watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:26:1828/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Nữ Chúa Hồ Ba Bể - Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh - Trang 9
Chỉ mục bài viết
Nữ Chúa Hồ Ba Bể - Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 19


Chương 2-4

Cả hai nàng chúa hồ nhìn xuống dưới, không nói nửa lời.
Lúc này, chàng trai Kinh đứng cạnh viên đội dõng Đầu Lâu. Viên này gãi râu, nhe răng cười, ghé tai chàng bảo nhỏ:
- Phải bạn là con trai quan tuần phủ Cao Bằng? À! Tôi có được gặp quan tuần một lần! Quan tuần giỏi võ lắm! Bạn có thấy hai ả chúa hồ kia đẹp không? Hừ! Ai dám ngờ giết người như ngoé!
Chàng trai cười bảo:
- Cũng như ông bạn đó! Ai dám ngờ ông bạn chặt đầu người như sung rụng, uống máu không tanh?
- Ô mông-đi-ơ! Tôi chặt đầu tụi giặc cỏ mà!
- À! Vậy các ả chặt đầu bọn giết giặc cỏ, khác nào?
Lão khách xen vào:
- Hầy à! Cái nghề của bọn cầm súng cầm dao mà! Nhưng chúng nó để bọn ta đứng thế này là... không biết phép lịch sự!
Cả mấy người cùng cười.
Bỗng lại một hồi cồng khua, tự nhiên đám “tù nhân” đều háo hức muốn biết mặt kẻ ngồi chính vị ghế giữa ra sao?
Dứt hồi cồng, bỗng bức rèm cuối vách lay động, có bốn bóng nừ phò một bóng bịt khăn đỏ uyển chuyển đi ra. Mỗi bước đi, khẽ vang lên tiếng nhạc chùm buộc cổ chân nàng. Đột nhiên ánh lửa trám bỗng lao đao rạp xuống như cúi đầu trước nhan sắc tiên cô rừng thẳm.
Đám “tù nhân” thảy đều sững sờ trước vẻ đẹp của nàng vừa ra! Nàng ta uyển chuyển bước lên ngồi ghế chính giữa, khỏi cần nói, ai cũng biết ngay đó mới chính “Chúa tể hồ Ba Bể”, kẻ đã ra lệnh bán đầu lâu thiên hạ!
Nàng mặc lối Thái Đen, toàn xiêm y một màu đen viền trần kim tuyết, bó sát lấy tấm thân thon lẳn ngoài khoác áo choàng đỏ, lót màu đen, tao đeo khuyên lủng lẳng, mỗi bên ba cái liềm móc rất khéo, cổ đeo dây chuyền vàng.
Lập tức, khắp căn đại sảnh nổi lên những tiếng tung hô kính cẩn, tất cả đám giặc nam nữ đều đứng thẳng, cúi đầu.
Bọn chàng trai Kinh, cha con lão khách Quảng Tây, lính dõng vẫn đứng nghiêng ngó dòm lên, dưới vùng ánh sáng nhựa trám vật vờ.
Ai cũng phải sửng sốt vì sắc đẹp của ba nàng nữ chúa hồ Ba Bể, nhất là nàng áo choàng đỏ, ngồi giữa chắc “chúa Cả”.
Mỗi nàng một vẻ, hai nàng kia đã đẹo, nàng chúa Cả này còn đẹp hơn, một vẻ đẹp uy nghi, huyền bí lạ thường như tích tụ cả tinh hoa núi đèo trùng điệp, suối chảy, chim ca, hoa ngàn, cỏ nội.
Chỗ đám “tù nhân” đứng, lên tới chỗ ba nàng ngồi, khoảng cách độ hai mươi thước, tuy vậy vẫn rõ từng đường nét. Vừa nhìn thấy mặt nàng chúa Cả, bỗng chàng trai Kinh giật tim một cái, cảm giác là lạ khó hiểu.
