watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:32:0128/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Nữ Chúa Hồ Ba Bể - Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh - Trang 8
Chỉ mục bài viết
Nữ Chúa Hồ Ba Bể - Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Tất cả các trang
Trang 8 trong tổng số 19



Chương 2-3

Một hồi cồng khua, bảy tên đao phủ vọt ra, hươi mã tấu, dao găm, chực phạt, bỗng nghe tiếng ai quát theo nhịp ngựa phi:
- Khoan, chớ giết uổng! Để đó còn bán đầu lâu!
Quân hồ Ba Bể, lính dõng trông ra, thấy nàng chúa Ba từ phía hồ dẫn một đội nữ binh xộc tới, rút gươm chém lia mấy phát, liếm bay hết lon trên áo viên chỉ huy.
Nàng chúa Hai gõ nhẹ roi lên đầu viên quan võ hỏi:
- Còn để nó làm gì? Nó là đội Đầu Lâu đã giết nhiều người, vừa đây lại hại của ta hơn ba mươi mạng, chém bảy lần chưa hết tội mà!
Nàng chúa Ba cười nói:
- Đánh trận phải giết người, hắn ăn lương nhà nước, hết lòng đánh giặc, cũng là lẽ thường tình, ta làm giặc đánh lính nhà nước, làm rạng oai danh hồ Ba Bể, cũng thế! Nay lột hết lon, giấy tờ đem về Bắc Cạn, Cao Bằng, bắt nhà nước bỏ bạc “xòe” mua lại đầu lâu đội Đầu Lâu, mới thích chứ?
Nàng chúa Hai cười lớn, gật đầu. Ánh thép bay loang loáng, bao nhiêu lon rụng hết.
Lũ thủ hạ cúi nhặt, lại thu hết giấy tờ, đoạn xích cả vào một xâu như “tù dây” đi bắt hết ngựa, nhặt súng ống, xong áp giải tất cả về phía bờ hồ.
Hai nàng nữ chúa đi trước, cùng một cánh nữ binh. Nàng chúa Hai hỏi:
- Đã bắt được hết bọn trai Kinh, gái Tàu chưa?
- Mới bắt được ba tên, còn gã trai Kinh, cha con lão Tàu râu xồm lặn xuống nước, trốn đâu mất...
Cả hai dẫn quân ra bờ hồ, quân nam nữ vẫn đang chèo thuyền độc mộc, sục tìm bọn chàng trai Việt.
Nàng chúa Ba gọi thủ hạ, bảo:
- Giờ đã yên, khá đi quanh vùng truyền ra cho du khách tứ xứ tiếp tục đến vãn cảnh như thường! Từ giờ đến tối, hãy miễn cho họ, kẻ giàu chỉ lấy một đồng xoè thôi!
Thủ hạ dạ ran, phóng đi.
Nàng chúa Ba lại bảo:
- Chắc chúng chưa thoát đi xa, dọc bờ có nhiều lau, sậy, ghềnh hốc, giờ mỗi người đảo một phía, sục thử!
Hai nàng lập tức chia nhau, dẫn quân đảo dọc bờ tìm kiếm.
Nàng chúa Hai đi về hướng Tây, không thấy, lại đảo lại hướng Đông.
Nhưng hai mươi phút sau bóng dáng bọn kia vẫn biệt tăm! Nàng chúa Ba đi dọc đến khu ghềnh đá, lau sậy, bảo thủ hạ:
- Ta nghe trong giới biển hồ có bí thuật “thở dưới nước như loài cá”, không lẽ bọn này biết nghề đó! Vậy một lũ hãy sục ra phía ốc đảo ở giữa hồ, còn một lũ kiếm từng ghềnh hốc! Chia nhau lặn xuống, xem sao!
Đám quân y lệnh, sục gắt, bọn lặn, bọn quăng lưới, đâm giáo mác đinh ba, nát cả lau sậy, tiến dần về phía đông.
