Từ vùng thôn dã Tứ Xuyên đến Thượng Hải phố phường hoa lệ, quả là hai nơi cách biệt nhau nhiều quá. Vừa chân ướt chân ráo đến Thượng Hải, nhìn cảnh nhà cao chọc trời, ngựa xe như nước, áo quần như nêm, mắt tôi cứ hoa lên. Bé bỏng như tôi đã đi từ Thành Đô đến Hồ Nam, qua Quảng Tây, vượt Quí Châu, về Tứ Xuyên rồi đến Thượng Hải, đúng là tôi đã đi qua một quảng đường dài dằng dặc! Quãng đường ấy không chỉ dài mà còn đầy chông gai sóng gió. Đến thượng Hải, những này lưu lạc của chúng tôi phải chăng nên kết thúc tại đây! Ba đem bốn chúng tôi về ở trong một ngôi nhà mới. Ngôi nhà này rất nhỏ, chỉ có một gian phòng trong nhà lầu lớn ở Bạch Độ Kiều ngoại ô Thượng Hải. Nhà lầu lớn này có cái tên nghe rất Tây là Ri-sác. Lầu Ri-sác có năm tầng, có lẽ trước đây là khách sạn. Trong mỗi tầng lầu đều có hành lang chạy dài, một mặt của hành lang trông ra sân vườn, còn mặt kia là từng gian phòng một, mỗi gian mỗi kiểu khác nhau. Mỗi phòng có một buồng tắm nhỏ, có điều kỳ quặc là, trong buồng tắm thì có bồn tắm mà không có bàn cầu, đại tiện tiểu tiện đều phải ra tít tận nhà xí công cộng ở đầu kia của hành lang. Lầu Ri-sác trở thành nhà ở của giáo viên đại học Đồng Tế. Gian phòng chúng tôi nằm ở lầu bốn. Nhà sáu người, lớn bé đều sống chen chúc trong đó. Phòng có một chiếc giường, một bàn viết, ba ngày ba ngồi sửa bài tại bàn này, ban đêm trải chăn bông lên thành gường, tôi và mấy em trai ngủ trên đó. Còn cái phòng tắm kia, mẹ bắc mấy tấm ván lên bồn tắm, mua lò và nồi nấu cơm, cứ cách vài ngày, dời bếp cho các con tắm tập thể. Hầu như từ lọt lòng đến giờ, sự nghèo khổ luôn gắn chặt với gia đình tôi. Lần này về Thượng Hải, tình cảnh cũng chẳng khá hơn chút nào. Đời sống Thượng Hải yêu cầu cao, út oa oa đòi bú, sữa bột dắt kinh người. Ba chị em tôi đang lớn như thổi. Ăn mặc, ở, đi lại cái gì cũng cần đến tiền. Đồng lương ít ỏi của ba rõ ràng là không làm sao nuôi nổi sáu miệng ăn. Nhưng ở Thượng Hải, tôi có người cậu bà con và dì Tư v. v... Hồi đó, ông bà ngoại tôi đều đã qua đời. Anh cả của mẹ tôi làm luật sư sống rất sung túc, ở trong một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi trên đường An-be. Hai anh em đã nhiều năm không gặp nhau, vừa mới thấy, đã khóc nức nở. Người cậu cả thấy tình cảnh túng bấn của gia đình tôi, con cái đứa nào cũng ốm yếu, vàng võ, nằng nặc đòi ba tôi chuyển ngành, vì còn dạy học thì lũ trẻ sẽ chết đói mất. Nói một thôi một hồi, người cha cố chấp của tôi chạm tự ái, nổi nóng đưa tay xốc lại cổ áo đứng dậy, nói kiên quyết: - Mỗi người có ý nguyện riêng của mình, tôi học cả đời rồi, cũng chỉ biết có dạy học thôi. Nghèo là số phận của tôi! Đã là vợ con của tôi thì đành phải sống kham khổ với tôi, làm gì có chuyện chuyển ngành được! Ba tôi giận dữ bỏ về, từ đó xa lánh dần cậu tôi. Việc cậu khuyên ba chuyển nghề làm tổn thương lòng tự trọng của ba rất dữ. Còn tính khí của người cậu cả cũng chẳng phải vừa, thấy ba tôi vẫn cố chấp, không chịu đổi thay, sợ làm khổ lây đến em gái, nên rất bực bội. Do vậy, nhà tôi với nhà người cậu cả rất ít qua lại nhau. Chỉ có mợ cả thường xuyên đem hết bọc nhỏ, bọc lớn quần áo đến nhà, trong đó gói rất nhiều áo lụa, váy lụa trẻ con, lại cả những thứ bà ngoại sắm khi tôi chào đời mà tôi chưa nhận được, bây giờ thì đứa em gái nhỏ hơn tôi tám tuổi mặt thật vừa vặn. Thấy những áo quần ấy, khỏi phải nói, cũng biết là mẹ tôi khóc mấy ngày ròng. Chúng tôi rốt cuộc rồi cũng sắp đặt đâu vào đấy, khổ tuy có khổ nhưng được cái cả nhà quây quần đoàn tu. Ba bắt đầu nghĩ tới chuyện học hành của ba đứa lớn. Một hôm, ba dẫn cả ba chị em đến trường tiểu học quốc dân khu mười