Sau khi gặp lại các em tại thành phố Quế Lâm, chúng tôi lưu lại chẳng bao lâu. Ngọn lửa chiến tranh đã bao phủ miền đất nước, quân đội đóng đầy thành phố Quế Lâm, còn quân Nhật thì bao vây tứ phía, sớm muộn gì, Quế Lâm cũng thành bãi chiến trường đẫm máu. Mấy hôm ấy, ba mẹ và đại đội trưởng Tăng nói với nhau bao nhiêu là chuyện, còn tôi, hai em đều quì lạy trước mặt đại đội trưởng Tăng, chính thức nhận ông làm cha đỡ đầu. Lẽ ra, gặp đại đội trưởng Tăng, chúng tôi được cùng đi như trước và được đại đội trưởng chở che. Nào ngờ đại đội trưởng Tăng đã nhận mệnh lệnh "tử thủ Quế Lâm". Hai chữ tử thủ cũng có nghĩa là cùng sống chết với Quế Lâm. Đại đội trưởng Tăng vừa bố trí đội ngũ của mình, vừa sắp đặt đường đi nước bước cho cả nhà chúng tôi. Ông nói với chúng tôi đầy vẻ tự tin và hy vọng: - Anh chị về hậu phương trước, chúng tôi đuổi xong giặc Nhật, thắng lợi rồi chúng ta sẽ đoàn tụ! Lúc đó chúng ta sẽ cùng nhau uống vài ly rượu và nhắc lại những kỷ niệm đã qua! Tôi không biết ba mẹ tôi nghĩ gì lúc đó, còn tôi thì lúc nào cũng quấn quít bên cạnh đại đội trưởng Tăng, nhớ lại những ngày cùng ông cưỡi ngựa vượt qua Đại Phong Ảo, nhớ lại lúc uống nước trong bi đông của ông, nhớ lại kỳ công ông đã tìm ra hai đứa em trai tôi! Nhưng cuối cùng, rồi cũng đến lúc chúng tôi phải từ biệt đại đội trưởng Tăng! Chúng tôi đáp xe lửa chở dân lánh nạn rời thành phố Quế Lâm. Nói thêm một điều lý thú. Khi đại đội trưởng Tăng tìm được hai em thì cũng đồng thời tìm lại được cả hành lý hai người gánh đồ vụt lại. Hành lý lại trở về với chúng tôi. Đại đội trưởng Tăng đã cử binh sĩ của mình ra xe lửa chở người lánh nạn dành cho chúng tôi một chỗ không đến nỗi nhỏ lắm. Tờ mờ sáng, chúng tôi lên xe lửa, ló đầu ra cửa sổ, đột ngột lại thấy ông đứng trên sân ga. Chúng tôi vẫy tay chào từ biệt ông mà không cầm được nước mắt. Xe lăn bánh, đại đội trưởng Tăng vẫn đứng yên tại chỗ, uy nghi trong bộ quân phục sĩ quan. Ông vẫy tay về phía chúng tôi, chúng tôi cũng vẫy tay liên hồi đáp lại, xe càng chạy càng nhanh, mỗi lúc một xa, bóng của đại đội trưởng Tăng cũng nhỏ dần, rồi mất hút. Đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp đại đội trưởng Tăng. Trong cuộc đời lưu lạc sau này, chúng tôi luôn luôn hỏi thăm tin tức Quế Lâm, được biết Quế Lâm rốt cuộc thất thủ. Nhưng chúng tôi luôn tin rằng, sẽ có một ngày kia, đại đội trưởng Tăng chờ chúng tôi cùng nâng cốc chúc mừng ngày mới. (Sau ngày thắng lợi, chúng tôi đi tìm tông tích đại đội trưởng Tăng khắp nơi, tiếc là không gặp, đó là điều luôn luôn làm cho cả nhà tôi nhức nhối). Chia tay đại đội trưởng Tăng, chúng tôi đáp xe chở dân lánh nạn đi Quí Châu trước, rồi mới về Tứ Xuyên. Theo lời dặn của đại đội trưởng Tăng trước đó, phải đi một con đường nhỏ vào núi rồi từ Quế Lâm rẽ về phía Tây. Trong ký ức tôi, đoạn đường này khá mơ hồ. Xe lửa chở dân lánh nạn chỉ đi một đoạn rồi không biết sao chúng tôi phải đi bộ. Không có người gánh