Chàng trai đưa mắt nhìn mọi người. Chàng ngạc nhiên thấy lão khách râu xồm cũng giật mình một cái, mở mắt dòm nàng chúa Cả trừng trừng, rồi đến cô gái Tàu, bọn đội Đầu Lâu, nhiều kẻ cũng lộ vẻ ngạc nhiên, nhìn nàng ta không chớp mắt rồi tất cả cùng nhìn sang chàng trai Kinh.
Lạ lùng, chàng khẽ hỏi:
- Có chuyện gì thế?
Lão khách gãi râu:
- Hầy! Ngộ trông thấy nàng chúa Cả hồ Ba Bể kia, lại nhớ tới chuyện hai mươi năm xưa... ngộ có gặp một người đàn bà giống hệt nàng!
Bọn áp giải vừa quát “im”, Khiên La bước vụt tới, xua tay làm hiệu, đoạn nghiêm mặt bảo bọn “tù nhân”:
- Chúa hồ đó! Mau làm lễ ra mắt!
Mọi người vẫn đứng yên. Cô gái Tàu cười lớn “Ra mắt? Ha ha”. Cả đám ngạo nghễ cười ồ.
Trên kia, nàng chúa Hai nhìn xuống, cau mày, hất hàm một cái, nhưng ngay khi đó, nàng chúa Cả đã đưa mắt nhìn xuống, vẻ mặt thản nhiên, nghiêm nghị như không hề biết có chuyện lộn xộn bên dưới. Nàng ta giơ một tay lên:
- Tất cả ngồi xuống!
Một ả bộ tướng vớ lấy đùi gióng một hồi cồng vang âm rền rĩ. Đám quân lẳng lặng ngồi xuống, riêng bọn giải “tù nhân” vẫn đứng một góc. Căn đại sảnh lại rơi vào im lặng mênh mông.
- Dẫn đám người bị bắt lên đây!
Vừa nghe lệnh truyền, Khiên La hô nhỏ:
- Nào! Lên mau, chúa Cả khác tính lắm, các ngươi nên giữ miệng cho khỏi mất đầu!
Không ai thèm nói nửa lời, đồng theo chúng áp dẫn đi lên phía ba nàng nữ chúa hồ ngồi. Trèo hết mấy tầng bục, cả bọn được đưa tới trước mặt ba nàng, đứng lố nhố.
Cô gái Tàu có vẻ nóng tính nhất, vùng nói lớn:
- Bọn ta là du khách đến vãn cảnh hồ Ba Bể, vô cớ bị bắt, sao các ngươi để đứng như tượng gỗ thế này?
Nàng chúa Cả nhìn cô gái Tàu lừ lừ, không tỏ vẻ chi khác thường, chợt bảo:
- Khiên La! Đem ghế lên cho họ ngồi!
Bọn thủ hạ hơi tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng cũng dạ ran, lập tức mang ghế lên, bày bên tả, cho đám “tù nhân” ngồi.
Cô gái Tàu gật đầu bảo:
- Có thế chứ! Vậy mới là kẻ biết cỡi ngựa bắn súng!
Nàng chúa Ba hơi nhếch mép cười, chúa Hai cau mày. Chúa Cả vẫn không lộ vẻ gì khác thường. Nàng ta cúi xem mấy tập giấy trên bàn, chợt ngẩng lên hỏi:
- Con trai tuần phủ Cao Bằng đâu?
Chàng trai ứng tiếng dõng dạc:
- Chính ta đây!
Nàng chúa Cả phất tay:
- Ra ngoài này! Cứ đem cả ghế theo!
Chàng trai đứng dậy. Viên đội xà cạp trắng phải dìu chàng ra, mang giúp chiếc ghế mây cho tiểu chủ ngồi.
Nàng chúa Cả nhìn chòng chọc, mắt chợt thoáng nét ngạc nhiên, thấy chàng công tử con quan Kinh lại có nhiều nét hao hao giống mình.
Nàng ta quay nhìn hai nàng kia, hỏi nhỏ bằng tiếng Mán:
- Này, hai em có thấy tên công tử người Kinh lại có nét mặt hao hao giống chị không?
