watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:11:4929/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Quỳnh Dao > Chuyện Đời Tôi - Trang 2
Chỉ mục bài viết
Chuyện Đời Tôi
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 10

Chương 3

Ông nội và "Lan Chi Đường"


Trong ấn tượng của tôi, ông nội là một cụ già rất oai nghiêm, đầy phí phách.
Ông nội tên Trần Mặc Tây, có năm anh em, đều ở Lan Chi Đường là nhà thờ họ thuộc  Trấn Tra Giang, huyện Hành Dương.
Ông nội rất có tiếng tăm ở quê nhà, ông từng theo Tôn Trung Sơn, du học Nhật Bản, tham  gia Bắc phạt, dấu chân in khắp đông, tây, nam, bắc. Thời trai trẻ, ông nội sống rất phong lưu.  Ông có vợ lớn ở quê, lại cưới thêm bà nội ở Nam Kinh. Nghe nói, bà nội tôi không biết gì về chuyện ông nội tôi đã lập gia đình, cho đến khi ông đưa bà về thăm xứ sở, bà mới phát hiện ra  chuyện ấy, hóa ra mình không phải là vợ cả. Bà nội tôi nổi cơn lôi đình, kiên quyết không  chịu về với ông nội, bèn đưa ba tôi và người bác ruột của tôi đến Bắc Kinh ở. Cũng nhờ đức  tính cương quyết của bà nội mà ba tôi mới trưởng thành ở Bắc Kinh, mới gặp mẹ tôi, sanh ra  bầy nhóc chúng tôi.
Khi cả nhà chuyển đến Hồ Nam thì bà nội tôi và bà vợ cả của ông tôi đều qua đời. Ông  nội lại ở với một bà dì để kết bạn tuổi già. Vì thế, bên cạnh Lan Chi Đường, lại xây một ngôi  nhà nhỏ để ông ở với dì. Người nhà họ Trần ở Lan Chi Đường đều gọi ngôi nhà này là Tân  Thất.
Chúng tôi vừa về đến quê hương, cả Lan Chi Đường xôn xao hẳn lên. Mọi người đổ xô lại  thăm ba tôi, người nhà lần đầu tiên về thăm quê, xem nàng dâu mới nói rặt tiếng Bắc Kinh, tò  mò xem cặp song sinh chúng tôi và bé Xảo Tam. 0, tính tình trầm lặng,  lại thường hay đi theo ông đi thăm bạn bè, ở đâu cũng không quậy phá. Do vậy, tuy là con  gái, nhưng ông vẫn coi tôi là hạt ngọc trên lòng bàn tay. Chỉ cái bớt trên mặt tôi, ông nội bảo  chẳng nhằm nhò gì, chẳng ảnh hưởng gì đến dung nhan cháu gái cưng của ông.
Được đoàn tụ với ông nội, cuộc sống hàng ngày của chúng tôi rất thoải mái. Ông có người  giúp việc tên là Hoàng Tài Dư, một mực trung thành với ông. Lúc rảnh rỗi, Hoàng Tài Dư hay  dẫn chúng tôi dạo chơi trên núi sau nhà, nếu nhớ không nhầm thì tôi thích nhất trò nhặt quả thông trong rừng. Hồi đó tôi cũng chẳng có đồ chơi, ngoài mấy quả thông, lá tre, cỏ đuôi  chó...
Ở đây chẳng bao lâu, ba theo ông nội đi dạy học ở trường Trung học Nam Hoa, cả mẹ tôi  cũng dạy môn quốc văn ở trường này. Thế là, cả nhà năm người với ông nội đều phải dời đến  ở trong khu gia đình của trường, nằm trong thung lũng núi Hành Sơn. Phong cảnh ở đây tuyệt  đẹp.