Bọn chàng trai Kinh thoát ngả nào?
Ngay sau lúc phóng xuống nước, biết chàng trai Việt bị thương ở chân, nàng gái Tàu lao luôn về phía chàng ta, túm được tay, cứ thế giúp chàng lặn xuống tận đáy hồ.
Hồ rộng giặc đông lướt đảo trên, cô gái biết không thể lặn một hơi ra tận ốc đảo, nên dìu chàng trai lặn về phía bờ đông, cách khu vực đánh nhau một quãng, địa thế hiểm trở, có thể ẩn nấp được. Chàng trai bơi lặn khá giỏi, nhưng xem chừng còn kém cô gái Tàu này nhiều.
Một phần đã quần thảo mệt, lại bị thương, chàng trai mau hết hơi, chưa vào tới bờ, đã muốn sặc nước. Biết trồi lên là sa tay quân giặc, chàng trai vùng bấm tay cô gái làm hiệu, đoạn gỡ tay nàng ra, ý muốn trồi lên một mình cho nàng thoát.
Nhưng cô gái lại không nỡ bỏ, cứ nắm chặt lôi miết.
Cô gái Tàu đưa được chàng trồi lên mặt nước, chỉ bị uống một hai ngụm nước.
Trên đầu hai người đầy rong rêu lau sậy, cành xoè, rất kín.
Nhìn ra, thấy quân hồ Ba Bể đang sục gắt xa xa, cô gái cả mừng quay nhìn chàng trai Kinh, nhoẻn cười.
Bỗng nàng chăm chú nhìn chàng ta, lo lắn hỏi nhỏ:
- Sao mặt mày công tử xanh xám thế? Công tử xúc động?
Chàng trai hơi nhăn mặt, phều phào:
- Mệt quá... cô nương à! Có lẽ vì vết thương ra máu nhiều...
Cô gái vội dìu chàng men lại phía có nhiều ghềnh chìa, bảo:
- Công tử giơ chân lên, tôi coi vết thương xem sao?
Chàng trai Kinh gượng đau, bám mỏm ghềnh, ngã người, giơ chân lên khỏi mặt nước. Cô gái ôm chầm lấy chân kêu “trời” vì máu ra đầm đìa. Lau qua, sờ nắn mấy khắc, nàng kêu khẽ:
- Đạn còn mắc cạnh ở mắt cá chân! Làm thế nàng bây giờ? Thuốc men để cả dưới thuyền!
Dứt lời, nàng xé vạt áo quấn chặt vết thương, và xốc hẳn chàng lên một cái hốc nhỏ sát mặt nước, bảo:
- Ta phải thoát khỏi chỗ này mới được! Công tử đau chân, còn đi được không?
Chàng trai lom khom đứng dậy suýt đâm đầu xuống hồ. Thì ra lúc nãy đang hăng máu, chưa đau, giờ mới ngấm, buốt tưởng rụng mắt cá.
Ái ngại, cô gái đỡ chàng, thỏ thẻ:
- Bờ hồ nhiều cây cỏ lau sậy, ghềnh mỏm, để tôi cõng công tử thoát cho mau!
Chàng trai khẽ bảo:
- Cô nương hãy đi tìm phụ thân đã! Chắc “người" cũng ẩn quanh đây!
Cô gái nhìn khắp hồ, đáp:
- Cha tôi lặn như rái cá, công tử chớ lo!
Dứt lời, nàng ghé vai, cõng luôn chàng trai, lội dọc bờ nước kiếm chỗ lên.
Tuy đau, chàng tuổi trẻ vẫn còn tỉnh táo để cảm rõ cảnh bất tiện trên lưng nàng.
Trong vòng tay chàng, tấm mình thon lẳn của cô gái đẹp như có sức kỳ bí làm chàng ngượng chín người. Khổ nữa, từ cơ thể tiết ra mùi da mỹ nhân thơm thơm hăng hắc tựa hoắc hương làm chàng càng muốn tắt thở, buột kêu:
- Thôi! Tôi đỡ đau rồi, cô nương để tôi đi... đỡ khổ cho cô nương...