đồ, lũ nhóc chúng tôi đều đi bộ, riêng tôi, mới sáu tuổi đầu đã phải vác một bao đồ trên vai, bước thấp bước cao, mỗi ngày cuốc bộ ba mươi dặm. Chỉ còn nhớ là trên con đường ấy, hang cùng ngõ hẻm nào cũng có dân lánh nạn, người dắt con dẫn cái, người đỡ già nương trẻ, rõ là một cuộc lưu vong "vĩ đại". Cho đến giờ, mỗi lần nhắm mắt lại, tôi thấy hiện lên mồn một cảnh đám dân lánh nạn buồn bã xa quê, nặng nề lê bước trên đường núi gập ghềnh... Chúng tôi đi vất vả vô cùng, em trai khóc rồi lại khóc, nhưng dẫu sao cũng là cả nhà đoàn tụ! Tiếng khóc của đứa em cũng trở nên đáng yêu, tôi nghĩ, trong đoàn người ly hương đó, có lẽ duy nhất nhà tôi là có được cái niềm vui hồi sinh thật sự. Nhưng, những phút giây êm đềm này phỏng được bao lâu? Trong thời chiến loạn ly, biết lấy gì đảm bảo, để có được cảnh "sáng đi, chiều gặp", ly biệt rồi lại trùng phùng!
Chương 18
Đánh Bò Cạp
Mọi thức ăn vật dụng dọc đường của chúng tôi đều nằm gọn trong cái túi lúc nào cũng kè kè bên người. Lúc chia tay, đại đội truỏng Tăng đã đưa chúng tôi một ít tiền. Dựa vào chút tiền đó chúng tôi sống qua ngày. Nhưng khi lưu lạc đến làng Dung của Quý Châu, thì một xu cũng chẳng còn dính túi. Làng Dung (không biết tại sao lại viết như vậy, tôi không nhớ rõ) khá bề thế, đã đầy dân lánh nạn. Chúng tôi thuê được một ngôi nhà nhỏ để trú tạm. Ba tôi phát hiện ra một cửa hàng gần đó, thế là mẹ tôi lục đống áo quần, lấy đồ nữ trang còn lại, được giấu trong áo lót, đem ra bán dần. Nhưng rồi cũng chỉ đủ ăn quấy quá qua ngày. Thiếu thốn, kham khổ làm cho mẹ tôi đổ bệnh. Hồi đó, vùng Quý Châu - Quảng Tây đang có dịch sốt rét, bệnh đang lây lan khắp nơi. Thông thường bệnh sốt rét hay lên cơn cách nhật, nhưng ở Quý Châu, thì ngày nào cũng lên cơn, càng lúc càng dữ. Hồi đó, người đi lánh nạn bị chết vì sốt rét không phải ít. Người địa phương gọi bệnh này là "đánh bò cạp", ai nghe mấy tiếng này đều thất kinh, vì bệnh này có thể ủ vài năm hoặc vài chục năm, mà thuốc ký ninh, lại thuốc đặc trị bệnh này ở đây lại vô cùng quý hiếm. Đúng là lúc nhà dột lại đổ thêm mưa rào, mẹ tôi nhiễm sốt rét ác tính, ngã qụy không gượng dậy được. Nhà không tiền, không thuốc, không thức ăn trong lúc trước mắt tối tăm, tương lai mờ mịt. Những ngày tạm trú trong ngôi nhà nhỏ này thật thê lương ảm đạm quá đỗi. Mẹ tôi nằm trên chiếc ván, cả ngày chỉ rên với rên, thật xót gan, xót ruột, Ba tôi ngày ngày phải đem mớ đồ, mà chủ cửa hàng không chịu mua đi bán dạo khắp nơi, những hy vọng đổi được vài viên thuốc. Ngồi bên giường trông chừng mẹ, nghe từng tiếng rên của mẹ tôi càng lo lắng, càng hoảng sợ. Từ khi xa quê, tôi đã sớm hiểu thế nào là tử biệt, nên mỗi lần ba đi vắng, giao tôi canh chừng mẹ, tôi sợ vô cùng, tôi sợ bóng tối và tử thần vây chặt cả ngôi nhà. Một hôm, tôi canh chừng mẹ như thường lệ, thấy không khí trong nhà trở nên ngột ngạt, đầu tôi bắt đầu choáng váng, tim đập dồn dập, mồ hôi toát ra thấm ướt cả lưng áo. Mẹ trân