watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
14:13:2729/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Quỳnh Dao > Chuyện Đời Tôi - Trang 5
Chỉ mục bài viết
Chuyện Đời Tôi
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tất cả các trang
Trang 5 trong tổng số 10

Chương 11

Đại Phong Ảo


Chúng tôi bắt đầu vượt qua Đại Phong Ảo!
Đại Phong Ảo là tên một ngọn núi. Tên gọi đó đã để lại trong ký ức tôi một ấn tượng vô  cùng sâu sắc.
Hồi đó, chúng tôi đã có mặt ở ranh giới Hồ Nam để sửa soạn tiến quân về hướng Quảng  Tây. Có mấy con đường lớn có thể đi thoải mái, nhưng lộ trình xa, và quân Nhật có khả năng  thọc vào đánh phá từng chặng, rất nguy hiểm. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng bản đồ, đại đội  trưởng Tăng chọn phương án vượt qua "Đại Phong Ảo" để đến Quảng Tây.
Quân đội tuy có người dẫn đường nhưng không có kinh nghiệm vượt qua ngọn núi này.  Người địa phương cho biết đây là ngọn núi kỳ quái, hoang vu, đầy rắn độc và thú dữ, nói cho  cùng, là một ngọn núi chưa từng ai vượt qua.
Nhưng đại đội trưởng Tăng đã quyết định rồi thì không thay đổi nữa. Ông tập trung hết  ngựa lại, dẫn đầu đội ngựa đi trước mở đường, bộ binh và khí giới theo sau. Mẹ tôi cũng  nhường lại con ngựa đang cưỡi cho một binh sĩ giỏi ngựa đi lên mở đường. Còn tôi, tôi vẫn  ngồi trên lưng ngựa cùng đại đội trưởng Tăng, con ngựa đi đầu tiên, tôi thấy kiêu hãnh và  phấn khởi hẳn lên, vì không như các em tôi vẫn ngồi khoanh trong thúng. Chẳng những ngồi  đàng hoàng, hay chân duỗi thẳng, mà còn là người đi đầu để mở đường nữa chứ!
Nhưng vừa mới lên núi, niềm kiêu hãnh và sự phấn chấn của tôi trong chốc lát đã tan  thành mây khói. Núi mọc đầy cỏ dại cao hơn đầu người. Đại đội trưởng Tăng và các kỵ sĩ đều  mặc quần dài, chân đi ủng, còn tôi mặc quần cụt, hai chân phơi trần, bị cỏ cứa rớm máu  không biết bao nhiêu chỗ, đại đội trưởng Tăng lại lo dẫn đường, không hề để tâm đến cái  chuyện vặt vãnh như vậy. Tôi đau đến ứa nước mắt nhưng vẫn cắn răng chịu đựng, không hé  nửa lời, người cưỡi trên lưng ngựa không được rơi nước mắt.
Xuất phát từ tờ mờ sáng, tuy nghe nói đường lên núi chỉ có bảy dặm, mà sao đi mấy giờ liền vẫn chưa leo đến đỉnh. Trời nóng như đổ lửa, mồ hôi đổ nhễ nhại, quân phục các chú bộ đội ướt đẫm. Trên núi đầy đá dăm và gai góc, không có nguồn nước. Nước trong bình tông  mọi người đem theo bên mình đều đã uống cạn. Đường núi càng lúc càng gập ghềnh, hiểm  trở, có một binh sĩ đã bị ngã vì say nắng... làm xao động cả hàng quân. Lúc bấy giờ, đại đội  trưởng Tăng mới hạ lệnh dừng chân nghỉ tạm.
Ông ôm tôi xuống ngựa, mới ngạc nhiên phát hiện những vết thương cào sướt hai giò của  tôi. Ông lo lắng hỏi:
- Bị cứa rách thế này sao cháu không nói năng gì cả?