Nàng thì thào:
- Đạn mắc trong đau lắm, đi sao nổi?
Nàng lội bì bõm được một quãng vừa cõng chàng leo lên bờ, bỗng nghe tiếng ngựa chạy, tiếng gọi nhau líu lô ập lại, nên vội ngồi thụp xuống.
Thình lình có tiếng một nữ binh kêu lớn:
- Chỗ kia lau sậy động dữ như có người len lỏi!
Cả hai giật nảy mình, trông ra thấy bốn chiếc xuồng độc mộc vùn vụt lướt tới, ngó lên, lại từng toán nữ binh sục rầm rập tới.
Thất kinh, nàng kêu nhỏ:
- Ngồi đây lộ mất, phải xuống nước...
Nàng cõng chàng lội xuống hồ. Vừa xong, thì quân bên kia kéo tới, lố nhố.
Hai người cứ nấp giữa lau sậy um tùm. Một chiếc thuyền lướt qua, một ả dữ như Dạ Xoa cầm một cây giáo dài xỉa lia lịa vào bờ bụi, hét:
- Ra ngay! Còn gan, lòi ruột!
Hai người im hơi. Soạt! Mũi giáo xuyên sát cổ cô gái Tàu, liếm ngoài da.
Thuyền trôi qua, ả ta dòm trừng trừng. Nhưng trên bờ, lại một toán sục tới, kiếm trong từng hốc đá, mỏm ghềnh.
Không may cho hai người, bỗng nàng chúa Ba xịch tới, đem theo một con ó rất tinh khôn.
Con ó bay là là mỏm ghềnh, ngọn lau, chẳng biết dòm thấy hay đánh hơi, bỗng nó kêu quang quác, lượn vòng thúng.
- A! Có kẻ núp đâu đây? Biết điều ra mau!
Nàng chúa Ba nhảy xuống, vọt đứng trên mỏm ghềnh cách chỗ hai người nấp độ mười thước tây, chỉ trỏ, quát lanh lảnh:
- Khu này có nhiều hốc đá, lau sậy, phải sục từng tấc một!
- Bẩm chúa Ba, để mụ này cho vài loạt tên nỏ là xong!
- Khoan! Ta có cách!
Lời dứt, chợt nghe “véo, véo” trốc đầu, hai người trông lên, thấy có hai lưỡi liềm bay vi vút, phạt đứt lau sậy, cành xoà như chém cói. Liềm tới đâu, quang tới đó, hai người vội lặn hụp, lần đi chỗ khác ngược về phía liềm phạt.
Nào dè, khi hai người hết hơi trồi lên, lại bị con ó tinh quái sạt tới, kêu quang quác, lại phải lặn lội. Lần này cô gái Tàu cõng chàng trai Kinh không may trồi lên, lại đúng lúc nàng chúa Ba vừa xịch đảo tới. Lau sậy động, nàng ta sinh nghi thả “véo, véo” cặp liềm, hớt bay lau sậy lộ ra hai cái đầu ướt sũng.
- Chúng đây rồi!
Quân hồ Ba Bể đổ tới bổ vây, chỉ hai phút sau, cô gái Tàu đã bị một phát tên trúng bả vai, và bị một ả quăng lưới úp chụp. Cô gái Tàu rút kiếm khoét thủng lưới, thoát ra, nhưng chàng trai bị thương, phải cõng. Bị vây kín, cô gái đành liều mạng, nhảy vọt lên bờ.
Nào dè vừa đứng vững, nàng ta đã bị một sợi thòng lọng chụp nghiến lấy, xiết chặt, giật ngã lăn trên mặt cỏ.
- A! Chúa Hai bắt được cả đôi rồi!