sáu. Đây là lần đầu tôi bước vào ngưỡng cửa nhà trường ở bậc tiểu học. Năm ấy tôi lên chín, tính theo tuổi thì tôi phải học lớp ba mới phải. Nhà trường sát hạch sơ bộ khi vào lớp, liền sắp tôi vào học lớp ba, Kỳ Lân không theo nổi, xếp xuống lớp hai, em trai út xếp lớp một. Đến chín tuổi đầu tôi mới được vào trường học, tôi nhớ rõ làm học cực nhọc lắm. Kỳ thực, không chỉ là vất vả thôi mà còn làm một sự đau khổ cực kỳ. Nguyên do là, từ Tứ Xuyên đến Thượng Hải, tôi nói đặc sệt giọng Tứ Xuyên, mà cả trường, từ thầy giáo đến học trò đều nói toàn giọng Thượng Hải. Ngôn ngữ bất đồng, thầy giáo nói gì tôi cũng không hiểu, bạn học nói gì tôi cũng không hiểu. Chưa hết, tôi lại từ nông thôn ra nên quê một cục, trẻ con Thượng Hải đều nhanh nhẹn khôn ngoan, so đi sánh lại, cái gì tôi cũng thua. Lại còn từ nhỏ, tôi chỉ được mẹ dạy thơ Đường, tôi đọc rất khỏe, nhưng toán thì đến phép cộng cũng không biết làm, điểm số thua xa các bạn. Do nhiều nguyên nhân, như thế, ở trường tôi rất khổ tâm. Trẻ con ở Thượng Hải hay làm phách. Ngày đầu đi học, khi sắp hàng trên sân tập thể dục, những đứa đứng trước đẩy tôi ra sau, mấy đứa đứng sau đẩy tôi lên trước, khiến tôi xấu hổ quá đành đứng ra ngoài hàng, chân tay bối rối, không biết làm thế nào. Thầy giáo đến, thấy tôi không sắp hàng, mắng tôi một trận, cả lớp khúc khích cười, còn tôi thì khóc chạy về nhà không thèm học nữa! Không đi học không được. Ba mẹ muốn tập cho chúng tôi có tính độc lập và khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh. Tôi khóc suốt đêm, lại đành ngoan ngoãn trở lại trường. Dần dần, ngày qua ngày, các bạn học không khi dể tôi nữa. Tôi cũng bắt đầu kết bạn, nhưng do giọng nói, nên kết bạn rất khó. Tôi đi học cũng chẳng thuận lợi chút nào, hai đứa em trai tôi cũng thế. Kỳ Lân tính khí bướng bỉnh, từ bé thường xuyên đánh lộn với bạn bè. Em trai út càng quấy phá dữ, nó chẳng bao giờ chịu ngồi ngay ngắn trong lớp được vài tiếng đồng hồ, làm thế nào bắt nó ngồi nghe thầy giảng cho được. Không rõ sao, anh chàng nghĩ mẹo vặt, giơ tay lên xin thầy: - Con xin đi tiểu! Thầy giáo liền cho nó đi. Kết quả làm mỗi tiết học nó giơ tay lên mười mấy lần xin đi nhà xí. Có một lần, thầy bực quá, giận dữ quát: - Không được đi! Em trai út thấy mưu kế không thành, đành ngồi yên chốt lát, rồi nó dọa thầy: - Thầy không cho con đi, con đái trong quần! - Đái thì đái đi. Thầy nói: Không cho đi là không cho đi! Nào ngờ, thầy vừa dứt câu thì cậu ấm "giải quyết tại chỗ" ngay lập tức, làm cho thầy trò cả lớp ai nấy kinh ngạc thất sắc. Lúc đó, trong trường có qui định, học sinh hễ nói tục hoặc là điều sai trái thì dùng bút đỏ vẽ một vòng trên miệng rồi thì rửa mấy ngày cũng chẳng sạch. Thầy giận quá, liền vẽ lên miệng em trai út mấy vòng tròn đỏ liền. Hôm ấy, Kỳ Lân vì đánh lộn và chửi bạn nên cũng bị thầy giáo lấy bút đỏ khoanh tròn lên miệng. Kết quả là, tôi đang học nửa chừng bị thầy chủ nhiệm giám thị chạy lại báo cho biết: - Hôm nay con không phải học, dẫn hai đứa em về nhà đi, chúng nó đứa thì đái trong quần, đứa thì đánh lộn! Trường cách nhà tôi một đoạn đường xa lắm. Thường thường tôi phải đưa chúng đến trường và dắt chúng về nhà. Hôm đó tôi dẫn hai đứa về nhà, nhìn những khoanh tròn trên miệng chúng rồi nhìn cái quần ướt của em trai út, tôi thấy xấu hổ quá. Hai đứa lại còn chu mỏ giận dỗi, làm ai qua đường cũng ngoái đầu nhìn chúng nó cười, tôi lại càng muối mặt hơn, nói với hai em: - Biết thế này, để chúng mày mất tiêu ở Đông An cho rồi, tìm về làm gì cho phiền toái thế này! Vừa dứt lời, nhớ lại cảnh buồn thảm đau thương sau khi mất hai em ở Đông An, tôi hối hận vô cùng, lòng