trối nhìn tôi, thều thào nói qua nước mắt: - Con ơi! Nếu mẹ chết, các con làm sao? Tôi đứng không vững nữa, òa khóc thảm thiết, tiếng khóc đã làm mẹ tôi đang yếu phải bật dậy, đỡ tôi, vò đầu an ủi tôi: - Đừng sợ! Đừng sợ con! Mẹ nói chơi đó mà! Nhưng tôi cứ khóc mãi. Tôi run rẩy, rồi té xỉu. Khi tỉnh dậy, bác sĩ đã ở trong nhà, tôi thì nằm bên cạnh mẹ, tránh chườm khăn ướt, người nóng như lửa... Tôi đã bị lây bệnh sốt rét. Thế là hai mẹ còn cùng đổ quỵ trong căn nhà nhỏ ấy. Mùi vị "đánh bò cạp" hồi đó còn in sâu trong óc tôi cho đến bây giờ. Khi sốt rét thì sốt toát mồ hôi, còn rét thì rét tận xương tận tủy, cả người run cầm cập, đầu đau như búa bổ. Sáu tuổi đầu, tôi không sao chịu nổi, chỉ biết khóc, khóc như thể không bao giờ dứt. (Sau này, thứ bệnh đó còn dày vò tôi mấy năm nữa, khi dứt khi phát, mãi sau giải phóng trở về Thượng Hải, mới hoàn toàn dứt hẳn). Nhà năm miệng ăn, bệnh đổ hai người. Tiền trả công bác sĩ đã cạn, tiền thuê nhà trọ cũng thiếu chồng chất, lại thêm sợ mẹ con tôi chết trong nhà, chủ nhà không ngớt giục chúng tôi dời đi. Đến nông nỗi này, đúng là sơn cùng thủy tận rồi, nhà năm người, người nọ nhìn người kia, bưng mặt khóc. Hồi đó, cả nhà tôi, ngoài bộ quần áo mặc trên người, chẳng còn gì để bán. Xem chừng cả nhà phải kết liễu cuộc đời tại cái làng nhỏ bé, miệt núi non hiểm trở này. Mẹ tôi thường nói với ba về cái chết. Tôi bồi hồi nhớ lại cảnh đâm đầu xuống sông Đông An, sao hồi đó không chết đi cho rảnh nhỉ? Thế rồi, một chuyện lạ lùng nữa lại đến. Hôm ấy, như thường lệ, ba tôi lo bương chải bên ngoài tìm kế sinh nhai. Tôi và mẹ thì nằm chờ chết trong gian phòng tối tăm ngột ngạt. Bỗng cửa mở toang, ba tôi cùng một thanh niên lạ mặt bước vào, phấn khởi nói với mẹ tôi: - Mình xem! Có biết tôi gặp ai đây không? Cùng lúc, người thanh niên phục xuống trước giường, xúc động nói: - Bà giáo Trần, sao lại đến nông nỗi này? Nguyên người này là học trò của ba tôi, họ Túc ( tên là gì tôi không nhớ rõ). Ông Túc là trợ giáo Đại học Quảng Tay, đang sơ tán về vùng này. Ba tôi ra phố, mau sao gặp được ông Túc. Thấy mẹ con tôi sắp chết, còn hai em thì đói lả, không chút do dự, ông Túc vụt chạy đi mời bác sĩ đến rồi mua thuốc, mua thực phẩm và thanh toán cả tiền nhà trọ... Ông chạy đôn chạy đáo mọi nơi mọi chỗ lo cho cả nhà tôi, phải nói rằng tấm lòng đầy nhiệt tình, chân thật đó, thật là cảm động, cả nhà tôi, nhờ gặp được ông Túc mà thoát khỏi cơn hoạn nạn. Tình người lúc này thật cao quý làm sao! Ông Túc đã cứu chúng tôi thoát khỏi hiểm nghèo. Bệnh sốt rét của hai mẹ con tôi bị đẩy lùi. Nhưng chúng tôi cũng chẳng còn một xu dính túi, mà đường thì còn xa tít mù, làm sao đi đến nơi đến chốn? Để giải quyết việc làm sau này cho chúng tôi, ông Túc lại giới thiệu ba tôi với trường đại học Quảng Tây. Lúc đó, các giáo sư, giáo viên trường đại học Quảng Tây người thì bỏ việc, người thì sơ tán, lãnh đạo nhà trường đang lo lắng vì thiếu thầy. Dù trong