Mãi lúc đó, hai nàng mới chợt để ý và cũng tỏ vẻ ngạc nhiên thấy mặt chàng trai Kinh phảng phất có nét giống nàng chúa Cả. Hai nàng kia cùng gật đầu. Nàng chúa Cả quay hỏi chàng trai:
- Phải chú em là Trần Dũng, con trai tuần phủ Cao Bằng Trần Hùng? Ta có nghe họ Trần có chàng con trai ngoài mười tám tuổi giỏi chữ nghĩa, thích nghề võ, phải chú em?
Tuy nhìn mặt cũng biết nàng chúa Cả hơn mình mấy tuổi, nhưng nghe nàng gọi mình là “chú em”, chàng ta cũng tức lắm, dõng dạc đáp:
- Chính ta! Giờ bắt được, muốn giết cứ giết còn hỏi chi cho thừa lời?
Nàng ta nheo mắt, gật gù:
- Chú em bướng nhỉ? Đầu xanh tuổi trẻ không sợ chết sao?
Chàng trai họ Trần cao giọng:
- Ai không muốn sống? Nhưng sống nhục ta không cần sống!
Nàng chúa Cả ra hiệu cho chàng trai ngồi yên, đoạn ngoảnh sang hỏi:
- Cha con lão khách đâu?
Hai cha con lão khách Quảng Tây bước ra. Nàng chúa Cả nhìn chòng chọc hỏi:
- Phải người Quảng Tây sang Nam? Nghề lạc thảo hay quan nhân?
Điềm nhiên, lão khách đáp:
- Lạc thảo!
Nàng chúa Cả nheo mắt:
- Ta nghe chúng nói lão bắn kích pháo hay lắm, bên đất Tcheng Ngan Fon xưa có một viên tướng thổ phỉ râu xồm bắn “pháo” khét tiếng “Thần pháo Tiên sinh” lão có biết chăng?
Lão khách gật đầu:
- Có biết! Nhưng cô chúa hỏi làm gì?
- Ta nghe tiếng hỏi vậy thôi!
Lão khách vuốt râu:
- Thần pháo tiên sinh Trại Hứa Chử Woòng Tắc Mềnh chính là anh ruột ta đó. Còn ta là Woòng Tắc Lềnh, con ta là Woòng Cẩm Tiên!
Cặp mắt phượng của nàng chúa Cả chợt sáng long lanh nhìn hai cha con lão họ Woòng, đoạn ra hiệu ngồi yên gọi:
- Đội Đầu Lâu đâu?
Viên đội lính dõng bước ra. Nàng chúa Cả vỗ bàn quát:
- Đội Đầu Lâu! Ngươi dám dàn binh chống cự với quân ta, làm thiệt hại nhiều mạng, tội ngươi lớn lắm, mà đầu còn trên cổ được sao?
Không sợ hãi, viên đội dõng cười lớn, dùng tiếng địa phương đáp:
- Ta giữ nhiệm vụ tiễu trừ giặc cỏ, dẫn lính tới hồ Ba Bể, thấy giặc giết người, đòi tiền mãi lộ còn ngang nhiên cắm biển đòi du khách thổ dân, lái buôn phải mua đầu lâu của người ta, mà lính nhà nước không nổ súng sao được!
Nàng chúa Cả cười thét:
- Lính dõng nói mạnh bạo dữ à! Để xem lúc thành quỷ không đầu, còn bạo nữa không?
Đội Đầu Lâu có lẽ cũng thừa hiểu sa tay quân hồ Ba Bể là coi như đã chết, nên cứ ngửa mặt cười ngạo nghễ.
Nàng chúa Cả quay sang nói nhỏ chi với hai nàng kia, ba nàng bàn nhau giây phút, chợt bỗng chúa Cả nghiêm mặt quát:
- Các ngươi dám kháng lệnh chúa hồ Ba Bể, tội nặng đáng tử hình! Nhưng nghĩ lại các ngươi là kẻ biết bắn súng, chưa biết oai chúa hồ, kháng cự cũng là sự thường, nên ta châm chước! Vậy nghe đây, Trần Dũng, đội Đầu Lâu phải viết thư về Cao Bằng, Bắc Cạn, xin tiền chuộc đầu cho cả bọn, Woòng Tắc Lềnh phải viết thư về Quảng Tây gọi Thần pháo sang đây, chúa hồ cần một tay bắn kích pháo giỏi! Bây đâu! Đem giấy bút ra đây!