quặn thắt, nước mắt chảy ròng ròng. Bé út thấy tôi khóc, cũng khóc theo, kéo chéo áo tôi nói: - Chị đừng khóc, em không dám nữa đâu! Kỳ Lân thấy hai chị em đều khóc, mắt nó cũng đỏ ngầu. Tôi chợt hiểu ra, mình là "chị cả" trong gia đình, hai em trai dầu sau cũng là em, dầu gì đi nữa, tôi cũng không thể rời chúng nó. Thế rồi tôi nắm chặt tay em trai út, ba đứa vừa đi vừa khóc về nhà. Vừa đến nhà, tôi vội vã giấu hai em vào phòng tắm, ra sức kỳ cọ cho mất tiêu cái khoanh tròn trên miệng hai đứa, kẻo ba mẹ trông thấy, cũng sẽ xót xa như tôi. Sống ở Thượng Hải là như vậy đó. Tôi nhớ rõ, cái vui đến thì ít. Cái nghèo cái khó cứ ập đến hoài hoài. Thượng Hải mùa đông lạnh không tả xiết, tôi và các em đều thiếu đồ ấm, hai hàm răng cứ đánh vào nhau kêu lập cập. Ngày ngày ba chị em dắt tay nhau đến trường, phải đi qua quán bán hạt giẻ, thèm mua một gói hạt giẻ cầm cho ấm tay, ăn cho ngọt miệng, nhưng đào đâu ra tiền, chỉ lấy mắt nhìn. Các bạn xếp hàng lần lượt nhảy dây thun, bạn nào cũng có một xâu lớn trên tay, chỉ mình tôi là không có. Hồi đó trong bụng ước ao làm sao có một xâu dây thun lớn, vậy mà cho đến khi rời Thượng Hải, nguyện vọng đó vẫn chưa thành. Nói thật, tôi từng chịu thương chịu khó từ tấm bé. Nhưng chỉ có thời gian ở Thượng Hải mới đặc biệt nhạy cảm về nỗi khổ của mình. Những ngày sống ở Thượng Hải, lương ba tôi không đủ chu cấp cho cả nhà, (cậu muốn thường xuyên giúp tiền cho chúng tôi, nhưng ba tôi cương quyết cự tuyệt. Chỉ có mợ tôi khéo chuyển thành cái ăn cái mặc thường xuyên dấm dúi cho gia đình tôi). Mẹ tôi cho rằng đó không phải là cách có thể cứu cả nhà, nên đã trở lại dạy ở trường trung học. Thế là tôi càng bận rộn, ngày nào cũng như ngày nào, hễ tan học là đi như bay về nhà trông nhỏ út. Cái bàn lớn trong nhà chúng tôi không đủ chỗ ngủ, chúng tôi xuống nằm dưới đất. Từ đó trở đi, tôi thành cô bảo mẫu bé bỏng của đứa em gái út. Niềm vui trong cuộc sống chẳng được bao nhiêu. Nhưng cũng từ năm ấy, tôi lại khám phá ra hứng thú viết văn. Tôi viết một truyện ngắn về cuộc sống thường nhật của tôi với tựa đề "tuổi trẻ đáng thương". Đưa ba đọc, ba rất xúc động, sau đó giúp tôi gửi cho trang nhi đồng của tờ Đại công báo. Sau khi được đăng, suốt ngày tôi mân mê tờ báo ấy, sướng hết chỗ nói, đến bữa cơm cũng không nhớ. Tôi đọc truyện ấy ít lắm cũng phải một trăm lần. "Tuổi trẻ đáng thương" viết những gì nhỉ? Đến giờ tôi không nhớ hết. Nhưng, rõ ràng "tuổi trẻ đáng thương" là câu chuyện về đời mình! Sau khi tác phẩm được đăng báo, tôi bắt đầu mê viết văn. Cứ mỗi bữa đi học về, là cặm cụi viết. Lúc đó, dì Tư của tôi tham gia nhóm kịch nói, diễn vở Người Bắc Kinh của Tào Ngu. Mặc dù không là vai chính, nhưng lại là vai thứ rất quan trọng. Nhờ vậy mà tôi cũng được giấy mời đến nhà hát xem dì Tư diễn kịch nói, tôi sướng lắm. Xem xong về nhà, tôi viết kịch bản. Không biết phân cảnh tôi toàn viết "Kịch một màn". Hễ nhân vật kịch hơi nhiều là tôi quản không nổi nên tôi toàn viết "Kịch hai người". Một thời gian dài, tôi viết không biết mệt mỏi, ba mẹ xem kịch bản của tôi, chỉ tủm tỉm cười. Bởi vì, đề tài của tôi, toàn là những câu chuyện trao đổi giữa ba mẹ, thật chi tiết, thật đầy đủ suốt dọc đường đi lánh nạn. Số phận những "Kịch bản" của tôi thật hẩm hiu, không được đăng, không được xuất bản, và đương nhiên là chẳng có ai diễn. Rốt cuộc là vào sọt rác hết. Tôi học ở Thượng Hải được một nănm, dần dà kết thân nhiều bạn, học được cách nói Thượng Hải, cũng thuộc không ít đường ngang ngõ tắt của thành phố to lớn này. Tôi đi một mình đến hiệu sách, tôi mê đọc sách đến nỗi quên cả về nhà ăn cơm tối. Tôi cũng biết