉ cần sai Vương Phúc, Trần Quốc đi thám thính Mỹ-cơ là đủ rồi. Việc gì cháu phải đem thân đại-tướng đi làm việc đó, bị Trần Thanh-Nhiên bắt suýt mất mạng. Đến việc vào Thành-đô cùng với Vương Nguyên cũng vậy. Cứ sai Vương Nguyên đi với Lương Hồng-Châu cũng được, việc gì phải thân chinh đi. Mình là đại-tướng, thống lĩnh ba quân, mạo hiểm như vậy đâu phải là người trí? Sư bá còn chê mình không bỏ được tình cảm riêng tư, người mới để cậu Đinh Đại thống lĩnh đạo Lĩnh-nam thay mình. Vậy mình phải sửa đổi mới được.
Đô Dương chỉ vào một xóm ven đường:
- Chúng ta vào dưỡng thần chờ trời sáng.
Đô Dương quen với địa thế ở đây. Chàng xuống ngựa dẫn mọi người đến ngôi đền gần đường. Ngôi đền khá lớn, phía trước có mấy cây cổ thụ, tấm bảng trước đền đề ba chữ lớn Tam-hoàng miếu. Mọi người cùng cột ngựa sau miếu. Giao-Chi đi trước, nàng đưa tay gõ cửa. Không có tiếng trả lời, nàng dùng tay đẩy mạnh. Cánh cửa bật tung, nàng định bước vào trong. Thì nhanh như chớp, Đô Dương chụp lấy dây lưng nàng, nhấc bổng lên kéo lại sau. Rồi chàng cầm cái túi trên lưng ném vào trong. Lập tức phía sau cánh cửa, một thanh kiếm chém vào cái túi của chàng. Cái túi văng vào góc. Chàng vẫn giữ nguyên Giao-Chi, nhảy lui lại lên tiếng:
- Chúng tôi là khách qua đường vào đây trú lạnh, chờ trời sáng nhập thành. Vì vậy làm phiền tôn-giá, xin tôn-giá miễn chấp.
Bây giờ chàng mới bỏ Giao-Chi xuống. Giao-Chi tỉnh ngộ:
- Mình đáng chết thực. Rõ ràng mình thiếu kinh nghiệm, không có Đô đại-ca thì mình lãnh nhát kiếm kia rồi.
Bên trong không có tiếng trả lời. Đô Dương rút kiếm cầm tay lao mình vào bên trong cánh cửa. Chàng chém luôn một lúc bốn chiêu vào mỗi bên, nhưng không thấy đối thủ phản ứng. Chàng đánh lửa lên nhìn khắp cả, thấy một người mặc quần áo kiểu binh Hán ngồi gục đầu vào hai chân. Dường như y bị thương. Tay cầm kiếm run run cất lên không nổi.
Khất đại-phu giàu lòng nhân đạo. Ông chạy đến đỡ y đưa lên trước bệ thờ thần, cầm mạch rồi nói:
- Không hề gì! Y chỉ vì đói và mệt quá, chứ không sao cả.
Phương-Dung lấy gói lương khô đưa cho Khất đại-phu. Ông đem cơm nắm, muối vừng đút cho y ăn. Y cố gắng nhai đập đạp rồi nuốt vào bụng. Chỉ lát sau y nhai hết nắm cơm lớn. Y cầm bình nước uống mấy hơi, rồi buông tiếng thở dài não ruột.
Đào Kỳ lấy cây nến châm lửa đưa đến gần mặt y. Chàng giật mình kêu lên:
- Ôi! Thì ra ngươi! Ngươi chưa chết sao.
Chu Bá cũng kêu lên:
- Trương Minh-Đức đấy hả? Tại sao mi ở đây?
Thì ra tên quân Hán là Trương Minh-Đức, con rể Chu Bá. Y là con trai huyện-lệnh Đăng-châu. Khi huyện-lệnh Đăng-châu làm phản. Nghiêm Sơn phong Đào Kỳ làm tướng mang quân đánh. Sau trận đánh, chàng và Phùng Vĩnh-Hoa cố gắng tìm hắn và Chu Tường-Quy, nhưng không thấy. Chàng cho rằng hai người chết chìm. Không ngờ nay lại gặp y ở đây.