chiến tranh, nhà trường vẫn kiên quyết duy trì việc học hành. Ban lãnh đạo trường cho rằng ba tôi là một nhân tài hiếm có nên nhận ba tôi. Đúng là chuyện nằm mơ cũng không có được ở lại cái địa phương nhỏ bé, chỉ vì mẹ con tôi bị ốm liệt giường mà ba tôi lại vào dạy ở đại học Quảng Tây. Nhờ có việc làm, có đồng lương, bao nỗi nhọc nhằn của chúng tôi đã được vơi đi rất nhiều. Thế là chúng tôi theo trường đại học Quảng Tây, tiếp tục rút về Quý Châu. Bước thứ nhất, đi thuyền gỗ theo dòng sông chảy xiết cặp triền núi hướng về Dung Giang của Quý Châu. Trên chiếc thuyền con ấy, chúng tôi phải đi mất hai mươi ngày, thường xuyên vật lộn với dòng nước hung hãn.
Chương 19
Hai Mươi Ngày trên Sông Dung
Chiếc thuyền chúng tôi ngồi chẳng khác nào chiếc thuyền câu của ngư ông bên sông trong tranh họa, chiếc thuyền thon thả, giừa có vòm che hình bán nguyệt đan bằng tre nứa. Hai đầu vòm che là đầu thuyền và đuôi thuyền. Dưới vòm là khoang thuyền, trong tranh, loại thuyền này rất nên thơ, nhưng nếu như chúng tôi phải ngồi trên chiếc thuyền nhỏ này, đi ngược dòng nước xiết ròng rã hai mươi ngày, thì sẽ thấy chẳng nên thơ một chút nào! Đại học Quảng Tay phải thuê tất cả hơn hai mươi chiếc thuyền như vậy, tổ chức thành một đội thuyền. Cứ hai hộ gia đình ngồi chung một chiếc. Đương nhiên là chúng tôi được phân đi cùng với một gia đình khác. Giữa khoang thuyền treo một tấm rèm làm vách chắn. Nửa khoang thuyền được bao lớn? Tôi nhớ không sai, thì bằng chiếc bàn vuông không hơn không kém. Năm người nhà tôi ngồi quanh đó, lấy chăn bông đắp lên chân, nói nói cười cười, rồi cũng chịu được tất. Ban đêm, dù xoay trở cách nào, năm người cũng không nằm được, đành phải có hai người thay phiên nhau nằm ở mũi thuyền, còn bên trong chít ít phải có đầu hoặc chân người thò ra ngoài vòm thuyền. Trời tạnh thì yên ổn cả, còn khi mưa ập đến, thì thật thảm hại vô cùng. Khi có sóng to, nước sông cũng ập vào ướt cả áo quần, lạnh buốt xương. Tôi thường được luân phiên ra nằm ở mũi thuyền ( có thể ba tôi cho rằng tôi lớn hơn các em, có sức chịu đựng tốt hơn). Dù mưa xối xả, nước sông tạt vào, sương như phủ trên người lạnh buốt, tôi vẫn nằm ngủ ngon lành. Chịu đựng lâu như vậy mà không đau ốm gì cũng có thể coi là một thành tích hiếm có. Diện tích khoang thuyền quá chật chội, chúng tôi phải nấu ăn trên mui thuyền, bếp núc càng đơn giản càng tốt. Bữa sáng ăn cháo với ít đường là xong, cơm trưa, cơm tối thì có món mỡ lợn xào với muối dùng qua bữa. Cứ cách hai ngày mới có một bữa ăn tươm tất, ấy là thêm mấy trái ớt và đậu. Bình ớt nho nhỏ kia thật quý giá, phải phân phối hẳn hoi, mỗi người chỉ được chia vài quả. Tôi nhớ chỉ với mấy trái ớt ấy, tôi ăn còn ngon miệng hơn sơn hào hải vị, và khi vào miệng phải để thật lâu cho thấm mới nuốt. Có một hôm, đội thuyền dừng lại, gặp lúc dân nấu bắp tươi đem bán, chúng tôi thèm không chịu được. Thực tình, chúng tôi nghèo đến mức không hưởng nổi những thứ ấy, nhưng