Ông không thể hiểu được rằng, trong con mắt tôi lúc đó, ông chẳng khác nào một vị thần.  Tôi làm sao lại có thể rên rỉ bên cạnh "thần" được? Ông gọi y sĩ đến bôi thuốc, rồi lấy bình  tông nước đưa tôi uống. Bình tông nước của ông còn đầy ắp, thì ra dọc đường các binh sĩ đều  nốc cạn nước chỉ mình ông chưa uống ngụm nào. Tôi uống hai hớp, nghĩ rằng lúc này nước  quí hơn tất cả, nên không dám uống nhiều, rồi trả bình tông lại cho ông. Đại đội trưởng Tăng  không uống, lại đưa bình tông cho ba, mẹ và hai em trai tôi, mọi người cũng chỉ uống có vài  hớp. Ông lại đưa bình tông cho người lính bị say nắng, đến khi bình tông được trả lại thì  chẳng còn giọt nước nào!
Đại đội trưởng Tăng, người sĩ quan lạ lùng đó đã để lại trong tôi ấn tượng thật sâu sắc.  Sau này những người đàn ông được tôi sùng bái, chính là những mẫu người như đại đội  trưởng Tăng. Mãi nhiều năm về sau tôi viết "Sáu Giấc Mộng", trong đó có chương "Lưu vong  khúc" chính là viết về ông, người đại đội trưởng tuyệt vời này.
Xin trở lại cuộc hành trình đầy gian khổ.
Càng lên cao, núi càng dốc đứng, lại bị những tảng đá lớn chắn ngang phải vừa bò, vừa  trèo, ngựa leo càng vất vả. Binh sĩ không ai kêu khó nhưng đã thấm mệt. Đại đội trưởng Tăng  đã xuống ngựa, dắt bộ, trên lưng ngựa chỉ còn lại mình tôi và một ít hành lý. Lúc đó, có một  công binh vai mang binh khí, bước đi chênh choạng như sắp ngã, đại đội trưởng Tăng lặng lẽ đến bên người lính nọ, đỡ lấy binh khí, ngoái cổ nhìn lại con ngựa của mình, rồi không hiểu  sao ông mang luôn số binh khí đó trên vai.
Xế chiều, chúng tôi đi đến đỉnh núi.
Đứng ở chỗ cao nhất của ngọn núi nhìn xuống, ai nấy đều lặng người giây lát và liền theo  đó rộ lên tiếng reo hò vui sướng.
Thì ra, dưới chân núi đã là Quảng Tây. Chỉ có ai từng nhìn thấy "sơn thủy" Quảng Tây,  mới hiểu hết ý nghĩa của câu "Quế lâm sơn thủy nhất thiên hạ". Ngọn núi "Đại Phong Ảo" với  đất liền thực sự là hai thế giới riêng biệt.
Dưới núi, bao la trải dài những tảng đá hình thù quái dị, dựng thẳng đứng, tảng thì sắc  nhọn, tảng thì tròn như quả trứng, lô nhô, ẩn hiện trong thảm cỏ xanh rờn, vừa kỳ dị vừa đẹp  mắt. Những binh sĩ reo hò không phải vì phong cảnh "nhất thiên hạ", mà là nước! Đã bao  ngày không gặp nước! Mọi người đang khát cháy họng. Thì ra, giữa những tảng đá lớn kia là  giòng suối ngoằn nghoèo lượn quanh chân núi, tiếng nước róc rách, rì rào như mời gọi mọi  người.
Lúc này, cả quân ngủ như lên cơn điên!
Quên hết kỷ luật quân đội, quên hết nhọc nhằn, vất vả, cả đoàn quân vừa hò reo, vừa lao  xuống chân núi. Lần đầu tiên đại đội trưởng Tăng không ràng buộc binh lính thuộc quyền của  mình, ông để mặc cho họ lăn ào xuống núi, lao vào dòng nước.