Ở Hồ Nam là chặng thời gian tuổi thơ của tôi được sống những ngày hạnh phúc nhất.  Trong sâu vườn Lan Chi Đường, tôi được ấm áp trong tình thương của người lớn. Trên ngọn  núi sau nhà, tôi nhặt được trái thông và tìm ra cái loại tổ chim. Trong vườn trường Trung học  Nam Hoa, tôi biết thả diều và nhận mặt chữ ô vuông... Nhưng, vui chơi với cảnh đẹp thiên  nhiên chưa được bao nhiêu, thì khói lửa chiến tranh đã dần dần tràn đến Hồ Nam. Không khí  trong trường mỗi ngày một căng thẳng, nụ cười vắng bóng trên khuôn mặt người lớn, thay  vào đó là bao nỗi lo âu. Ông nội và ba mẹ lại thường ngồi lại bàn tính chuyện, gương mặt ai  nấy đầy vẻ ưu tư.
Ấy là năm 1944, chiến tranh Trung Nhật bao trùm cả Trung Quốc. Khi tôi mới bắt đầu  hiểu sơ sơ về nhân tình thế thái, thì cũng là lúc tuổi thơ của tôi lại bị ngọn lửa của chiến tranh  cuốn đi. Mọi niềm vui thú và hạnh phúc chỉ qua một đêm tan tành ra mây khói.
Sau này, những gì xẩy ra ở thời niên thiếu, tôi đều ghi lại trong cuốn sách "Những ngày  lưu lạc". 

Chương 4

Cờ đuôi nheo


Trí nhớ của trẻ con kể cũng kỳ, chúng có thể quên hết những chuyện rất quan trọng,  nhưng lại nhớ như in những chuyên vặt vãnh, bé tí ti như hạt mè, hạt đậu. Trong ký ức tôi, ấn  tượng đầu tiên có liên quan đến chiến tranh là một lá cờ đuôi nheo.
Cờ đuôi nheo là của người đồng nghiệp với ba tặng cho tôi.
Một hôm, nhà trường mở hội thể theo, những lá cờ đuôi nheo nhiều màu sắc bay phất phới  trên sân bãi đầy nắng. Tôi thích mê thích mệt, quấn quít lấy mẹ, cố vòi cho được một lá cờ đuôi nheo. Mẹ tôi không cho, ba tôi càng cuống lên vì sợ tôi quậy phá. Một bạn đồng nghiệp  của ba (không còn nhớ họ tên gì, chỉ biết là một bác tốt bụng) lấy xuống một lá cờ đuôi nheo  đi tới nói với tôi:
- Con múa một bài, bác sẽ cho con một lá cờ.
Lúc nhỏ, tính tôi rụt rè và hay mắc cở, bảo tôi múa thật khó, chẳng khác nào bảo tôi bay  lên trời. Nhưng lá cờ đuôi nheo mịn màng bóng loáng kia đã làm hoa mắt tôi, khiến tôi không  còn biết mắc cở là gì nữa, liền múa đại điệu "em bé mệt nhoài" để được nhận lá cờ đuôi nheo.
Ngày hôm sau, cả nhà tôi bấn loạn cả lên. Mẹ vừa vội vã thu xếp rương hòm, vừa chuyển  đồ lên gác kho chứa nông cụ, vì ngại lính Nhật thấy sẽ cướp hết. Tôi lại nghĩ tới lá cờ đuôi  nheo, và lo nó bị lính Nhật cướp mất. Nghĩ vậy, tôi cẩn thận đưa lá cờ cho mẹ, nhờ mẹ bỏ vào  hòm khóa kỹ lại. Cho đến khi ông Hoàng Tài Dư đem mấy cái hòm đó để trên gác chứa nông  cụ, tôi mới thật an tâm, cho đây là nơi an toàn nhất thế giới này. Mẹ cũng bảo, lính Nhật  không vào kho chứa nông cụ đâu vì trong đó chỉ chứa đầy trấu.
Đêm ấy tôi đang ngủ ngon lành bỗng bị mẹ gọi giật dậy.