Bọn nữ binh dạ ran, vào mang giấy bút ra. Woòng Cẩm Tiên vùng quát:
- Khỏi phải viết giấy, sẽ có người tìm tới mượn đầu các ngươi!
Nàng chúa Hai quắc mắt quát:
- Ả kia! Đã bị bắt, mạng treo sợi tóc, còn dám buông lời ngạo nghễ, không sợ chết sao?
Woòng Cẩm Tiên cười khanh khách:
- Ả ỷ đông quân, bắt được người, tưởng ai cũng sợ chết khom lưng quỳ gối trước ả sao? Muốn giết cứ giết, ta đâu có sợ?
Nàng chúa Cả thấy cô gái Tàu bướng bỉnh, chỉ nhếch miệng cười, giơ tay làm hiệu cho cô em ngồi yên. Lão khách râu xồm Woòng Tắc Lềnh cũng đưa mắt cho con gái.
Nàng chúa Cả nói một tràng vừa tiếng Tàu, vừa tiếng Kinh, làm cả đám tù nhân đều lộ vẻ ngạc nhiên hết sức:
- Ta xử như thế chưa đủ lượng dung người sao? Theo luật hồ Ba Bể, kẻ nào kháng lệnh đều bị bêu đầu, nay ta cho chuộc đầu là đã có lòng biệt nhỡn đó, các người nghĩ sao?
Đám “tù nhân” nhìn nhau, chưa thể quyết đoán nàng nữ chúa hồ Ba Bể có ý cho chuộc mạng hay có âm mưu gì. Nhưng lão khách Quảng Tây cũng vuốt râu bảo:
- Kẻ làm nghề lạc thảo mà biết nghĩ đến món lợi tiên chuộc mạng muôn quân, cũng đáng là tay biết nghề đó. Nhưng nàng quên là những kẻ như bọn ta lại dùng tiền, anh trai chuộc mạng, còn gì danh dự nữa?
Nàng chúa Cả lạnh lùng:
- Ta cho chuộc chưa đủ độ lượng chăng?
Chàng trai Kinh vùng nói lớn:
- Không phải độ lượng, mà là khôn ngoan xảo quyệt! Chém đầu người bêu ngọn giáo, thị oai là hạ sách. Sống thác đều có số, chắc người thân của bọn ta sẽ có cách “nói chuyện” với hồ Ba Bể! Tưởng các nàng cũng chẳng cần phải đòi bọn ta viết giấy về!
Nàng chúa Hai quắc mắt, đầy vẻ giận, nhưng nàng chúa Cả vùng ngửa mặt cười lớn:
- Nếu đúng như lời chú em, ta sẽ được thêm mẻ cá lớn hơn!
Bất thần, nàng ta vụt đổi sắc, vỗ chát xuống bàn, quát:
- Trước hết, ta chặt đầu mớ cá nhỏ này, lấy xương, đầu treo giữa hồ cũng đủ làm mồi bắt lũ cá lớn rồi! Bây đâu! Giải cả về nhà giam, sớm mai làm lễ tế cờ!
Quân lính dạ ran. Bọn Khiên La tiến ra, điệu luôn đám “tù nhân” đi.
Không ai sợ hãi, tất cả cùng cất tiếng cười ngạo nghễ.
Tiếng cồng rền rĩ nổi lên, chờn vờn “đi” theo đám “tù nhân” về bên kia núi.
Khi về đến khu động giam, nghe tiếng kẻng cầm canh, mới hay chưa hết canh ba.
Lần này, Khiên La lại giam thầy trò Trần Dũng, cha con lão khách Woòng Tắc Lềnh, bộ hạ, cùng viên đội dõng Đầu Lâu với mấy viên quan vào chung một căn động khá rộng, còn bao nhiêu giam quanh đấy.