Chẳng hiểu sao, tôi cũng lao xuống dòng nước. Ba, mẹ, Kỳ Lân, em bé trai, cả nhà đều ở dước nước. Chúng tôi tạt nước, té nước, la ré ầm ĩ. Từ khi xa nhà, đây là lần đầu cả nhà cười  thỏa thích. Nước sông vừa trong vừa mát, thật dễ chịu, ai nấy đều trầm mình ướt như chuột  lột.
Đêm ấy, chúng tôi dựng trại bên dòng suối. Đêm ấy, trời đầy trăng sao, non nước hữu  tình. Đêm ấy, tất cả đều rất đẹp, nhưng rồi sau đêm ấy thì sao? 

Chương 12

Em Trai Mất Tích


Ngày hôm sau, lại bắt đầu hành quân.
Lính của đại đội trưởng Tăng không phải là lính chiến đấu, mà là lính hậu cần, trang bị nặng nề, sức người không lại, người ngựa mệt nhoài qua những con đường gập ghềnh, khúc  khuỷu. Mục tiêu hôm ấy là thành Đông An, thuộc biên giới Quảng Tây, nhưng mới đến Bạch  Nha một thị trấn nhỏ cách Đông An còn xa thì ai nấy đều mệt rã rời, phải lê bước một, trời lại  tối sầm, mọi người phải mò mẫm mà đi. Thế là, đại đội trưởng Tăng hạ lệnh đóng quân bên  ngoài thị trấn.
Để khỏi phiền dân và cũng tránh cho binh sĩ không bị kỷ luật bởi sự cám dỗ vật chất, đại  đội trưởng Tăng không cho lính vào nội thành Bạch Nha. Nhớ lại, có một đêm chúng tôi đóng  quân trong một thị trấn nhỏ, nửa đêm bị hai phát súng đánh thức, ai nấy tưởng là quân Nhật  đuổi theo sát hại. Về sau mới biết đó là hai phát súng do đại đội trưởng Tăng bắn một binh sĩ dưới quyền vì người đó đã bẻ của dân một cây mía, ông phát hiện và bắn ngay tại chỗ. Vì sự việc đó, ba tôi bất mãn sâu sắc, ông kháng nghị với đại đội trưởng Tăng, sao lại coi mạng  người rẻ rúng hơn cây mía! Xử phạt như vậy có quá nặng không? Đại đội trưởng Tăng vẫn  điềm nhiên nói, nếu không giữ nghiêm kỷ luật, thì binh lính đi đến đâu phá phách đến đó như những đàn châu chấu, sẽ mang lại đại họa cho nhân dân. Thử hỏi bọn Nhật dày xéo nhân dân  còn chưa đủ sao, mà lại dung dưỡng cho bộ đội của chúng ta phá phách của dân nữa? Chặt  cây mía là việc nhỏ, nhưng đây là kỷ luật, một qui định không được phép vi phạm!
Đại đội trưởng Tăng quả là một con người lạ lùng, hết sức lạ lùng.
Trở lại đêm đóng quân ở Bạch Nha. Chỉ mới loáng các anh nuôi đã nấu xong một nồi  cháo vừa nóng vừa thơm, lại mời chúng tôi ăn. Mẹ tôi múc cháo rồi đi gọi các em tôi, nhưng  không thấy chúng ở đâu. Mẹ liền gọi to tên từng đứa, nhưng không có đứa nào đáp lại:
- Kỳ Lân ơi, bé oi! Kỳ Lân ơi, bé ơi! Mẹ càng gào, càng hoảng hốt, cuống cuồng. Kỳ Lân  ơi, bé ơi! Các con ở đâu? Hai người gánh đồ, người gánh đồ, hai người gánh đồ đâu cả rồi?  Các con tôi nữa? Các con ở đâu?...
Ba tôi hoảng loạn, vừa réo gọi, vừa hớt hải chạy tìm khắp nơi nhưng hai em vẫn biệt tăm,  đồ lề và người gánh đồ cũng mất dạng.