Quân hồ Ba Bể reo hò vang dậy. Nàng chúa Hai giật mạnh dây, cả hai lăn tròn.
Chàng trai giục “buông tôi ra, thoát đi còn kịp” nhưng cô gái không chịu, nháy mắt đã bị thêm một sợi nữa, như bó giò.
Thì ra nàng chúa Ba đã vọt lại, quăng dây, hai nàng hai phía, kéo ghì cặp trai gái, lôi đứng sững.
Cả hai nàng cùng lần dậy, tiến lại. Nàng chúa Hai cười thét:
- Sam! Đôi sam cõng nhau! Còn để làm gì cho ngứa mắt.
Véo! Lưỡi liềm tung ra, chém sạt ngang cần cổ hai người. Cô gái Tàu hét:
- Tỉu nà! Con giặc rừng! Tao đâu có sợ đứa ỷ đông.
Liềm nháng sáng chém ngang “chát” toé lửa, nàng chúa Ba lật đật thả liềm gạt, bật kêu lớn:
- Chớ giết! Đầu này đều có giá!
- Không cần giá!
- Để nhử lão khách râu xồm là hơn?
Nàng chúa Hai nghe theo, dòm nảy lửa.
Cô gái Tàu vẫn cõng chàng trai Việt nhìn chúa Hai, nhổ toẹt một bãi nước miếng.
Nàng chúa Hai giận tròn khoé hạnh, rút roi ngựa, quất đét vai, hét:
- Bắn chết con này cho tao!
Quân giặc giương cung nỏ tua tủa. Nàng chúa Ba xua tay, quát lanh lảnh:
- Còn lão khách râu xồm đâu? Khôn hồn khai ra mau! Ta đếm đến mười, lão không ra, ả này mất mạng! Một, hai, ba...
Cả một vùng hồ nước vụt rơi vào im lặng mênh mông, chỉ còn tiếng chân ngựa khua vó lóc cóc, tiếng nàng chúa Hai nhọn sắc như dùi đâm thủng không gian.
Khi nàng ta hét đến chín, bỗng nàng chúa Ba giơ tay ra hiệu bảo nàng kia:
- Khoan! Lão khách râu xồm giỏi nghề độn thuỷ, chắc đã thoát khá xa, ít nhất phải ra tận ốc đảo kia! Ta nên cho một dịp may cuối cùng, để chúng quân nhắc lại mới được!
Cô gái Tàu nhổ toẹt một bãi nước miếng, mắng:
- Tỉu nà! Hai con giặc cái! Muốn giết, cứ giết, đừng hòng giục cha tao!
Chàng trai quát:
- Giặc cái! Ta mới là kẻ phá giặc, giết thủ hạ hai ả, còn cha con nàng này vô can! Nếu cần, cứ giết mình ta cũng đủ!
Cả hai không thèm đáp, vùng khoa liềm trên trốc đầu, hô:
- Đếm đến mười, không ra, ta chặt hai cái đầu này!
Quân giặc ngoài hồ cũng xô lại đếm vừa đến mười, bỗng nghe ngoài ốc đảo có tiếng hét như sấm vọng vào:
- Tỉu nà hai cong giặc! Tao đây! Lũ mi chớ làm càn!
Hai nàng nhìn ra, cùng hạ tay liềm, nhếch miệng cười đắc ý. Vì ngoài ốc đảo giữa hồ, vừa hiện ra một bóng đen đứng trên ngọn cây sát bờ nước, dáng người còn mặc nguyên xường xám ướt sũng.
- À, vậy là biết điều đó! Bây đâu! Ra bắt lão vào đây!
Quân hồ Ba Bể dạ ran, năm cái thuyền độc mộc rẽ nước chạy ra. Giây lát đã điệu lão khách râu xồm vào, khí giới đã bị tước hết, nhưng không bị trói.
Nàng chúa Hai quát lớn:
- Sao không xích lại?