Lát sau, lại có bọn quân hồ Ba Bể đem chiếu mền tới và mấy mâm thịt nướng xôi nếp, có cả rượu ngon, trà nước.
Bọn Trần Dũng ăn xong ngồi quây quần uống trà, bàn chuyện nhỏ. Ai cũng lấy làm lạ về tính nết bất thường của nàng chúa Cả hồ Ba Bể, nhất là nhan sắc, tài nói giỏi tiếng Tàu, tiếng Kinh của nàng.
Lát sau, vì mệt mỏi, nhiều kẻ bị thương, nên cả đám nằm quay ra ngủ, phó mặc cho thân thế, số mạng.

oOo

Trong khi chàng trai Trần Dũng bị bắt giải về sào huyệt quân hồ Ba Bể, thì quản Đô nhảy được xuống hồ, dùng nghề lặn, tháo về phía xế bắc.
Nhờ khi đó quân hồ Ba Bể còn ở ngoài xa, mấy nàng đầu lĩnh bị chàng trai Kinh cản lại, nên quản Đô thoát được vùng nguy hiểm, kiếm chỗ mũi ghềnh bờ bụi kín đáo, trồi lên luồn rừng, thoát xa vùng hồ nước.
May thay đang thất thểu, quản Đô lại gặp ngay một con ngựa vô chủ còn nguyên cả yên cương lạc lõng trong rừng.
Quản Đô mừng rỡ, bắt ngựa, kiếm lối về sơn trấn Cao Bằng.
Xế trưa, Cao Bằng vẫn tấp nập kẻ qua người lại, xe ngựa từng đàn, dân sơn cước Kinh, Thổ, Mán, Nùng, Tày... từ các bản động xa đổ về như nước, vì hôm đó nhằm ngày phiên chợ.
Trong tư dinh tuần phủ, bàn ăn đã dọn sẵn, gia nhân nam nữ rộn rịp bưng các món ăn lên, vẻ bận như nhà có khách.
Cạnh bàn ăn có một người đàn bà dáng dấp quý phái, đang đứng sửa lại mấy cành hoa cắm trong bình.
Chỉ nhìn qua, ai cũng biết ngay đó là một bà mệnh phụ thuộc giòng dõi quan sang đã nhiều đời, nhưng nét mặt chỉ hiện rõ vẻ quý phái đoan trang, mà phúc hậu khác thường, không giống một số các bà vợ quan to kênh kiệu đài các rởm đương thời!
Có điều hơi lạ là bà phu nhân này chỉ trạc ba mươi bảy, ba mươi tám, tuyệt đẹp, nhưng ngoài tấm nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, mặt bà ta vẫn phảng phất vẻ buồn rầu man mác, tuy cố giữ không tiết lộ ra ngoài. Đôi lúc ánh mắt vẫn hiện rõ vẻ thê lương u uẩn.
Sửa xong bình hoa, chợt phu nhân thoáng vẻ khắc khoải, lững thững ra thềm dinh tiền, nhìn xuống đồi. Ngoài thêm lúc đó có hai, ba viên cai đội “xà cạp trắng” đứng lảng vảng đang nói chuyện với nhau.
Thấy phu nhân bước ra, cả bọn quay lại chào kính cẩn. Bà ta đáp lễ, nhìn ra xa, như nói một mình:
- Quái! Sao giờ này chưa có ai về nhỉ? Chú đội Cao à! Sao tôi thấy sốt ruột quá!
Người có tên đội Cao là một gã trung niên, cao độ thước tám, có ria quặp như chiếc ghi-đông xe đạo, mắt một mí, coi gan lì hơn người. Nghe phu nhân hỏi giọng đầy lo ngại, viên đội cận vệ kính cẩn bảo:
- Bẩm bà lớn chớ ngại! Dạo này cả vùng Cao Bắc Lạng yên ổn lắm! Bẩm lại có bác quản Đô, đội Lạc đi theo cậu ấm cả, giặc cướp nào dám động tới! Cậu ấm cả lại giỏi võ!