Cả đoàn quân đều nháo nhác, nghe động, đại đội trưởng Tăng cũng lao tới. Vì đội ngũ hành quân dài quá, hai người gánh đồ thường đi lẫn vào hàng, khi đi trước, lúc tụt sau, đâu  phải lúc nào cũng ở trong tầm quan sát của ba mẹ tôi, hơn nữa ba mẹ tôi đã rất tín nhiệm họ,  lại có quân đội bảo vệ, không sợ họ làm điều càn quấy. Nhưng bây giờ tất cả, tất cả, từ người  gánh, hành lý, đôi thúng là chỗ ngồi của hai em trai tôi đều không thấy nữa!
Ba mẹ tôi như phát điên, đến từng người lính hỏi:
- Có thấy người gánh đồ không? Có thấy các con tôi không?
Đại đội trưởng Tăng lập tức cử hai binh sĩ và toàn đội trinh sát đi lùng sục khắp các ngã  đường, nhưng đều về báo là sau khi nhổ trại thì không thấy họ đâu nữa.
Mấy em tôi lạc mất rồi! Ba mẹ tôi như điên như dại.
Đừng có hoảng thế! Hãy bình tĩnh! Đại đội trưởng Tăng trấn tỉnh. Mục tiêu của chúng ta  là Đông An nhưng nửa chừng bị dừng lại ở đây, nhất định mấy người ấy đi nhanh đến Đông
An trước, biết đâu họ đang tìm chúng ta ở Đông An! Đừng hốt hoảng, ngày mai chúng ta đi  Đông An sớm một chút, bảo đảm sẽ tìm được!
Đại đội trưởng Tăng quả là có sức mạnh lạ thường để trấn an lòng người. Càng nghe, ba  mẹ tôi càng thấy có lý, tuy vậy, đứng ngồi không yên, không làm sao chớp mắt được, chỉ mong sao trời mau sáng.
Đêm ấy dài vô tận, ba mẹ và tôi suốt đêm không ngủ, mẹ tôi khóc mãi, cứ trách mình tại  sao không trong chừng hai con, còn ba thì không ngớt an ủi me, hai mí mắt cũng đỏ hoe. Tôi  nghiến răng, nín lặng, chỉ mong trời mau sáng! Các em tôi nhất định đang ở trong thành Đông  An, nhất định ở Đông An!
Trông mãi rồi trời cũng sáng, bộ đội nhổ trại lên đường. Lại đến Đông An.
Vừa vào Đông An, ba mẹ va đại đội trưởng Tăng đều đứng lặng.
Thì ra, Đông An là một thành phố rất lớn, rất đông dân. Nhưng theo chủ trương của trên,  thì Đông An được chuẩn bị rút bỏ, cho nên nhân dân trong thành phố được chính phủ sắp đặt  cho rút trước toàn bộ. Bây giờ chúng tôi vào thành Đông An không có dân cư, nhà nhà đều  đóng cửa. Trong thành toàn là quân đội của chính phủ, các sư đoàn, tiểu đoàn, đại đội đều có.  Thành phố trở thành một trại lính lớn. Đã như vậy, biết tìm đâu ra người gánh đồ? Và hai đứa  con nít giữa thành phố rộng lớn này.
Đại đội trưởng Tăng cho mấy binh sĩ đi khắp thành Đông An để tìm, nhưng không ai,  không một ai tìm thấy người gánh đồ và hai cháu bé.