Tôi trố mắt nhìn, thấy ba đang hối hả mặc quần áo cho Kỳ Lân và bé Tam, và liền sau đó,  tiếng súng nổ mỗi lúc một dồn dập ở bên ngoài. Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy khắp làng lửa cháy  ngùn ngụt, inh ỏi tiếng người, tiếng súng, tiếng gà kêu, chó sủa hỗn loạn. Ba mẹ và ông nội  kéo ba chị em tôi lại, vừa nói vừa thở dốc:
- Suỵt! Không được ồn, phải trốn ngay vào trong núi!
Tôi không hiểu tại sao lại vào trốn trong núi nhưng cũng đã biết là tiếp tục ở đây không ổn  nữa rồi. Thế là cả nhà lần trong đêm tối chạy trốn, ba mẹ dìu ông nội, ẵm bé trai út, lôi hai chị em sanh đôi chúng tôi chạy theo, hướng về phía núi.
Trên đường đầy gai và cỏ tạp, chúng tôi bị gai đâm đau lắm nhưng không đứa nào dám  khóc. Lần mò vào được hốc núi, chúng tôi nấp vào giữa những tảng đá lớn, ôm chặt lấy nhau,  nhìn ra những ngọn lửa bốc cao, đỏ rực cả bầu tròi.
Trời sáng dần, tiếng súng cũng xa dần. Khi bình minh lên, bốn bề yên tĩnh hẳn. Sau đó,  nghe tiếng bác Hoàng Tài Dư gọi. Từ chỗ nấp, chúng tôi chạy ra, thấy chúng tôi vô sự, bác  vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Liền đó, bác mếu máo cho biết: suốt đêm lính Nhật vào làng  không cướp đồ đạc của bà con nhưng lại châm lửa thiêu rụi tất cả, trong đó có nhà chúng tôi,  giờ này cả làng chỉ còn là bình địa. Lính Nhật đã đốt cháy nhà ở, nhà kho, đốt cháy toàn bộ rương hòm, đồ đạc, đốt cháy cả lá cờ đuôi nheo của tôi.
Thế là tôi bị mất lá cờ đuôi nheo thân thiết mất cả niềm vui của tuổi thơ. Trong ký ức của  tôi, đây chính là sự bắt đầu một chuỗi dài những nỗi khổ đau. 

Chương 5

Trong khe núi


Lính Nhật tràn vào trong làng, đi đến đâu, chúng giết người, phóng lửa đốt sạch mọi thứ tới đó. Xóm làng xơ xác, tiêu điều. Nghe nói, lính Nhật căm nhất là tầng lớp trí thức, hễ bắt  được ai biết chữ là chúng giết ngay. Cả nhà chúng tôi, từ ông nội, ba mẹ đều đang dạy học, lại  là những phần tử tích cực chống Nhật. Bình thường, trong lớp học, lúc nào ông nội, ba mẹ tôi  cũng đều giảng giải cho học sinh về tinh thần dân tộc, giờ đây, đương nhiên họ sẽ là mục tiêu  tìm diệt trước tiên của giặc Nhật.
Thực ra, lúc bấy giờ gót giầy quân Nhật đã giày xéo khắp nơi, bao mạng người, bất kể già,  trẻ, tật nguyền, bất kể người đó là sĩ nông công thương, đều bị chúng giết sạch.
Cả nhà tôi phải trốn mãi trong núi là vì lẽ đó. Tôi nhớ mãi khe núi như nhớ một kỷ niệm  mang theo suốt đời.
Khe núi này trước là nguồn suối, bây giờ nước đã cạn. Chúng tôi lấy giấy dầu trải xuống  lòng khe, ngồi đầu trần như vậy suốt ba ngày liền. Do lối ra cửa khe thông với một con đường  nhỏ dưới núi, nên để khỏi bị lính Nhật phát hiện, Hoàng Tài Dư đã đem nhánh thông bít lại.  Trong khi chúng tôi ngồi thu lu trong cái khe núi chật chội đầy bùn đất này, thì Hoàng Tài Dư ngày ngày bất chấp nguy hiểm luôn đe dọa đến tính mạng, lẻn vô làng bên kiếm đồ ăn tiếp tế cho gia đình tôi và thông báo tin tức ở bên ngoài. Những mẩu tin ấy càng ngày càng tệ hại vì  tôi thấy ba mẹ luôn nhíu mày nghĩ ngợi.