Khất đại-phu ra dấu bảo mọi người để y im lặng. Vì y nhịn đói đã lâu ngày, mới được ăn, cần có thì giờ tiêu hóa thực vật, mới nói được. Đô Dương cầm đuốc dẫn Giao-Chi đi quanh đền tra xét một lượt, thấy góc đền còn xác chết một con ngựa nữa. Còn tuyệt không dấu vết gì khác. Từ lúc gặp Đô Dương đến giờ. Mọi người thấy ở chàng có một cái gì khác thường giống Nghiêm Sơn: Hào hiệp, thông minh, nhất là quyết đoán mọi việc nhanh chóng. Trải qua biến cố vừa rồi. Họ còn thấy ở chàng một người lịch duyệt võ lâm nữa. Người phục nhất là Phương-Dung và Đào Kỳ. Hai người thấy Đô Dương có bóng dáng của người võ hiệp, cái oai của tướng cầm quân, lại có cái ôn nhu văn nhã của người đọc sách.
Từ trước đến nay Đào Kỳ vẫn có thiện cảm với Chu Bá, vì chàng yêu Tường-Quy. Mối tình của chàng với Tường-Quy càng cay đắng khổ sở, hai người càng yêu nhau thắm thiết hơn lên. Tường-Quy là con nhà danh gia được giáo dục kỹ lưỡng về luân lý Khổng-Mạnh. Còn Đào Kỳ con một lạc-hầu yêu nước, chưởng môn phái Cửu-chân, lừng danh thiên hạ về võ đạo, về lòng yêu nước phục quốc. Thế mà hai người không giữ được bản thân, đã sa ngã chỉ vì ông ngoại nàng là Lê Đạo-Sinh dùng nàng như một món hàng. Lần thứ nhất trên đường về thăm ông ngoại trước khi lấy chồng. Nàng bị ông gài vào một hoàn cảnh gặp gỡ Đào Kỳ, rồi yêu nhau. Mục đích của Lê Đạo-Sinh muốn dùng cháu ngoại bắt Đào Thế-Kiệt. Vì bấy giờ y nghĩ những hành động bí mật của Đào Kỳ là do Đào Thế-Kiệt chủ động. Lần thứ nhì nàng đã lấy chồng rồi. Ông ngoại gọi về thăm nhà, rồi dùng nàng bắt Đào Kỳ hầu uy hiếp Đào Thế-Kiệt. Lê Đạo-Sinh không ngại ngùng gì mà giam nàng với Đào Kỳ vào trong một khoang thuyền. Tất cả những việc làm của Lê do Tô Định giật dây. Tô Định nguyên là cháu gọi Mã thái-hậu bằng cô họ. Mã thái-hậu thấy Nghiêm Sơn được phong Lĩnh-nam công. Sợ chàng nhân đó mà áp chế triều Hán. Bà áp lực ép Tam-công ban chiếu chỉ phong Tô Định làm thái-thú Giao-chỉ, hầu để con mắt dò xét Nghiêm Sơn. Theo luật lệ nhà Hán, Nghiêm được phong Lĩnh-nam công, chàng có quyền đề cử tất cả các thứ-sử, thái-thú, tướng-quân trong vùng. Nghĩa là chàng giống như một ông vua, có toàn quyền quyết định. Nhưng Nghiêm Sơn không muốn vì mình mà Mã thái-hậu, Quang-Vũ bất hòa. Tô Định được gửi sang, phong làm Thái-thú, chàng cũng nhận. Tô Định cậy là người Thái-hậu, khích Lê Đạo-Sinh chống Nghiêm. Nếu Lê hại được Nghiêm Sơn, y sẽ trực thuộc triều Hán. Y mặc sức vùng vẫy biên thùy một cõi. Còn Lê bại, thì Lê chết. Lê cũng khôn khéo, đẩy cho đệ tử là Phùng Chính-Hòa đem quân làm phản, vây Nghiêm Sơn ngoài đảo. Phùng bại, bị giết, Lê Đạo-Sinh phủi tay. Y đẩy Phong-châu song-quái phản Nghiêm Sơn. Việc không thành, Phong-châu song-quái bị bắt. Y chối không biết. Y tưởng lập công như vậy sau này Tô Định làm Thứ-sử Lĩnh Nam, ít ra y cũng được phong Thái-thú Giao-chỉ.