ẵm em gái út đi xem đua thuyền trên Bạch Độ Kiều, xem cho đến mặt trời lặn. Cứ đến chủ nhật, tôi cùng các em trai chạy nhảy tung tăng ở công viên ngoài bãi sông để bỏ những ngày sống tù túng trong gian phòng chật hẹp. Nhưng nét mặt ba mẹ tôi thấy sao không bình thường, không khí ở Thượng Hải cũng không được bình thường. Giá cả tăng vọt, đồng tiền mất giá, các cửa hàng ở Thượng Hải luôn xảy ra những vụ cướp giật... Nhưng điều đó với tuổi nhỏ như tôi, không thể nào hiểu nổi. Cái duy nhất tôi quen thuộc, tôi hiểu được là bầu không khí căng thẳng đang bao trùm. Tôi biết, chiến tranh lại sắp đến gần! Quả nhiên chiến tranh đến gần. Lần trước là chiến tranh kháng Nhật, lần này là nội chiến. Với tôi, chiến tranh cũng có nghĩa là lưu lạc và khổ đau. Nụ cười không hiện trên khuôn mặt ba mẹ tôi nữa. Ngày nào ba mẹ cũng bàn đi tính lại đủ điều. Cuối cùng, ba quyết định, đưa mẹ và bốn đứa con về quê ở Hồ Nam trước. Ba tiếp tục lưu lại Thượng Hải để dạy cho hết học kỳ. Thế là chúng tôi xa Thượng Hải mới vừa quen thuộc, trở về lại Hồ Nam. Đây là lần thứ hai chúng tôi trở lại quê nhà, lần thứ hai đoàn tụ với ông nội. Hai lần đều ám ảnh bởi chiến tranh, hai lần Hồ Nam đều là trạm rung chuyển của chúng tôi, chứ không phải là nơi chúng tôi ăn đời ở kiếp.
Chương 29
Trở Lại Quê Nhà
Chúng tôi sum họp với ông nội ở Hành Dương. Bốn chị em tôi sắp hàng quỳ xuống, bái lạy ông. Em gái út còn nhỏ quá không biết gì, mẹ phải đỡ nó quỳ xuống, cúi đầu chào. Lần trước tạm biệt ông, chưa có út gái, bây giờ út gái đã bi bô học nói. Ông nội kéo chúng tôi xem kỹ mặt từng đứa một, sau cùng, giang tay ôm út gái. Tóc và râu của ông đã bạc như cước. Đôi mắt trước đây sắc sảo, uy nghiêm giờ cũng hiền từ hơn nhiều. Ông ôm út, nhìn chúng tôi cười hể hả: - Thế gian loạn lạc ông cháu mình còn đoàn tụ được thế này lá tốt lắm, tốt lắm! Lúc đó ông nội tôi không thể nghĩ rằng cuộc đoàn tụ lần này chỉ là sự mở đầu cho một cuộc biệt ly khác. Đặt chân đến Hành Dương, mẹ tôi liền nghĩ ngay đến việc học của ba đứa lớn nên đưa chúng tôi vào trường tiểu học Cường Đức của thành phố Hành Dương để học tiếp. Còn mẹ tôi nhận được thư mời dạy ở một trường trung học, trường này cách Hành Dương rất xa, nếu chuyển về đó thì không cách gì sống nổi. Mẹ đành để ba đứa lớn lại, đưa bé út theo, rời Hành Dương đi dạy học. Đây là lần đầu tiên trong đoạn đời niên thiếu, tôi xa cả cha lẫn mẹ. Song, năm ấy tôi không còn là đứa bé gái bé bỏng lần đầu về quê, tôi đã lớn, lớn đến độ đã có thể săn sóc hai đứa em trai, khi chúng nghịch ngợm thì can ngăn, khi chúng buồn thì an ủi. Nhưng mẹ tôi không thể yên tâm để ba chị em tự lo liệu cho nhau, mà gửi chúng tôi cho người chị và người anh bà con là Vương Đại Huấn và Vương Đại Kiệt. Đại Huấn và Đại Kiệt là con của cô tôi. Cô này là con gái của người đàn bà có quan hệ đầu tiên với ông nội tôi. Chị Đại Huấn khi đó mới lấy chồng, anh Đại Kiệt còn trẻ. Chúng tôi thuê mấy căn phòng ở Hành Dương để ở, những phòng này nằm trong khu nhà có tên là "Đài Viên". Chị Đại Huấn là một người hiền dịu, thanh bạch, chân thành, dáng không cao, ăn nói nhỏ nhẹ, làm việc gì cũng thận trọng. Thời gian đó, mẹ tôi nhờ cậy trông nom ba cháu bé, làm cái việc "chị cả như mẹ hiền", kể cũng gian nan vất vả thật. Vì em trai út nghịch ngợm đã nổi tiếng, còn tính khí Kỳ Lân thì nóng như lửa, không đánh lộn với các bạn học thì cũng đập nhau với trẻ láng giềng. Chỉ có tôi là điềm tĩnh hơn, nhưng cũng có cái phiền là lúc bây giờ tôi mê sách lắm, từ sáng đến tối đòi mua sách, tiền ăn mẹ để lại đâu có nhiều nhặn gì, lấy đâu ra tiền để mà mua sách? Không mua được sách xem, ngày