Thuyền áp bờ, bọn thủ hạ vội đem xích sắt xiềng lão khách lại. Lão trợn mắt, mắng:
- Tỉu nà! Tao tự ra cho chúng mày định đoạt, còn xích gì nữa?
“Xoảng” một tiếng lớn, lão giật bứt tung dây xích sắt, ném bõm xuống nước, nhảy vọt lên bờ, hướng vào hai nàng chúa, nói to:
- Tao lên đây, giờ hãy tha con gái tao và chàng công tử kia ra!
Sợ lão làm dữ, quân hồ Ba Bể cùng chĩa súng lăm lăm.
Nàng chúa Hai cười dữ tợn:
- Đã bị bắt, còn dám ra điều kiện với chúa hồ?
Lão khách có vẻ giận dữ hết sức, chỉ muốn phá tung, nhưng chợt đưa mắt nhìn con gái và chàng trai Kinh, thủ hạ người bị trói, người mang thương tích, máu đỏ lòm, lão nén giận, cười khà bảo:
- Cha con tao sang Nàng xem hồ Ba Bể, làm du khách mới bị lũ mi áp đảo! Nếu bên Quảng Tây, cả quân tướng nhà mi, tao đánh cho không còn mảnh giáp!
Nàng chúa Hai chống nạnh, gật gù, lượn quanh mình, bất thần vung tay điểm một nhát trúng huyệt đạo. Lão khách đứng trơ như tượng gỗ.
Rồi nàng hét:
- Khiên La đâu?
Một viên bộ tướng to như hộ pháp từ phía cánh quân Nam vọt tới.
- Chúa Hai, chúa Ba truyền!
- Đem đội hành hình tới, chặt đầu chúng, bêu làm lệnh, răn thiên hạ!
Viên bộ tướng hộ pháp Khiên La lập tức hô gọi đội hành hình tới, trói tất cả đám người bị bắt vào gốc cây, trói luôn cả bọn đội Đầu Lâu, lính dõng.
Nàng chúa Ba không can nửa lời, chỉ hờ hững nhìn đám người sa cơ.
Bọn này cũng chẳng thèm hé răng, khi đội hành hình đã dàn hàng sắp ra tay, nàng chúa Hai rút súng, bước lại gần, dòm nảy lửa, nào dè cô gái Tàu bỗng nhổ toẹt một bãi nước bọt, hét:
- Tỉu nà con giặc rừng ỷ đông hống hách! Tưởng bọn tao sợ lũ mày chăng? Hừ!
Tiếc thay mày không gặp tao bên Quảng Tây để tao vặn cổ mày ra đằng sau!
Nàng này giận tròn xoe mắt, giơ súng chực bắn, nhưng lại nén được, gật gù cười gằn, quát trầm:
- Nghe cha con ả đều khoe Quảng Tây, phải làm chúa tể thành Nam Ninh hay chúa thổ phỉ?
Toẹt! Lại một bãi nước bọt. Nàng chúa Hai hét “giết chết chúng cho tao”. Đội hành hình vừa toan ra tay, bỗng nghe phía cuối hồ Ba Bể có tiếng cồng khua vang, âm thanh bổng mười phần hùng tráng âm u, đúng là điệu cồng sơn cước.
Đám quân hồ Ba Bể đằng này vụt dừng tay, quay nhìn cả về phía có tiếng cồng.
Dứt hồi cồng đồng, bỗng có tiếng tù và nổi lên, vang động khắp miền sơn thuỷ, âm sừng linh dương rền rĩ man mang, huyền bí như từ cõi xa xăm nào vọng về.
Bỗng “vo, vo”, từ nẻo cuốihồ có một chuỗi âm kỳ lạ bay vút trên không trung, rít như còi, phóng về phía đám hành hình.
Ai nấy đều ngửa mặt trông lên, thấy có một vật đỏ chót bay theo đường cầu vồng đâm thẳng xuống đất, hiện ra một mũi tên còi màu đỏ.