Phu nhân hơi nhăn mặt, nhìn đội Cao, khẽ trách:
- Tôi đã dặn các chú mãi mà chẳng ai nhớ! Đã bảo đừng gọi thế mà! Chú biết có ai ưa kiểu cách thế đâu?
Đội Cao nhe răng cười:
- Dạ, quen mồm bỏ không được, vả lại cả thiên hạ gọi thế mà... bà lớn!
Phu nhân lắc đầu, cười dịu dàng bảo:
- Chú cũng biết nhà tôi đâu muốn làm quan? Nhà nước thăng chứa cho về xuôi, ông còn xin ở lại trấn rừng mà.
Lời vừa dứt bỗng nghe tiếng còi xe hơi, phu nhân cùng bọn đội Cao vội nhìn xuống, thấy một chiếc xe đen, lính bám quanh chạy thẳng lên đồi, đậu bên thềm.
Lính nhảy xuống, mở cửa cho một viên quan trung niên bước ra.
Đó là một người tầm thước, mặt mày khôi ngô, quắc thước, mặc áo cà sa, ngực đeo bài ngà, đầu chít khăn nhiễu Tam Gian, tuy tuổi đã bốn lăm, bốn sáu, vẫn còn hiện rõ vẻ uy nghi khoáng đạt của kẻ giang hồ ngang dọc một thời, không ưa bị đời kiềm toả.
- Kìa ông đã về?
- Bà mạnh chứ?
Ông ta bước nhanh lên thềm, nở nụ cười đầm ấm, nhưng vụt trầm ngay mặt hỏi:
- Thằng Dũng về chưa?
- Dạ chưa!
- Tôi được tinh hình như vùng hồ Ba Bể có loạn!
Giật mình, người đàn bà kêu nhỏ:
- Trời! Hồ Ba Bể có loạn? Loạn gì thế, ông? Thằng Dũng nhà mình đi chơi hồ...
Viên quan nhìn vợ. Mặt bà đột nhiên xanh tái hẳn đi, hiện rõ vẻ khủng khiếp lạ thường, khiến ông ta lộ vẻ ái ngại, vội nắm lấy tay vợ bảo:
- Không phải loạn rừng đâu! Hình như có đám giặc nổi lên bắt du khách, dân buôn phải nộp tiền mãi lộ đó thôi! Bà chớ ngại!
Ông ta dìu vợ vào phòng khách. Bọn đội Cao cùng toán tuỳ cận đứng cả ngoài thềm, vẻ mặt đăm chiêu.
Viên quan trung niên này không ai khác viên tuần phủ biến chuyển Trần Hùng.
Ông ta ngồi xuống ghế, tháo dây đeo súng lục ném lên bàn bảo vợ:
- Thằng Dũng chắc sắp về!
Người đàn bà đứng bên, đầy lo lắng:
- Nếu giặc nổi lên tại hồ Ba Bể, tôi sợ thằng Dũng nhà mình không chịu để yên đâu, tính nó khác lắm!
Viên quan không nói chi, mặt lộ vẻ điềm nhiên cho vợ an lòng, nhưng vẫn không dấu được nét lo kín đáo.
Người đàn bà rót một chén trà nóng dâng chồng. Hai người đang nói chuyện bỗng nghe ngoài thềm có nhiều tiếng xôn xao, giọng đội Cao kêu lớn:
- Coi kìa! Bác quản Đô! Sao về có một mình?
Hai vợ chồng viên tuần phủ vụt nhìn nhau, bước nhanh ra ngoài.
Dưới đồi, có một bóng người cỡi ngựa chồm lên, theo con đường lượn quanh co, dừng phắt trước cổng tiền. Người lính gác chạy ra đón. Đó chính là quản Đô.
Viên tuần phủ vùng hỏi lớn:
- Có chuyện gì đó, chú quản?