rồi ba mẹ cũng đành bấm bụng mua một trái, cả nhà chia nhau ăn như chia từng hạt ngọc. Nếu những trái ớt kia là sơn hào hải vị thì có thể ví trái bắp này là nem rồng chả phượng! Chiếc thuyền chúng tôi do hai người lái, người bố độ ba mươi tuổi, người con khoảng trên dưới mười tuổi, vẫn là một đứa con nít, cho nên chỉ coi như một người rưỡi. Thuyền đầy ắp người, lộ trình xa tít mà chỉ có một người rưỡi lái, rồi đây sẽ ra sao khó mà biết được. Thuyền tiếp tục đi, tình cảnh còn tồi tệ hơn chúng tôi nghĩ nhiều. Sông Dung nước chảy xiết, hai bên bờ vách núi dựng đứng, lòng sông đầy đá ngầm, chốc chốc lại có dòng xoáy, thật vô cùng nguy hiểm. Thuyền gia đình chúng tôi đang ngồi không dùng động lực, cũng không có buồm, toàn dùng sức lực của hai bố con chèo chống bằng sào và bằng mái chèo, vật lộn với nước sông chảy xiết nên đi rất chậm, và chỉ có thể đi ban ngày. Để khỏi bị nước cuốn đi, hơn hai chục chiến thuyền đều buộc liền nhau. Nếu chỗ đậu không lên bờ được, mọi người đành chịu qua đêm trên thuyền, nếu dừng tại trạm lớn, có bến thì có thể lên bờ, đó là niềm vui sướng lớn, vì người ta có thể bổ sung chút đỉnh vật dụng hoặc qua lại cử động chân tay cho đỡ mỏi. Đương nhiên, trẻ con chỉ được phép chơi bên bờ, không được đi xa. Còn tôi, thích nhất là lượm các loại đá cuội đủ màu sắc bên bờ sông. Có một hôm, tôi lượm được mấy cục đá trắng muốt rất dễ thương, người ta bảo tôi đó là đá lấy lửa, làm tôi mừng lắm. Tôi thường ngồi ở mui thuyền lấy đá ghè vào nhau chơi, tia lửa xẹt như hoa cà trông rất đẹp, thích ơi là thích. Nhờ trò chơi ấy mà tôi đã vơi hết nỗi buồn những ngày tù túng. Một hôm, đang ngồi ghè đá lửa ở mui, thuyền bỗng chòng chành làm tôi té nhào xuống sông, nước chảy xiết, tôi suýt chết đuối, cũng may là bác lái thuyền lanh tay lẹ mắt lại có tài bơi lội nên cứu được tôi. Tôi được cứu sống nhưng mấy cục đá lửa quý giá thì mất tiêu làm tôi buồn lắm. Không hiểu sao, lúc đó tôi cảm thấy những cục đá lửa đó lại quý hơn mạng sống của mình! Tuổi thơ của tôi chẳng có đồ chơi, nhưng đến tạn bây giờ tôi hãy còn nhớ rõ mồn một lá cờ đuôi nheo và những hòn đá lửa của tôi! Sau này, tôi lại rớt xuống nước mấy lần, vì mỗi khi giải quyết "đại sự, tiểu sự", chúng tôi đều phải ngồi ở mạn thuyền, cơ hội té xuống sông rất nhiều. Có điều, bác lái thuyền rất cảnh giác, lần nào cũng được bác cứu lên, riết rồi mọi người đâm ra ỉ lại. Điều không may lại đến, người bảo vệ sinh mệnh chúng tôi là bác lái đò lịch lãm, trẻ khỏe kia bị ốm do bệnh sốt rét tái phát. Anh hùng chỉ có sợ bệnh quật ngã, một khi đã "đánh bò cạp" rồi, thì dù có xương đồng da sắt đi chăng nữa, cũng không chịu nổi. Bác ta nghiến răng chịu đựng, nhưng việc chèo thuyền, bẻ lái bắt đầu do con bác ta đảm nhận, như vậy có nghĩa tính mệnh của hai gia đình chúng tôi đều nằm trong tay của một chú bé. Tốc độ thuyền càng lúc càng chậm, xa dần toàn đội, rồi rớt lại, bồng bền trên dòng nước chảy xiết. Được mỗi người một