nào tôi cũng khóc đỏ cả mắt. Ở Đài Viên còn có một chuyện làm tôi nhớ mãi. Đó là chuyện ăn của chúng tôi. Thì ra mẹ tôi dặn chị Huấn, nghèo gì thì nghèo cũng ráng nghĩ cách cho chúng tôi ăn đủ ba bữa. Thế là chị Huấn ngâm một thẩu bự toàn là trứng muối. Sáng dậy chúng tôi ăn cháo với trứng mặn, trưa ăn cơm với trứng mặn, tối đến lại cũng ăn cơm với trứng mặn. Ăn mấy tuần liền như vậy, em trai út hễ bưng bát cơm lên là mặt mày méo xệch, Kỳ Lân thì hét ầm lên không ăn trứng mặn, còn tôi thì xoa xoa bụng nói không đói, bỏ mâm cơm đi đọc sách. Chị Huấn thấy lo quá, vội đi kho một nồi thịt với dưa cải. Nồi mới bưng ra bàn, ba chúng tôi hoan hô dạy trời, cầm đũa lên mới phát hiện chẳng có mấy miếng thịt, toàn dưa với dưa. Cuộc sống cực như vậy, nhưng khi ông nội thượng thọ tám mươi tuổi thì cỗ bàn lại rất linh đình. Hồi đó ông nội dạy học trong Hành Dương, để làm lễ mừng thọ, ông về quê cũ Lan Chi Đường. Ba chị em tôi và mẹ đều về Lan Chi Đường. Về đây tôi mới biết ông nội thật là đức cả vọng trọng, thiên hạ kính vì. Bao nhiêu là bạn hữu thân thuộc, có đến trên một trăm, đều từ Hồ Nam và các nơi về Lan Chi Đường chúc thọ ông nội. Lan Chi Đường treo đèn kết hoa, pháo dây nổ liên hồi, chiếu hoa trải dài ra tận cổng, cỗ bàn tuy không thịnh soạn lắm, nhưng cả nhà rất hài lòng. Trước mặt Lan Chi Đường có một hồ cá, cá nuôi khá lâu năm, không ai nỡ ăn, đến lúc đó cũng vớt lên đãi khách hết. Ngoài ra, Lan Chi Đường còn làm rạp hát, mời gánh hát đến diễn. Ở nhà quê không có gì để giải trí, nên lân cận cả chục dặm cũng kéo đến xem kịch. Tôi cũng chen chân trong đám đông, xem say sưa. Khi ông nội và mẹ mệt quá rồi, định về Tân thất nghỉ, tôi vẫn không chịu đi theo, em trai út và Kỳ Lân đương nhiên cũng không chịu đi, xem cho đến khi mãn kịch. Kịch xong đúng mười hai giờ đêm, người hầu của ông nội là Hoàng Tài Dư dẫn chúng tôi về Tân thất, bác ôm bé út, vừa dắt Kỳ Lân, vừa xách cây đèn bão đi trên bờ ruộng, nên bị té xuống đám ruộng nước, ướt như chuột lột, dính bê bết bùn. Về Tân thất, mẹ tôi nhìn thấy sốt ruột, than vắn thở dài, vì tôi chỉ có bộ đồ một trăm lẻ một này trên người là có thể mặc được để hôm sau còn tiếp tân giúp ông nội! Trong đêm, mẹ tôi phải giặt đồ, nhưng không kịp khô. Hôm sau, tôi đành mặc quần của em trai đi lạy bạn bè của ông nội. Lạy. Nói đến chuyện lạy, nếp cũ của ông nội vẫn chưa thay đổi. Hễ thấy bề trên là ba chị em tôi phải lạy. Người khác bái ông nội thì chúng tôi cũng phải lạy đáp lễ, lạy, lạy mãi. Đang lúc đó, người em họ của tôi là Đường Chiêu Học xuất hiện. Đường Chiêu Học hồi đó học cấp ba, khoảng mười bảy mười tám tuổi, là một thanh niên đôn hậu sống có nền nếp, quy củ, nghe đâu học cũng đứng đầu gì đó. Không may cho cậu ta, vì thấp vai hơn chúng tôi một đời họ, dù là tuổi gấp đôi, thành ra là đối tượng để tôi và các em trêu chọc. Thấy bề trên là phải lạy! Em trai út kéo ông nội, nhảy câng câng phấn khởi reo lên: - Đường Chiêu Học có lạy chúng cháu không? Bảo nó lạy chúng cháu nhanh lên! Chúng cháu lạy nhiều lắm rồi, mới tới lượt có người lạy trả chúng cháu! Đường Chiêu Học không chịu lạy, cũng không chịu gọi tôi bằng cô, khom người giật đầu một cái rồi ù té chạy. Chúc thọ ông nội xong, chúng tôi về lại Hành Dương đi học, Đường Chiêu Học hễ nghỉ hè là đến Đài Viên chơi, trở thành người bạn tốt nhất của tôi. Năm ấy, tôi ăn sinh nhật tròn mười tuổi, đã hiểu đời. Sau mười tuổi, là năm cuối cùng tôi lưu lại Hành Dương, (sự thật cũng là năm cuối cùng tôi lưu lại ở Đại Lục). Từng việc, từng việc đã qua cứ sống dậy mạnh mẽ trong đầu tôi, trong đó có cả chuyện ống sáo của Đường Chiêu Học. Đường Chiêu