Ba mẹ tôi đau đớn đến tuyệt vọng. Bình tĩnh vững vàng như đại đội trưởng Tăng cũng đã  bắt đầu lo lắng, dao động. Hay là bọn nhỏ còn ở Bạch Nha chăng. Từ núi Đại Phong Ảo đến  Bạch Nha đều đi đường nhỏ, nếu như người gánh đó đi đường lớn, hoặc là nghỉ chân giữa  đường, thì có thể họ đến Bạch Nha đến Đông An còn có một con đường nào khác, và do vậy  có khả năng họ còn nằm ở dọc đường. Đại đội trưởng Tăng vừa giải thích và an ủi chúng tôi  xong lập tức cử hai tốp ngựa phân làm hai cánh hướng về Bạch Nha để tìm.
Tốp kỵ binh thứ nhất quay về báo không tìm ra tông tích.
Chúng tôi dồn tất cả hy vọng vào tốp thứ hai. Thời gian chờ đợi hết sức nặng nề. Tốp kỵ binh thứ hai do trung đội trưởng Vương chỉ huy đã quay về báo cáo:
- Chúng tôi không tìm thấy các cháu nhà họ Trần, nhưng lại gặp một toán lính Nhật.  Chúng nó bắn chúng tôi, chúng tôi cũng bắn trả rồi quay nhanh về đây báo cáo.
Nghe nói, để bảo tồn thực lực kháng chiến, chính phủ không đánh lẻ tẻ, quân đội phải tuân  lệnh rút về các nơi. Đông An không phải là chiến trường, nên các cánh quân đang đồn trú tại  đây đều gấp rút lên đường hướng về mục tiêu của mình. Cánh quân hậu cần do đại đội trưởng  Tăng phụ trách phải bám theo họ.
Khi nhìn các cánh quân đã rút đi gần hết, đại đội trưởng Tăng không thể do dự được nữa.  Ông ra lệnh cho bộ đội của mình lên đường, cúi xuống ôm vội tôi lên ngựa, rồi gọi lớn ba mẹ tôi:
- Ông Trần ơi, tuổi còn trẻ, sợ gì không có con? Mạng người là quí, đi nhanh thôi! Ông  vừa nói vừa thúc ngựa đi. Có lẽ ông nghĩ rằng, chỉ cần mang tôi đi, thì ba me tôi đành phải đi  theo!
Những ngày ấy, tôi cũng ngồi trên ngựa với đại đội trưởng Tăng, và cũng chính vì cùng đi  ngựa theo ông nên tôi không bị mất tích như hai em trai. Chỗ ngồi trên lưng ngựa ông Tăng  thì tôi quen quá rồi, không hiểu sao lần này tôi thấy rụng rời cả người khi nhìn thấy bộ tịch  đáng thương của be mẹ tôi, hai người đứng ngay bên đường đi như hai khúc gỗ, không động  đậy. Lòng tôi đau như xé, tôi không sao ngồi vững trên lưng ngựa đươc. Tôi thét lên:
- Mẹ ơi!
Tôi giẫy giụa nhảy xuống ngựa, trong lúc đại đội trưởng Tăng chưa kịp kéo tôi lại, thì tôi  đã tuột khỏi lưng ngựa, quay đầu lại chỉ còn nghe tiếng hí dài của con tuấn mã đang mang đại  đội trưởng Tăng vọt nhanh lên trước như một mũi tên bay. Tôi may mắn không bị ngựa dẫm  chết, thật là lạ!
Tôi lồm còm bò dậy, lê mình đến bên mẹ.
Mẹ tôi đưa hai tay ôm chặt tôi vào lòng, ba tôi đứng như trời trồng một bên. Ba người cứ đứng vậy như kẻ mất hồn nhìn từng tốp, từng tốp quân chạy vụt qua trước mặt.
Mọi việc xảy ra nhanh quá, đại đội trưởng Tăng đã mất hút, bộ đội đã đi hết, chỉ có đất bụi  mịt mù cuốn bay theo gió.