Sau vụ Thái-hà trang bị đổ bể vì giam cầm bắt cóc con trai Tô Định. Lê Đạo-Sinh biết rằng những mưu đồ bấy lâu hóa ra một trường mộng ảo. Y tụ tập đệ tử sang Trung-nguyên. May mắn gặp Công-tôn Thi, con thứ Công-tôn Thuật. Y giúp Thi xuất đạo kỳ binh đánh úp Dương-bình quan. Theo sự tính toán của y. Chiếm được Dương-bình quan, đạo quân Hán-trung mất đường về. Phía sau Công-tôn Tư sẽ phản công. Công-tôn Thi ở trước sẽ đổ ra chiếm Hán-trung, đánh về Trường-an. Khi Hán-trung, Trường-an trong tay, Công-tôn Thi quay lại áp chế Công-tôn Tư, cướp ngôi thái-tử. Thi lên làm vua, Lê Đạo-Sinh ít ra cũng được phong vương. Nhân đó y xuất đạo quân tiến về Lĩnh Nam mưu đồ việc lớn. Không ngờ cơ mưu của y chỉ thành công một nửa. Thời không đến với y. Quang-Vũ bạc đãi Nghiêm Sơn, anh hùng Lĩnh Nam phản Hán, âm mưu phế trưởng lập thứ của y thất bại.
Lê Đạo-Sinh bỏ Thục, dẫn đệ tử đến Lạc-dương. Y được tin Mã thái-hậu tuyển nhiều cao thủ, khống chế quần thần, sau sẽ áp chế hoàng-thân quốc-thích nhà Hán. Không gặp người tiến cử với Mã thái-hậu. Y nghĩ ra một cách: Mở võ đài ở Lạc-dương thách anh hùng thiên hạ đấu võ. Trong suốt một tháng mở võ đài. Anh hùng thiên hạ không ai đấu lại đệ tử của y. Một võ quan cao cấp trong đám thị-vệ là Việt-kỵ hiệu-úy Trương Linh lên đài đấu võ với Hoàng Đức. Linh chịu được 12 chưởng thì thua. Giữa lúc đó Mã thái-hậu đang lo lắng việc bà hại Hàn Tú-Anh, mẹ đẻ Quang-Vũ bại lộ. Bà cần nhiều cao thủ chung quanh khuynh đảo triều Hán. Bà nghe vụ võ đài, cho người bí mật mời Lê Đạo-Sinh vào tiếp kiến. Sau mấy câu chuyện. Bà biết rõ ý định của Lê, liền hứa cho Lê làm Thứ-sử chứ không phải Thái-thú Giao-chỉ. Bà còn hứa phong cho y tước hầu và chức Chinh-thảo tướng-quân. Các đệ tử đều được phong làm Thái-thú, Đô-úy, Đô-sát...Thế là Lê Đạo-Sinh đặt các đệ tử dưới quyền sai phái của Mã thái-hậu. Mã thái-hậu cho Chu Bá làm chức hiệu-úy trong cấm quân, cho Trương Minh-Đức làm cấm quân hầu hạ. Bà cho Lê Thị-Hảo, Chu Tường-Quy ra vào cung cấm như những cung nga người Hán.
Tuy được trọng dụng nhưng Chu Bá là người yêu nước. Thân phụ ông trước đây vì chống nhau với quân Hán mà bị giết. Bây giờ ông theo Lê Đạo-Sinh giúp Quang-Vũ đã là mối hận ghê gớm rồi. Ông bị đưa sang Hán, đặt dưới quyền một người đàn bà đanh ác, xảo quyệt như Mã thái-hậu. Ông cảm thấy nhục nhã hơn.
Mã thái-hậu thường sai ông dẫn các võ sĩ đi ám sát các đại-thần, nếu họ không chịu theo đường lối của bà. Chu Bá thấy mình đem tấm thân văn võ kiêm toàn chỉ để làm những chuyện như thế, thực là tủi hổ. Một hôm vô tình nghe Mã thái-hậu và Trương Linh bàn với nhau: Sau khi thành công mọi chuyện, sẽ tìm cách đổ hết tội lên đầu Lê Đạo-Sinh, sai đem ra pháp trường xử trảm.
Chu Bá thất kinh hồn vía, ông thấy nếu có nói ra Lê Đạo-Sinh cũng không tin nào. Ông đành để tâm chờ thời gian thuận tiện là ra đi. Trước khi đi Phù-phong với Mao Bạch. Ông viết sẵn phong thư giao cho người nữ tỳ thân tín dặn, nếu trong 10 ngày không thấy ông về, thì đưa cho Lê Thị-Hảo. Vì ông nghĩ trong dịp đi này, ông sẽ tìm đám anh hùng Lĩnh Nam về với đất nước.