tay giúp sức, thuyền miễn cưỡng cặp vào bờ để bác lái đò lên bờ đi mua thuốc. Lúc đó, người chủ của chiếc thuyền này là một cậu bé chưa đầy mười tuổi. Tất cả chúng tôi phó thác sinh mạng của mình cho cậu ta Nước chảy quá mạnh làm đứt dây neo, thuyền bị cuốn đi. Cậu bé dùng hết sức mình tìm cách giữ thuyền lại, nhưng sức cậu có hạn, đến lúc không còn cách nào khác, cậu đành đưa hai tay nắm chặt lấy bụi cây bên bờ, mọi người trên thuyền cũng vớ gì bám nấy, để thoát khỏi tai nạn. Đang khi sức cùng lực tận thì người bố đi mua thuốc trở về, sự xuất hiện của ông chẳng khác nào một vị cứu tinh. Dựa vào kinh nghiệm và kỹ xảo của mình, ông đã giữ thuyền lại một cách chắc chắn. Ngày thứ hai, chúng tôi đuổi kịp đội thuyền, không ai tin được là chúng tôi có thể trở về cùng với mọi người. Đã có hai chiếc thuyền trong đội mất hút tăm hơi. Qua lần đại nạn ấy, chung tôi càng thấm thía hơn nỗi nhọc nhằn trong cuộc sống. Chiếc thuyền nhỏ ấy đã làm tăng thêm niềm tin trong lòng chúng tôi, không như hồi nào ai cũng chỉ hâm mộ những chiếc thuyền lớn. Đúng rồi, dân lánh nạn nghèo mạt rệp như chúng tôi thì đi thuyền nhỏ, chỉ có quý phú ông mới bao nổi thuyền bầu khoang rộng để đi cho thoải mái hoặc thuyền này phải có mấy chục người kéo trên bờ, lại thêm hai hàng phu thuyền chèo chống, đẩy thuyền đi tới. Tôi còn nhớ rõ dáng lom khom của những người kéo thuyền cố sức rấn tới từng bước, dây thừng hằn sâu vào từng thớ thịt. Những tiếng hô nặng nhọc, đơn điệu, trùng lắp, cứ lặp đi lặp lại. Nó đâu phải lời ca tiếng hát mượt mà mà là tiếng thét gào bi tráng để giành sự sống. Bây giờ tôi vẫn còn nhớ bài ca "Người kéo thuyền" tôi thuộc lòng thời học trụng học: Tiến lên, nào tiến lên Mọi người nắm chắc dây. Mắt không rời người lái Chí kiên cường không lay. Mặc sóng đồi mưa sa Ta cứ ung dung bước. Đông Tây rồi Nam Bắc Chân trời nào cũng qua. Mỗi khi nghe bài hát này vút lên, với tiếng nhạc trỗi dậy trầm hùng, với điệp khúc lập đi lặp lại "mặc sóng đồi mưa sa, ta cứ ung dung bước".... Thật khác một trời một vực cái cảnh chính mắt tôi thấy hồi nhỏ, những người kéo thuyền tiến lên nặng nề, chậm chạp, chẳng ung dung chút nào. Tôi cảm thấy, dù cho mình chịu khổ một chút ngồi trên chiếc thuyền con, còn hơn là ngồi trong thuyền bầu thoải mái mà người khác phải thống khổ vì mình. Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến đích - Dung Giang. Dung Giang cũng chưa phải là đích cuối cùng của chúng tôi, mà đích cuối cùng ấy phải là Trùng Khánh. Từ Dung Giang đến Trùng Khánh còn là đoạn đường xa vời vợi. Đến Dung Giang rồi, trường Đại học Quảng Tây lại gặp khó khăn về tài chính, không có tiền phát lương, và cũng không cách gì đưa toàn đội tiếp tục sơ tán sâu vào nội địa. Thế là mỗi người chia nhau mỗi ngã, vô hình chung như giải tán trường, ba tôi lại thất nghiệp, nhưng cuộc sống thường nhựt của chúng tôi cứ phải tiếp tục, cuộc hành trình xa vời vợi cũng không thể dừng lại được. Lại đi.