Nàng chúa Ba chạy lại nhổ mũi tên, dòm qua, trao cho nàng kia.
Bỗng cả hai cùng hô “về núi”.
- Lệnh truyền giải tất cả về, chỉ để lại một đội khinh kỵ! Y lệnh!
Đám quân hồ Ba Bể lập tức chạy lại cởi trói cho mọi người, đem lên lưng ngựa, lũ khác thu dọn chiến trường, phút chốc tất cả đã vào hàng ngũ.
Cô gái Tàu cười lớn:
- Chúng mày tiếc đạn?
Nàng chúa Hai lạnh lùng:
- Không phải tiếc đạn, tiếc cái đầu của ả! Chặt ngoài hồ phí của, phải đem về núi chặt làm lễ tế cờ! Chớ quên: chưa kẻ nào kháng cự lại chúa hồ Ba Bể, còn toàn mạng trở về. Đi! Bịt mắt chúng!
Khiên La cùng bọn thủ hạ lấy vải dày bịt ngang mắt mọi người.
Vó ngựa lóc cóc rời hồ Ba Bể đi về hướng Nam.
Chàng trai Kinh thấy đám quân này hung tợn, không khỏi lo cho số mạng cả bọn, lên tiếng dịu dàng bảo:
- Tôi có người gia tướng là quản Đô nhảy hồ trốn thoát về Cao Bằng báo tin, thế nào phụ thân tôi cũng có cách giải cứu, cô chớ ngại!
Lão khách râu xồm hỏi:
- Phải phụ thân công tử là quan tuần phủ Cao Bằng?
- Dạ chính thế! Cha tôi lại quen nhiều tay giỏi võ, chắc chẳng chịu bó tay!
Lời vừa dứt, bỗng cả bọn ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, rồi mê đi khắc nào không biết nữa.
Chẳng hiểu bao lâu, bỗng nhiên chàng trai kinh hoàng tỉnh mở mắt ra, bàng hoàng thấy mình đang nằm trong gian thạch động, thạch thất chi đó, dưới vùng ánh sáng vàng vọt, nham nhở.
Chàng nhỏm dậy, ngó quanh mới hay đây là một cái hang sâu được chế thành nhà giam, vuông vức hơn mười thước vuông, cửa ngoài bằng chấn song sắt to bằng cổ tay, trong hang có bục gỗ trải cỏ khô.
Cả mấy thầy trò đều bị xích chân vào cây gậy sắt đóng sát ngay vách đá. Bên ngoài song sắt là một dãy hành lang, ánh sáng vàng khè ngoài đó hắt vào, lẫn cả mùi khen khét như nhựa xám, thứ nhựa cây đóng thành thỏi, dân sơn cước thường dùng thay đèn nến.
Thấy mỏi, chàng co chân duỗi thẳng, mới sực nhớ tới vết thương dưới chân, bèn cúi nhìn lại, mới hay vết thương đã được băng bó cẩn thận, tuy cử động còn thấy đau!
Chàng thử vung tay, mới hay sức lực đã bị triệt, trong mình còn mệt mỏi, cổ họng khô cháy, chừng mới qua một cơn sốt dữ. Chàng trai vùng gọi to:
- Khát quát! Có ai ngoài đó không?
Lập tức có tiếng chân bước tới, một gã to lớn, mặt mũi dữ tợn đầy sẹo đứng ngoài song sắt lừ lừ dòm vào, hỏi:
- Công tử con quan gọi gì?
Chàng trai bảo:
- Bọn ta khát nước lắm, cho một ấm!
Gã này nhe răng cười, hỏi:
- Công tử con quan có uống nước cà phên không?
Chàng trai cười:
- Chú mày đùa tao?
Y đáp:
- Không đùa mà! Chúa truyền ai muốn ăn uống gì, phải đưa! Ông Khiên La bảo công tử Kinh thường uống cà phê!
Chàng trai cười:
- Chúa mi tử tế nhỉ?