Tôi không nhớ hai ngày đầu chịu đựng như thế nào, chỉ nhớ Kỳ Lân khóc suốt, la đói  bụng. Để dỗ dành nó, mẹ lấy xâu chìa khóa, kẹp tóc, cái lược con, ống đựng son, cái gương  nhỏ... bày ra cho nó chơi. Nó dồn tất cả vào một cái túi, xốc kêu lổn cổn nhưng nó vẫn cứ khóc. Em trai út mới lên bốn tuổi, là cái tuổi không làm sao giảng giải cho nó nghe được. Nó  yêu động vật vô cùng, lúc thì nhìn xuống đất tìm bắt châu chấu trong bụi cỏ. Cái hay nhất của  nó là thích ngủ, không vừa ý thì khóc, khóc chút xíu rồi ngủ.
Trong ba đứa, tôi là đứa bé lặng nhất, tôi ngồi đó mà đầu óc cứ nghĩ tới lá cờ đuôi nheo.
Ngày thứ nhất, cả nhà tôi chỉ ăn hai bát cơm trắng do bác Hoàng Tài Dư đưa tôi, ngày thứ hai cũng vẫn ăn như vậy. Ngày thứ ba, người giúp việc không về, chúng tôi đói cồn cào. Kỳ Lân và em trai út bắt đầu khóc. Tôi nghe ba nói nhỏ với ông nội, sợ có điều không lành đối  với bác Hoàng Tài Dư. Thời gian trôi qua, mặt trời từ bên kia chuyển dịch về phía bên này  khe núi, đói và khát dày vò, trầm lặng đến như tôi cũng không chịu nổi. Kỳ Lân xấu đói, em  trai út kêu khát, tôi cũng bắt đầu thút thít. Cùng lúc, ba chị em tôi làm rối cả lên, ba thì la, ông  nội chỉ lắc đầu, mẹ tôi tay trái đỡ em trai út, tay phải đỡ tôi, dỗ dành. Đang lúc đó, có tiếng  súng đanh gọn vọng vào khe núi, liền đó một bóng người vụt qua bên ngoài đám thông.
Cả nhà sợ quá, nín cả khóc. Khe núi im phăng phắc. Nhìn qua kẽ hở của những nhánh  thông, tôi thấy một bác nông dân bình thường, đùi rớm máu đang khấp khểnh chạy thoát toán  lính Nhật vừa rượt đuổi vừa la thét điên cuồng. Lại một loạt súng nổ, bác nông dân kia ngã  xuống. Tôi bàng hoàng, lần đầu tiên tôi hiểu cái chết bất thình lình ập đến là như thế nào, và  cũng lần đầu tiên trông thấy máu người vọt ra sau khi bị giết hại.
Mặt mẹ tôi trắng bêch, mẹ ôm chặt lấy Kỳ Lân, lấy tay bụm miệng nó, sợ nó khóc bật  thành tiếng, còn em trai út thì rúc đầu vào áo mẹ, sợ phát run lên. Thời gian nặng nề trôi qua  lâu như cả thế kỷ, sau đó, từng tên lính Nhật đi qua ngay chỗ mấy nhánh thông che kín miệng  khe núi, nhưng không tên nào phát hiện ra chúng tôi.
Trông chừng đám lính Nhật đã đi xa, mẹ thở dài, mặt còn tái nhợt, Kỳ Lân giẫy ra khỏi  tay mẹ, ngồi bệt xuống đất thở dốc, không la đói nữa, em trai út thì ngẩng đầu lên, hai con  mắt đen tròn sáng quắc của nó đảo lia đảo lịa, miệng ấp úng khóc không ra tiếng:
- Súng, súng, súng dài... dài... dài lắm!
Mẹ tôi duỗi tay ra định ôm em, nó vẫn ấp a ấp úng:
- Súng, súng, có súng, có súng!