Quản Đô nhảy ba bước, vào thềm, mặt mày hiện rõ vẻ hoảng hốt, chực nói luôn nhưng thấy quan bà đứng đó, mặt xanh mét, y lại hãm được, thở phào, nhìn mọi người, nhìn viên tuần phủ như ngầm hỏi ý.
Viên quan hỏi luôn:
- Phải “có biến” tại hồ Ba Bể? Cứ nói!
Quản Đô lau mồ hôi, quần áo xộc xệch, rách bươm, vết thương máu xỉn, coi thảm hại, y nói như thanh:
- Giặc nổi dậy chiếm cứ vùng hồ Ba Bể. Cậu Dũng và bọn đội Lực bị chúng bắt rồi!
Phu nhân kêu “Trời ơi” bi thảm, viên quan đỡ lấy vợ, an ủi, đoạn vẫy quản Đô:
- Bình tâm tĩnh trí, vào đây, kể lại đầu đuôi ra sao?
Quản Đô theo chủ vào phòng khách.
Đội Cao rót ly nước đầy đưa cho y uống xong, quản Đô vò đầu.
- Bọn này rất mạnh tợn, cầm đầy là mấy con mụ đàn bà. Bọn tôi cùng cậu cả đến hồ, thấy chúng ra cắm biển “bán đầu lâu”, bắt ai cũng phải mua đầu mình, bọn tôi thấy có năm mười tên mới ra tay, đánh đuổi tận hồ. Nào dè chúng kéo ra đông như rươi, giết chết cai Tính, con nữ chúa cố bắt cậu Cả. Không ngờ nó giỏi quá, thả cặp liềm bay vùn vụt vô cùng lợi hại! Cậu Cả đuổi tôi nhảy xuống hồ về báo tin!
Ngừng ít giây, quản Đô tiếp tục kể lại cuộc quần thảo, bộ mặt gan góc của y còn in rõ nét kinh mang.
Viên quan nghe xong, trầm ngâm mười khắc, hỏi:
- Chú có chắc cậu Dũng nhà bị bắt không?
Viên quản gật đầu:
- Dạ chắc! Hình như cả ông đội dõng Đầu Lâu Bắc Cạn và một bọn khách Quảng Tây nữa! Vì lúc đó, tôi đã thoát lên rừng, có nghe vọng hò hét nên mới dám chắc! Vả chính con nữ chúa đã truyền bắt sống, nếu không đã nguy cả rồi!
Hai vợ chồng viên quan hỏi thêm từng chi tiết, viên tuần phủ vụt cao giọng:
- Đội Cao! Chú sang trại cơ binh xà cạp trắng, gọi quản Báo, quản Hổ sang đây, mau! Đưa xe đón cho chóng!
Đội Cao vọt đi. Viên tuần phủ bảo đám thuộc hạ:
- Tất cả vào ăn uống cho no! Trong nhà sẵn bàn tiệc!
Phu nhân đưa cả đám vào, thầy trò cùng ngôi ăn uống thân mật. Mới được tuần rượu, thì quản Hổ, quản Báo tới. Đó là hai người cao lớn, tuổi ngót 40 mặc quần áo ka-ki vàng, quấn xà cạp trắng. Quản Hổ người Thổ Cao Bằng, quản Báo người Kinh, da ngăm bánh mật.
Cả hai chào kính cẩn:
- Bẩm “cụ lớn” có việc gì sai khiến?
Viên tuần phủ trỏ ghế:
- Ngồi ăn uống đã! Ăn xong lên đường có chuyện khẩn cấp!
- Bẩm... chuyện gì thế?
- Cậu Dũng và bọn đội Lực bị giặc hồ Ba Bể bắt, giặc mạnh lắm, có lẽ phải lấy thêm lính khố xanh, quản Đô mới thoát về!
Quản Hổ, quản Báo vòng tay cúi đầu đồng vâng dạ, rồi răm rắp y lệnh. Chỉ ít lâu sau, quan lính đã hăng hái tiến nhanh về phía hồ Ba Bể nhằm giải thoát Trần Dũng cùng đám người bị nữ chúa hồ Ba Bể giam giữ giữa chốn sơn lâm.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 162
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com