Bây giờ trong đêm, gặp con rể ở giữa chỗ hoang vắng, trong hoàn cảnh sắp chết đói. Ông hoang mang không hiểu những gì đã xảy ra cho vợ con ông ở Lạc-dương.
Đào Kỳ tinh ý vẫy mọi người lui ra xa cho Chu Bá hỏi chuyện Trương Minh-Đức. Trương Minh-Đức nhờ được ăn cơm nắm, một lúc sau đã tỉnh táo, khỏe mạnh. Y ngồi nhìn Chu Bá rồi òa lên khóc.
Chu Bá hỏi:
- Có gì, ngươi cứ nói ra, tại sao phải khóc?
Trương Minh-Đức kể rằng: Một hôm cùng Tường-Quy vào cung hầu Mã thái-hậu, chẳng may gặp Quang-Vũ. Trương Minh-Đức với vợ vội quỳ xuống tung hô vạn tuế. Quang-Vũ thấy nàng đẹp ủy mị, đẹp não nùng, đẹp mơn mởn, không cầm được lòng, đứng ngây người ra nhìn rồi lên tiếng hỏi:
- Cô nương. Cô nương tên họ là gì, quê quán ở đâu? Con cháu vị đạÏi thần nào ở trong triều?
Tường-Quy tâu:
- Thiếp là con gái Chu Bá và Lê Thị-Hảo. Thân phụ thiếp người đất Lĩnh Nam. Hiện giữ chức hiệu-úy trong cung cấm, chưa có chức tước.
Quang-Vũ hỏi hết chuyện nọ đến chuyện kia, rồi truyền giữ Tường-Quy trong cung. Trương Minh-Đức tuyệt không biết vợ ở đâu, hiện ra sao. Một hôm Mã thái-hậu gọi y đến hầu, truyền lệnh bắt trói đem chém đầu về tội liên lạc với phản tặc Thục. Y kêu oan. Nhưng chỉ là một tên lính thì kêu với ai bây giờ? Trong khi bị đưa ra pháp trường. Y được Khúc-giang ngũ hiệp xuất hiện, đánh đuổi đám võ sĩ cứu y, cho con ngựa chạy trốn. Ngũ hiệp nói với y:
- Cháu nhớ nghe đây: vợ cháu lọt mắt xanh Quang-Vũ, bị bắt vào cung làm phi-tần rồi. Vì vậy Mã thái-hậu phải giết cháu để bịt miệng. Vậy cháu mau trốn khỏi nơi này, nếu không muốn tan xương nát thịt.
Trương Minh-Đức trốn đến đây thì ngựa chết. Y bị bệnh, tiền không có, đành nằm chờ chết thì gặp lại Chu Bá.
Chu Bá để Khất đại-phu cứu chữa cho Trương Minh-Đức. Ông lại bên cạnh Phương-Dung hỏi:
- Này cháu Phương-Dung, cháu bảo chúng ta phải làm sao?
Phương-Dung thở dài:
- Chỉ tội nghiệp cho Trương Minh-Đức mà thôi. Chắc y không chết đâu, người yếu vì vừa đói lại vừa bệnh. Bây giờ chúng ta cần an ủi y.
Phương-Dung bảo Đào Kỳ:
- Ngày nọ Trương Minh-Đức đã thấy đại ca tình tứ với Tường-Quy. Vậy đại ca tránh ra ngoài, cho y khỏi nhớ chuyện cũ sinh phẫn hận.
Đào Kỳ nghe Phương-Dung nói. Chàng nhìn vợ, thoáng thấy cười mà không phải cười. Chàng bước ra khỏi đền Nữ Oa.
Đô Dương từ trước đến giờ kính trọng Quang-Vũ vô cùng. Không ngờ bây giờ mới được thấy một khía cạnh hủ nát của y đến chỗ cực kỳ tàn tệ.
Đào Kỳ hỏi Khất đại-phu:
- Thái sư-thúc, Trương Minh-Đức nhắc đến Khúc-giang ngũ hiệp. Vậy họ là ai thuộc môn phái nào?