Bất giác, mặt mẹ tôi như ngây dại, chúng tôi luống cuống ngẩng mặt nhìn lên, mới phát  hiện, trên cao, dưới thấp, một trung đội lính Nhật đứng ngoài lối ra khe núi, đang cúi xuống  nhìn chúng tôi. Tôi và mấy đứa em dồn lại một cục, dựa sát vào lòng mẹ. Trong nháy mắt,  chúng tôi trong khe núi, bọn Nhật ngoài khe núi nhìn nhau chằm chằm, không bên nào lên  tiếng. Sau đó, một tên sĩ quan Nhật đeo kiếng, nhảy vào trong khe núi, cầm súng chĩa vào ông  nội, nói bằng tiếng Trung Quốc:
- Đứng dậy cho tao kiểm tra!
Ông nội đứng dậy một cách bất đắc dỉ, tên sĩ quan kia rút hết tiền, danh thiếp, bút máy,  huy hiệu nhà trường v. v... trong túi áo của ông ra, để một đống, nó chỉ lấy tiền, rồi hách dịch  lườm ông nội:
- Dạy học hả?
Ông nội không đáp, tên sĩ quan kia cũng không hỏi nữa. Nó quay sang kiểm tra ba tôi, lấy  hết tiền trên túi áo của ba. Lúc đó mẹ tôi nhanh trí cúi xuống giấu cái ví tiền vào bụi cỏ, rồi  đứng dậy, chủ động vỗ vỗ vào người, cốt để tên Nhật hiểu rằng bộ đồ kiểu Thượng Hải này,  chẳng còn chỗ nào để giấu tiền cả.
Tên sĩ quan nọ cầm cái huy hiệu trong nhà trường và danh thiếp lên xem, do dự nhìn ba và  nhìn ông nội. Không khí trong khe núi như đông đặc lại, môi mẹ tôi càng lúc càng tái nhợt,  bỗng dưng Kỳ Lân lách mình qua khỏi đám người, rấn bước tới trước mặt tên sĩ quan Nhật,  ngẩng đầu lên, nói rõ từng tiếng một:
- Ông đừng kiểm ra tôi, có gì trên người tôi cho ông hết đó.
Rồi nó rút trong túi ra nào xâu chìa khóa, ống đựng son, lược, kẹp tóc, lại còn có cả mấy  viên đá cuội, đưa hết cho tên sĩ quan Nhật hồi hộp theo dõi, liền đó, hắn toác miệng cười hô  hố, đám lính Nhật vây quanh cũng cười ầm lên. Trong tiếng cười đang rộ lên đó, tên sĩ quan  bước ra khỏi khe núi, xua xua tay về phía đám lính của hắn, ý bảo bỏ đi. Thật hú hồn cho ông  nội và ba của tôi. Lúc bọn Nhật đang kéo đi, thì một thằng bự con, cao to, dáng vẻ thô lỗ, kịch  cỡm bỗng lùi lũi quay lại, hét lên mấy tiếng Nhật, rồi nhanh như cắt, nó nhảy vào khe núi, đi  xồng xộc lại chỗ mẹ tôi. Chúng tôi ngây người, mẹ tôi hốt hoảng la lên:
- Tôi không có tiền.
Tên lính Nhật banh áo trước ngực ra, mắt long lên sòng sọc nhìn mẹ. Một lát hắn vung cái  dùi cui lên, rồi nắm lấy tay mẹ tôi, lôi đi, nói lơ lớ tiếng Trung Quốc:
- Đi theo tao!
Vừa nói, hắn vừa kéo thục mạng mẹ tôi ra ngoài khe núi.
Ba tôi liền xông lại, ôm chặt lấy mẹ, hét lớn vào mặt tên lính Nhật:
- Buông tay ra! Đồ súc vật! Buông tay ra!