Thành Đông An bề thế là vậy, trong bỗng chốc trở nên trống rỗng. Trong thành chỉ còn lại  ba chúng tôi. Bốn bề im lìm như chết. Cửa các nhà mở tung, rương hòm quần áo đồ đạc vứt  bừa bãi trên đường phố. Mỗi lần có gió, gió tung lên trời là cây, giấy vụn và cát bụi mịt mù.  Nhưng chúng tôi chẳng còn bụng dạ nào để tâm đến cảnh đó, chúng tôi chỉ nghĩ về hai đứa  em trai giờ này không biết lưu lạc phương nào! 

Chương 13

Đâm Đầu Xuống Sông


Tôi không nhớ chúng tôi đã đứng như vậy ở Đông An mất bao lâu, để sau đó lại bắt đầu  bước chân lưu lạc. Ba mẹ tôi dắt tay tôi mỗi người mỗi bên như cái xác không hồn ra khỏi  thành phố.
Lúc tuột khỏi lưng ngựa, tôi đánh rơi đôi giày, nhưng còn bụng dạ đâu mà nhớ tới giầy  với dép. Ra khỏi thành, bước trên đường đầy xỉ than và đá cuội, đôi bàn chân trần của tôi bị xót đau đến buốt lưng, nhưng tôi đành cắn răng chịu đựng, không hề kêu than. Nhìn ba mẹ tôi  thấy xót xa quá, tuy còn nhỏ dại, nhưng tôi đã hiểu thế nào là nỗi quạnh hiu, đau xót và tuyệt  vọng của con người. Ngoài thành có một con sông gọi là sông Đông An, chiếc cầu bắc qua đó  cũng gọi là cầu Đông An.
Lên đến giữa cầu, mẹ tôi đột ngột dừng lại, tựa mình bên lan can nhìn chăm chăm xuống  dòng nước đang chảy xiết. Chưa kịp hiểu mẹ muốn gì, tôi đã thấy ba tôi nhanh như cắt lao tới,  ôm chặt lấy mẹ tôi, nghẹn ngào:
- Đừng! Đừng em!
- Còn đường nào đâu mà đừng mình ơi? Mẹ tôi khóc tức tưởi. Hai đứa con đã mất rồi!  Toàn bộ hành lý, áo quần mất cả rồi! Phượng Hoàng đến đôi giày cũng không có. Đại đội  trưởng Tăng cũng đi rồi, quân Nhật sắp tràn tới nơi rồi. Con mất rồi, lòng tôi thực sự đã chết,  giặc Nhật đuổi kịp đằng nào chúng ta cũng chết, nhưng lại là cái chết nhơ nhớp trong tay giặc  Nhật, chi bằng chết đàng hoàng chính trong vòng tay của chúng ta!
Ba tôi nhìn trời thở dài.
- Được, thì chết! Ba người cùng chết chung vậy!
Mẹ tôi quỳ xuống, nói với tôi:
- Phượng Hoàng ơi, con có muốn chết chung với ba mẹ không con?
Lúc đó, tôi mới có sáu tuổi, chưa hiểu hết ý nghĩa thật sự của cái chết, tôi đi theo ba mẹ,  ba mẹ muốn chết, lý nào tôi lại làm khác. Tôi chỉ cảm thấy xốn xang, nước mắt ràn rụa, tôi  nhớ Kỳ Lân, nhớ em trai, tôi biết chúng nó đã mất, cả nhà không thể nào gặp lại.
Tôi trả lời mẹ:
- Con muốn!
Nói xong, tôi khóc.
Mẹ tôi cũng khóc.
Ba tôi cũng khóc.
Chúng tôi vừa khóc, vừa đi xuống cầu, đến chỗ lùm cỏ bên bờ, tôi thấy ba tôi chăm chú  nhìn mẹ, tôi, rồi ôm nhau hôn thắm thiết, sau đó hai người chọn một chỗ dốc bên bờ cùng lao  xuống sông.
Nước sông có lẽ không sâu lắm, vì tôi thấy ba cứ dìm đầu mẹ xuống nước, tôi không hiểu  sao ba tôi lại làm như thế. Mẹ tôi không cựa quậy nữa, ba tôi cũng không cựa quậy nữa, nước  sông không nhận chìm ba mẹ được, nhưng ba mẹ cũng đã nằm yên rồi.