Học có một ống sáo, đi đâu cũng mang theo bên người, hễ rảnh rỗi là lấy sáo ra thổi. Chú ấy thổi hay lắm. Từ nhỏ tôi vốn rất yêu âm nhạc, kịch, văn học, nghệ thuật. Khi đó, âm nhạc mà tôi được tiếp xúc đầu tiên là ống sáo của Đường Chiêu Học. Chú ấy thổi sao nghe du dương quá, tôi thường đòi chú ấy thổi, mà hễ đòi là chú ấy chịu thổi liền. Được đàng chân lân đàng đầu, sau đó tôi đòi chú ấy đưa sáo cho tôi, chú ấy nhất quyết không chịu. Nguyên do cây sáo này là của một người bạn thân của chú ấy tự tay khắc tặng rất công phu. Bây giờ, người bạn ấy đã chia tay, để kỷ niệm tình bằng hữu, nên không lúc nào chú ấy chịu rời ống sáo. Có một dạo, chính nhờ Đường Chiêu Học và tiếng sáo của chú ấy đã giúp đỡ tôi vượt qua những khoảnh khắc cô đơn. Ba ở mãi tận Thượng Hải, mẹ đi dạy học xa, cái năm ấy tôi cảm thấy cô đơn quá. May mà có anh họ, chị họ và Đường Chiêu Học. Tôi còn nhớ, hồi nhỏ tôi có nóng nảy đâu, chiến tranh ly loạn và đói nghèo tôi đã quen từ tấm bé. Nhưng không hiểu sao, có một hôm tôi lại cãi lộn dữ dội với Đường Chiêu Học. Cái sai là do tôi gây ra, nhưng chú ấy không chịu nhượng bộ tôi. Cãi, cãi một hồi, tôi nổi quạu, giựt ống sáo của chú ấy đập mạnh lên bàn. Chú ấy nhảy tới định chặn lại, nhưng không kịp nữa rồi, cái ống sáo đã đập thành nhiều mảnh. Tôi đứng ngây người, chú ấy cũng đứng ngây người. Thật tình tôi nào biết ống sáo vừa mới gõ một cái là dập tan ra. Khi ống sáo bị đập, tôi sợ đến cả đờ cả miệng chỉ đành trố mắt nhìn, hối hận quá không biết làm cách gì. Đường Chiêu Học thì xanh mặt, vừa nhặt từng mảnh sáo vụn lên, vừa hét ầm ĩ. Bà chị họ bênh tôi, nhảy xổ ra mắng Đường Chiêu Học một trận: - Cái ống sáo ấy chứ thứ gì mà làm dữ vậỷ? Con trai to đầu thế kia mà đi cãi lộn với con gái! Đồ không biết xấu! Hơn nữa, Phượng Hoàng là cô của mày kia mà! Đường Chiêu Học giận lắm, cầm ống sáo bể lao ra khỏi nhà. Suốt một thời gian dài, chú ấy không thèm đến thăm tôi. Cuối cùng thì Đường Chiêu Học đến thăm tôi, cũng là lúc ba tôi vội vàng từ ở Thượng Hải trở về, mẹ tôi cũng bỏ dạy ở Hành Dương chạy về. Cả thành phố Hành Dương, đang loạn xị bát nháo cả lên, trường tiểu học đóng cửa, học trò lục tục kéo về quê. Ba và ông nội lại bắt đầu thâu đêm bàn luận. Tôi đã quen cái không khí ấy lắm rồi, tuồng như mỗi lần nét mặt người lớn đăm chiêu, sắc lạnh luận bàn với nhau thâu đêm suốt sáng, mỗi lần trường học đóng cửa, mỗi lần trường học đóng cửa, mỗi lần người trong thành phố nháo nhác... tức là báo hiệu đến hồi ly biệt. Mùa xuân năm 1949, chúng tôi lại xa ông nội một lần nữa. Giờ ly biệt đã đến. Bốn đứa bé và ông nội lần lượt ôm nhau, ông nội dặn đi dặn lại: Bao giờ thời cuộc ổn định, sớm ngày quay về nhé! Chúng tôi đáp xe lửa đến Quảng Châu, rồi lên tàu thủy đi Đài Loan. Ai cũng cho rằng ly biệt lần này không lâu hơn lần trước. Ông nội tuy đã tám mươi, nhưng vẫn còn mạnh khỏe, ngày đoàn tụ chắc chắn là không xa lắm. Nào ngờ, lần biệt ly ấy, chúng tôi mãi mãi xa ông! Ông nội, anh họ, chị họ, Đường Chiêu Học, đều ra ga xe lửa tiễn chúng tôi. Người anh họ còn leo lên xe, tiễn chúng tôi đến mấy ga liền mới xuống. Tôi tựa cửa sổ nhìn thành phố Hành Dương khuất dần, khuất dần, rồi mất hút, tôi muốn nói một câu xin lỗi với Đường Chiêu Học, tôi muốn ôm chặt lấy cổ ông nội, hôn chòm râu bạc phơ của ông, tôi muốn bảo bà chị họ là tôi thích ăn trứng vịt mặn... nhưng rồi tôi chẳng nói gì được, chỉ đưa hai tay bíu chặt cửa xe, nhìn chằm chằm ông nội người thân và thành phố Hành Dương, mỗi lúc một xa dần, xa dần... Hồi đó, thật tôi không thể ngờ rằng cuộc chia tay ấy lại dài đến ba mươi chín năm! Cho mãi đến tháng tư năm 