Khất đại-phu nói:
- Khúc-giang ngũ hiệp hay gọi Trần-gia ngũ kiệt. Năm người là anh em ruột. Họ có tên theo thứ tự Trần Nhất-Gia cho đến Trần Ngũ-Gia, thuộc phái Khúc-giang ở Nam-hải. Trước đây Đồ Thư mang quân sang chiếm ba quận Nam-hải, Tượng-quận và Quế-lâm. Các anh hùng người Việt bỏ ba quận này đi xuống Giao-chỉ. Riêng Trần-gia không chịu giữ vững Khúc-giang chống Đồ Thư. Triệu Đà cai trị ba quận nhiều lần mang quân đánh Khúc-giang mà không được. Y đành để Khúc-giang như một vùng tự trị. Khi Triệu Đà bị Hán tiêu diệt, Hán đem quân đánh Khúc-giang. Trần-gia đành quy phục. Một chi chạy xuống Giao-chỉ. Đó là ông nội của ta.
Đô Dương hỏi:
- Sư-thúc, vậy sư-thúc với Nam-hải nữ-hiệp là thế nào?
Khất đại-phu cười:
- Thì Trần Thị Phương-Châu tức Nam-hải nữ-hiệp. Trần Thị Phương-Chi tức Tiên-yên nữ-hiệp, Nam-thành vương Trần Công-Minh, Thiên-trường đại-hiệp Trần Quốc-Hương đều là cháu gọi ta bằng chú. So vai vế thì Khúc-giang ngũ hiệp dưới ta một vai. Chúng ta là anh em họ xa. Khúc-giang nhất hiệp với ta rất thân thiết. Võ công y cao hơn ta một chút. Tuổi nhỏ hơn ta, đâu khoảng 60 hơn gì đó. Năm anh em này cùng có chí hướng như Đào-hầu, Đinh-hầu vùng Cửu-chân. Uy tín của họ ở Nam-hải rất lớn.
Bỗng từ ngoài miếu vọng vào tiếng nhạc du dương. Điệu nhạc như nắng mới đầu xuân. Người nghe như cảm thấy bị giam trong vòng u tối, bây giờ mới được thấy ánh sáng. Phút chốc điệu sáo lại đổi sang nóng nực. Trong cái tức tưởi nóng nực, có cái mát mẻ như trận gió trưa hè. Một lát lại đổi như phượng gáy véo von trên trời. Khiến người nghe cảm thấy như hùng tâm tráng khí, muốn vung chân múa tay, rồi từ từ hạ xuống.
Đô Dương hỏi Chu Bá:
- Chu tiên sinh, khúc nhạc này tiên sinh được nghe bao giờ chưa nhỉ? Hậu sinh chưa từng biết qua, nên không rõ tên nó là gì? Dường như khúc này trái ngược với khúc Cổ loa di hận thì phải.
Chu Bá thấy Đô Dương là người tài kiêm văn võ, mà lại rất thích âm nhạc, ông trêu:
- Khúc này tác giả là Đô Nguyễn.
Đô Dương giật mình:
- Nếu vậy thì ra tác giả là người cùng họ với tiểu sinh đấy.
Chu Bá nhìn Đô Dương cười:
- Tác giả là hai người, một người họ Đô, một người họ Nguyễn. Đô thì xuất thân hiệp sĩ. Còn Nguyễn là một kiều nữ đất Mai-động. Họ cùng hợp nhau sáng tác trong lần đến Trường-an.
Mọi người cười ầm lên, Đô Dương chợt hiểu:
- Thì ra hồi nãy tiểu sinh đề nghị sư muội Giao-Chi sáng tác khúc Xuân dạ Việt nữ chiến Trường-an. Không ngờ sư muội Giao-Chi sáng tác nhanh như vậy.
Chàng gọi Giao-Chi:
- Sư muội tấu lại một lần nữa cho Thái sư-thúc và bọn ta thưởng thức tài nghệ Trương Chi tái sinh được chăng?
Giao-Chi cầm ống tiêu đưa lên môi, tiếng tiêu réo rắt. Nhưng âm thanh nặng nề. Người nghe có cảm tưởng như mình đang bị giam hãm trong hầm tối, nóng nực ngộp thở, khó chịu vô cùng. Dứt đoạn, Giao-Chi ngừng lại, nhìn mọi người cười tủm tỉm. Mắt của nàng là mắt bồ câu, lại thêm cái răng nanh khểnh ra ngoài, nàng cười nheo mắt với Đô Dương:
- Đoạn này để tặng Đô đại-ca.