Tôi bắt đầu sốt ruột, tôi không biết ba tôi đã chết chưa, tôi đã nói là muốn chết, mà chết là  phải thôi, nhưng tôi không biết cách chết như thế nào. Ba mẹ nói muốn chết thế là ôm nhau  lao xuống sông, thì ra, muốn chết là phải xuống sông.
Do đó, tôi lần từng bước đi xuống sông. Nước chảy rất xiết, người tôi cứ lắc lư, lảo đảo  nhưng tôi cũng không biết tại sao lại còn giữ được thăng bằng. Nước sông dần dần ngập giò,  ngay lưng quần, và khi nước lút qua bụng, tôi không sao đứng được nữa, liền ngồi xuống.  Vừa mới ngồi, nước sông liền ngập đến cổ, tôi hốt hoảng, kinh sợ vô cùng, bản năng buộc tôi  khóc, vừa khóc vừa kêu:
- Mẹ ơi! Ba ơi! Mẹ ơi! Ba ơi!...
Trong nước mắt mơ màng, tôi như mường tượng thấy mẹ tôi đang động đậy, rồi lại cảm  thấy tay mẹ tôi mò lấy chân tôi dưới đáy nước.
Thì ra, mẹ tôi chưa chết, chỉ mới bị nước nhấn chìm, thoi thóp, rồi như bị tiếng khóc thét  xé lòng của tôi làm cho tỉnh lại. Bản năng người mẹ bảo vệ con, tay mẹ sờ mó dưới đáy nước,  may mắn với được chân tôi. Tức khắc, mẹ tôi tỉnh dậy, tỉnh dậy thực sự.
Tôi thấy mẹ tôi giẫy giụa, và chồm dậy khỏi mặt nước, vội kéo ba tôi. Ba tôi cũng không  chết, nên lồm cồm ngồi dậy rồi nhìn mẹ tôi trân trối. Mẹ khóc òa lên, nói nghẹn ngào:
- Không thể chết được! Chúng mình chết thì Phượng Hoàng làm sao?
Câu nói làm tôi càng khóc dữ. Rồi ba người ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở, hết khóc, ba  mẹ quyết định không chết nữa.
Ba người lóp ngóp bò lên bờ, đứng vào thời khắc ngày hôm ấy, nắng lên rất đẹp. Chúng  tôi bị ướt sũng nước, nước chảy ròng ròng từ đầu đến áo quần. Bây giờ ngoài quần áo ướt ra,  ba người chẳng có một thứ gì trên tay. Từ khi xa quê hương đến giờ, đây là lần đầu tiên chúng  tôi chỉ có hai bàn tay trắng. Đúng là chúng tôi rửa trắng tay từ trong nước. Dưới nắng chói  chang, chúng tôi bước vội về phía trước. Vì tôi không có giày, ba tôi thương lắm, thường  cõng tôi lên lưng. Tình cảm nồng nàn như lúc đó thật hiếm có đối với tôi, nhất là khi hai đứa  em trai thân yêu không còn nữa!
Ba mẹ tôi lặng lẽ bước đi, dáng vẻ trầm lặng nhưng lại thanh thản bởi ba mẹ tôi thật sự chẳng còn chút gánh nặng nào, chẳng còn biết ngại ngùng, sợ hãi là gì. Bất chấp tất cả (sự thực thì, rất nhiều năm sau này, ba mẹ tôi hay nhắc lại cái lần chết đi sống lại đó, coi đó là  gợn sóng bất chợt trong biển đời bao la, hình như sự sống và cái chết, cái được và cái mất đều  do trời định sẵn tất cả)
Chúng tôi sống lại như vậy đó.

HOMECHAT
1 | 1 | 174
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com