1988, tôi mới có cơ hội về thăm Đại Lục, gặp lại anh họ, chị họ và Đường Chiêu Học! Câu "xin lỗi" cách ba mươi chín năm tôi mới nói được với Đường Chiêu Học tại đại khách sạn Trường Giang ở Vũ Hán. Còn trứng mặn của chị họ! Khi tôi gặp lại chị họ, thì tóc chị bạc trắng. Bắt chặt tay tôi, chị khóc nức nở. Sau đó, chị nói đùa: - Chắc nhờ ăn trứng mặn của chị, em mới có cái đầu thông minh để viết tiểu thuyết! Chắc vậy quá! Tôi ôm chặt lấy bà chị họ của tôi. Năm 1988, nhỏ Phượng Hoàng đã già rồi, Đường Chiêu Học đã hai màu tóc trên đầu, con của người anh họ đều đã tốt nghiệp đại học... Còn ông nội thì đã qua đời từ lâu. Đời người ngắn ngủi quá. Sự đời thật khó lường!
Chương 30
Lần Đầu Đến Đài Loan
Mùa hè năm 1949, cả nhà sáu người chúng tôi đến được Đài Loan sau bao ngày trắc trở. (Khi chúng tôi ở Quảng Châu, phải lưu lại đây hơn hai tháng vì bị bọn móc túi trên xe buýt lấy sạch tiền bạc và giấy tờ chuẩn bị đi Đài Loan. Ba tôi bèn dán thông báo khắp các phố phường kêu gọi "quí nhân" trả lại giấy tờ cho chúng tôi. Thế là "quí nhân" kia trông thấy thông báo, đem giấy tờ đi Đài Loan đến trả tận chỗ ở. Đồng thời, bác Vương ở Đài Loan gấp rút gửi tiền đi đường cho ba, chúng tôi mới lên đường được. Lần đầu đến Đài Loan, cái gì cũng rất mới lạ. Ba nhận được thư mời của trường Đại Học sư phạm, làm phó giáo sư Khoa trung văn. Đại Học sư phạm phân cho ba tôi một gian nhà kiến trúc kiểu Nhật Bản. Đài Loan lúc ấy mới thoát khỏi tay của Nhật chưa bao lâu, kiến trúc phố phường đều theo kiểu Nhật, khu nhà ở cũng hoàn toàn theo kiểu Nhật. Chỗ ở chúng tôi tuy có nhỏ thật nhưng rất ngăn nắp. Phía trước có sân nho nhỏ, sân trước có một cây đa lớn, tường thấp bao quanh. Chỗ vào cửa có một cái vòm, phải tháo giày mới bước lên sàn nhà. Nhà chúng tôi có ba phòng, mặt trước là phòng khách tám mét, mặt sau có nhà xí sáu mét. Lại còn sân sau, trong sân sau có hai cây dừa cao nghiều. Tôi còn nhớ rõ, ngày đầu vào nhà này, mẹ tôi rất phấn khởi. Người mẹ đáng thương từ khi đi lấy chồng chưa được một ngày yên ổn, cứ lận đận long đong. Bây giờ được ở trong ngôi nhà có cổng riêng, sân riêng, mẹ tôi sung sướng nói: - Từ hồi mẹ lấy chồng đến giờ, đây là lần đầu có nhà riêng. Mẹ tôi chăm chút lau nhà, lau ván sàn, lau bậu cửa sổ. Khắp nhà chỗ nào cũng lau sạch bóng. Mấy đứa chúng tôi lần đầu được ở nhà Nhật, vào cửa là tháo giày, chẳng quen chút nào. Riêng việc tập mang guốc, cũng bị ngã hoài. Thích nhất là sàn nhà có trải thảm, đẹp giản dị. Ngôi nhà Nhật nho nhỏ này, chúng tôi ở liền mười mấy năm. Tuổi thơ ấu của chúng tôi kết thúc tại ngôi nhà này. Hai đứa em trai rất khỏe, thường đánh lộn trong nhà, nhà Nhật thì cửa giấy, hễ chúng nó xô đẩy té ngã là cửa giấy rách toác cả. Vì vậy, ba mua loại giấy dán tường, để dán cửa. Một năm, chúng tôi phải dán giấy cửa những mấy lần. Cuộc sống vẫn rất gian khổ, phần lương của ba không đủ trang trải cho cả nhà. Ngày nào mẹ cũng tính toán, tìm cách giảm bớt chi tiêu. Áo quần chúng tôi vá chùm vá đụp, sửa đi sửa lại không biết bao nhiêu bận, đứa lớn chật thì sửa lại cho đứa nhỏ, chị mặc chật thì sửa lại cho em gái, anh mặc chật thì sửa lại cho em trai. Mẹ ở nhà làm nội trợ. Nhà không mua nổi than củi, nên đốt bằng than quả bàng, than quả bàng và bếp lò đều bự, ở giữa có nhiều lỗ tròn, quả nọ tiếp quả kia đun lên, suốt năm không bao giờ tắt lửa. Nhưng có điều hơi than rất khó thở, tôi thường xuyên phải ngủ trong nhà ăn chỉ có bốn mét, đêm đêm hít thở than này, nên đến giờ cổ họng tôi vẫn không ổn. Trong tiểu thuyết "Mấy Độ Tịch Dương" nói về cuộc đời nhân vật Lý Mộng Trúc, ấy chính là hình ảnh của mẹ tôi. Tôi