Sự việc xẩy ra nhanh quá, tôi thấy tên lính Nhật giơ dùi cui nện mạnh vào hông ba tôi,  khiến ông ta lảo đảo ngã xuống dốc. Ông nội không chịu được cũng xông lên, tên lính Nhật  cũng dùng dùi cui đánh ông ngã quỵ. Hắn tiếp tục lôi xềnh xệch mẹ tôi ra ngoài khe núi. Mẹ đưa tay bấu chặt những bụi cỏ hai bên đường, khóc kêu thảm thiết. Thấy ba và ông nội bị đánh, mẹ lại bị lôi đi, cảm giác sợ hãi, phẫn uất, bất bình cùng lúc dồn lên người tôi, tôi dùng  hai tay giữ chặt áo của mẹ, khóc lớn. Đồng thời, Kỳ Lân và em trai út cũng nhào lại, ôm chặt  lấy chân mẹ, khóc la xao động cả đất trời:
- Đừng đi mẹ ơi! Đừng đi mẹ ơi!
Chúng tôi khóc, mẹ cũng khóc. Tên lính Nhật dùng tiếng Trung Quốc chửi lại, tiếng khóc  thét, tiếng kêu la, tiếng chửi tục vang lên inh ỏi. Nhưng rồi mẹ tôi cứ tuột dần ra khỏi tay  chúng tôi, tôi và em càng sợ hãi, càng khóc la thảm thiết hơn. Đúng lúc ấy, viên sĩ quan Nhật  đeo kiếng kia hình như cũng động lòng trắc ẩn, y dùng tiếng Nhật hô lên một tiếng gì đó,  khiến tên lính lập tức buông tay, hậm hực nhảy ra khỏi khe núi, chuồn thẳng. Chúng tôi kinh  hoàng chạy ùa vào lòng mẹ, mẹ đưa hay tay ôm chầm lấy chúng tôi, khóc nức nở.
Mãi hồi lâu mới phát hiện là số quân lính Nhật kia vẫn chưa đi, còn đứng nhìn chúng tôi  chăm chú. Đợi chúng tôi dứt khóc, viên sĩ quan kia lại vào khe núi, kéo em trai út đến bên  hắn.
Chúng tôi tưởng hắn muốn bắt em, đều xông lên giữ chặt lấy em, nào ngờ, hắn lấy khăn  mùi xoa lau nước mắt cho em, rồi quay lại hỏi mẹ tôi:
- Cháu mấy tuổi?
Mẹ tôi run run đáp:
- Dạ, bốn tuổi!
Viên sĩ quan sầm mặt lại, mắt đăm chiêu nhìn xa xăm, một lát, hắn nói khẽ:
- Con trai tôi cũng lớn bằng nó!
Nói xong, viên sĩ quan quay lưng ra khỏi khe núi, khoát tay cả đám cùng đi, không ngoái  đầu trở lại. Chúng tôi chưa kịp hoàn hồn, không thể ngờ là vừa mới trải qua một tai họa khủng  khiếp. Lúc đó, tôi không thể hiểu được, thì ra lính Nhật cũng có, có con, khi chúng tàn sát bao  người vô tội thì cũng có những tên chưa mất hết tính người. Viên sĩ quan Nhật đeo kiếng kia  phải chăng là một kẻ như vậy!
Đang lúc đó, ba và ông nội cũng bò từ dưới dốc lên, cả nhà mừng mừng tủi tủi vì suýt nữa  thì cả nhà đã qua bên kia thế giới. Ba mẹ nắm tay nhìn nhau, chưa hết kinh hoàng. Ba chị em  tôi ôm ghì lấy ba vừa từ cõi chết trở về. Ông nội nện đầu gậy xuống đất thình thịch nói đĩnh  đạc:
- Đất Hồ Nam này không ở được nữa rồi. Ba đã già rồi, không nên làm vướng chân con  cháu. Các con còn trẻ, không sao, hãy thu xếp đi sớm khỏi đây thôi! Các con lùi về hậu  phương, tìm cách đến Tứ Xuyên! Đi đi! Nhất định phải đi đi!
Ba mẹ và ông nội nhìn nhau. Thế là đã rõ, đại nạn đã bày ra trước mắt, chia ly là chuyện  quá rõ ràng. Chỉ có điều không ai biết sẽ phải ứng phó với sự thật phũ phàng này như thế nào!

HOMECHAT
1 | 1 | 198
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com