Đô Dương cảm động nói:
- Đa tạ sư-muội. Đoạn này sư-muội tả cảnh dân Việt bị người Hán đô hộ, ta cảm thấy như bị trói, bị quăng xuống hầm tối.
Giao-Chi lại cầm tiêu thổi đoạn thứ nhì. Tiếng tiêu nhẹ nhàng, vang đi rất xa.
Đô Dương bàn:
- Tuyệt! Chỗ này sư muội muốn diễn tả lời kêu gọi dân Lĩnh Nam đứng dậy phục quốc. Tiếng tiêu tha thiết như tiếng mẹ dạy con, nhu hòa như tiếng vợ dặn chồng, lại pha lẫn những giọng buồn, hùng tráng, để diễn tả người người ra đi phục quốc.
Giao-Chi cầm tiêu thổi nốt đoạn cuối, rồi mỉm cười không nói gì. Đô Dương phê bình:
- Đoạn này như tiếng sắt, tiếng vàng chạm nhau, như muôn ngàn quân reo, lửa dậy. Cuối cùng là tiếng nhu hòa như đang bay trên mây. Vậy chắc sư muội muốn diễn tả chúng ta nổi dậy đánh thành, chiếm đất.
Giao-Chi ngước mắt nhìn Đô Dương tình tứ:
- Đa tạ Đô đại-ca! Đô đại-ca quả là tri kỷ của em.
Chu Bá thấy giữa Đô Dương với Giao-Chi như nước, như tình ngập ngừng chưa dám nói ra, song ý đã lộ. Ông là người lớn tuổi, kinh nghiệm nhiều, ông nghĩ:
- Đô Dương là người đại tài, trí dũng hơn đời. Giao-Chi là con gái yêu của Nguyễn Tam-Trinh, Mai-động-hầu thuộc phái Sài-sơn. Võ công, âm nhạc, nhan sắc vẹn toàn. Ta nhân đây ghép họ lại với nhau, chả là việc tốt đẹp ư?
Ông nghĩ vậy lên tiếng:
- Cháu Giao-Chi! Ta muốn đặt tên cho khúc tiêu này được không?
Giao-Chi chắp tay:
- Đa tạ sư bá đặt tên cho.
Chu Bá cười:
- Ban nãy Đô huynh có đề nghị cháu sáng tác khúc Xuân dạ Việt nữ chiến Trường-an cháu nhân đó sáng tác ra khúc này. Cháu là Việt nữ. Trên đường đánh Trường-an do Đô dẫn đầu, ta đề nghị đặt tên khúc hát này là Dương Chi tình khúc có phải hay hơn không?
Mọi người cười ầm lên. Giao-Chi là con nhà võ, theo quân sang Trung-nguyên đánh đư trăm trận. Nhưng nàng vẫn không mất nét nhu mì, e thẹn của một thiếu nữ. Nghe Chu Bá nói vậy nàng cúi đầu xuống, mặt đỏ lên. Còn Đô Dương võ công kinh người, tài trí song toàn, tước phong tới Hầu, quan tới thái-thú, chúa tể một vùng, tiền rừng bạc biển, chàng vẫn chưa lấy vợ chính thức. Vì chàng không muốn lấy vợ như các bạn đồng liêu khác, chỉ lấy vợ để có người hầu hạ. Chàng muốn có một cô vợ hiểu mình sống với nhau như đôi bạn. Làm quan trên đất Hán, chàng gặp toàn gái người Hán. Họ cũng xinh đẹp nhu mì, nhưng chàng thấy thiếu một cái gì khó diễn tả. Ngay trong buổi sơ giao, chàng gặp Giao-Chi, một cô gái xinh đẹp, nhu mì, âm nhạc, võ công đều vào hạng hiếm có. Chàng thấy động tâm nhưng chưa có một ý niệm gì. Bây giờ nghe Chu Bá ghép lại chàng cảm thấy hơi ngượng ngùng, liếc mắt nhìn Giao-Chi. Thế rồi chàng ngồi im không nói được câu nào.
Phương-Dung muốn phá tan bầu không khí yên tĩnh, nói:
- Thôi bây giờ chúng ta đi nghỉ, để mai còn lên đường vào Trường-an. Tất cả ngủ trong miếu này. Duy có Đô đại-ca, Giao-Chi ra trước miếu mắc võng canh phòng.