còn dẫn ra một bài thơ, bài thơ ấy chính do mẹ tôi làm: Gánh vác việc nhà nào sợ khổ? Đêm khuya còn vá áo trượng phu Ai thương tay liễu luồn kim lạnh Côn trùng non nỉ dưới trăng thu! Qua bài thơ này, có thể hiểu được cuộc sống chúng tôi năm ấy. Mùa thu năm 1949 tôi học lớp sáu trường sư phạm Đài Bắc, tiếp tục năm học gián đoạn của tôi, Kỳ Lân học lớp năm, còn em trai út thì học lớp ba. Em gái út chưa đến tuổi đi học, thích leo lên tường thấp bao quanh nhà, từ tường leo chuyền lên cây đa to, rồi ngồi trên đó ngắm phong cảnh. Mỗi buổi sáng, như thường lệ, tôi lại dẫn hai đứa em trai đi học. Đài Loan là vùng Á nhiệt đới, mùa hè nóng kinh người. Hễ tan học là các bạn ào vô quán kem Phước Lợi mua kem ăn. Tôi và các em không có tiền, không làm sao mua được, nhìn các bạn ăn kem, thấy thèm hết biết. Nhà trường qui định mặc đồng phục, mỗi tuần giặt áo quần đồng phục hai lần, hai lần đó được mặc thường phục. Ngày mặc thường phục, các bạn ăn mặc mỗi người một kiểu, trông rất đẹp, chỉ có mỗi mình tôi là mặc hoái cái váy sửa từ cái áo Thượng Hải của mẹ, trông dị hợm. Vậy mà tôi mặc nó suốt năm học, không có chiếc thứ hai. Điều đáng sợ nhất trong tuần là "ngày giặt đồ đồng phục". Kỳ Lân và em trai út càng nghịch ngợm hết chỗ nói. Những đứa trẻ khác có đồ chơi, chúng tôi không có gì cả. Đến Đài Loan, lần đầu tôi mới trông thấy ốc sên bò trên lá, trông lạ lùng lắm. Tôi gọi mấy đứa em lại xem, nói: - Ốc ruộng Đài Loan kỳ cục thật, biết cõng cả vỏ của mình bò trên lá cây! Các em không có đồ chơi, nhận thấy ốc sên cũng là thứ đồ chơi thú vị. Chúng nó bứt từng chiếc lá có ốc sên, cho vào trong bọc, thi nhau ai tìm được ốc sên nhiều hơn. Chúng còn bày trò cho ốc sên "đấu nhau" tiếc là ốc sên không phải là châu chấu, chẳng biết đấu đá gì cả. Túi nào của chúng tôi cũng đầy ắp ốc sên. Mẹ sợ quá la hoảng lên, suýt té xỉu tại chỗ. Từ đó trở đi, chúng không dám nghịch ốc sên nữa, nhưng không nghịch ốc sên thì biết nghịch thứ gì bây giờ? Thế là chúng lại chơi trò ốc sên. Năm đó, tôi phát hiện ra các buổi chiếu bóng. Tại vườn thực vật, tối thứ bảy nào cũng có một buổi chiếu bóng ngoài trời, giá rất rẻ, chỉ có một đồng. Nhưng ngay cả một đồng tôi cũng không có! Hằng ngày tôi giúp mẹ rửa chén, xin mẹ một ít tiền lẻ, có khi mẹ cho một hào. Để dồn lại thật lâu mới đủ một đồng. Không có tiền đi xe buýt, tôi phải đi bộ đến vườn thực vật, mất đúng một tiếng đồng hồ, xem xong, lại đi bộ quay về đúng một tiếng nữa. Có một lần, phim chiếu nữa chừng thì trời mưa lớn đành phải ngừng lại. Tôi đội mưa về nhà, trời tối, mưa to, giữa đường bị té ngã, đầu gối bị chảy máu. Về đến nhà, tôi bị ướt sũng hệt như người cá, nước chảy ròng ròng, chân đau quá, đi không vững. Mẹ tôi trông thấy thất kinh, vội vàng thay áo quần, bôi thuốc cho tôi, và cấm tôi từ rày về sau không được đi vườn thực vật xem chiếu bóng nữa. Nhưng không xem chiếu bóng làm sao được? Đó là ham thích của tôi mà! Tuổi niên thiếu long đong, lận đận là vậy. Mùa hè năm sau, tôi mười hai tuổi, tốt nghiệp trường tiểu học sư phạm Đài Bắc, thi đậu và trường nữ trung học số một Đài Bắc. Vào trường trung học, tuổi thơ ấu lùi về quá khứ. Ngẫm lại, cái ngây thơ hồn nhiên của tuổi ấy, chẳng có mấy, chỉ toàn cát bụi phong trần, cái cảm giác êm đềm, hạnh phúc chẳng được bao nhiêu, còn kinh nghiệm biệt ly, xa cách thì không kể hết. Niềm hân hoan thì ít, nỗi khổ đau thì nhiều. Những ngày nhàn nhả thật hiếm hoi, chuỗi ngày lưu lạc dài vô tận. Đấy, tôi đã đi qua thời kỳ ly loạn của chiến tranh, đi qua khói lửa, đi qua khổ ải, đi qua thời niên thiếu của tôi như vậy đó. Còn về sau lại là một chương hoàn toàn khác.