- Ờ. Công tử con quan chưa biết chúa hồ Ba Bể! Lát nữa bắn, giờ vẫn cho ăn uống no nê mà!
Gã quay ra, loáng bưng vào đủ cà phê, nước trà.
Chàng trai hỏi:
- Cha con ông khách Quảng Tây đâu?
- Cũng giam quanh đây!
Gã vừa nói dứt bỗng nghe gần đây có tiếng đàn bà gọi lanh lảnh:
- Công tử Kinh có đấy không?
Nghe giọng nhận ra chính giọng cô gái Tàu, chàng trai vùng đáp lớn:
- Tôi đây! Cô nương cùng lệnh đường mạnh khoẻ chứ?
Có tiếng đáp:
- Cảm ơn, vẫn mạnh, chỉ lo vết thương nơi chân công tử!
- Không sao! Nó băng bó cẩn thận rồi!
Bỗng ngay khi đó, có tiếng chân rầm rậo, rồi viên bộ tướng to như hộ pháp Khiên La chợt hiện ngoài song sắt cùng một toán quân lực lưỡng nữa, nói lớn:
- Chúa truyền giải tất cả lên sảnh đường!
Đám quân mở khoá, dẫn ba người ra ngoài hành lang. Cha con cô gái Tàu Quảng Tây cùng bọn đội Đầu Lâu cũng đi ra, tất cả đều bị xiềng.
Vừa thấy chàng trai Kinh đi tập tễnh, cô gái Tàu trợn mắt mắng lớn:
- Tỉu nà! Lũ chó đú này hèn hạ! Đã triệt hết công lực người ta, còn xiềng xích như trâu chó! Lũ mi không thấy chân công tử bị thương què sao?
Một gã mặt mày dữ tợn, chừng đầu mục, đứng gần đấy, sấn luôn lại giơ bàn tay to lớn doạ “im mồm”.
Gã liền bị nàng ta bất thần co chân đá luôn một phát đến “hự” một tiếng! Nhưng lúc này công lực đã bị triệt, cú đá không còn mạnh nữa. Tuy vậy cũng làm gã nổi giận, hét lên. Lại có hai ba tên cười ồ làm gã càng tức, thẳng tay tát vào mặt cô gái Tàu. Xoảng!
Một sợi dây xích quật trúng tay gã, kéo giật lại, làm gã giật mình xoay người, trợn ngược mắt, sửng sốt. Vì kẻ vừa quật xích không ai khác chàng trai Kinh vừa tập tễnh nhảy tới.
- Không được làm rối loạn! Cởi xích ra cho chúng!
Mọi người nhìn ra. Nàng chúa Hai đã đứng sững giữa hành lang, tay cầm roi ngựa, quần áo xốc xếch, vẻ vừa đi đảo về.
Bọn giặc vội cúi rạp đầu chào. Khiên La sai tháo xiềng cho mọi người, đoạn giải đi. Đội Lực và viên cai xà cạp trắng phải xốc nách chàng trai, dìu từng bước.
Nàng chúa Hai quay mình đi ngả khác. Đám “tù nhân” bị giải qua dãy hành lang dài hút, ánh nhưa trám vàng khè.
Thì ra đây là một khu “nhà đá” đục thẳng vào vách núi. Đi khỏi dãy hành lang tới một khu khác, đứng nhìn ra, thấy núi đá trùng trùng chạy quanh lòng chảo, rải rác khắp dưới trên có nhiều đồn trại nhà cửa, ẩn hiện lùm cây, ghềnh, coi hiểm hóc vô cùng.
Nhờ có ánh trăng soi vằng vặc, mọi người thấy khu này có nhiều đường ngang lối dọc chi chít.
Bọn Khiên La dẫn họ đi khỏi khu lòng chảo này, lại tới khu khác theo lối đá quanh co, đến một trái núi cao ngất, lưng chừng núi hiện ra nhiều bóng nhà cao, thấp, lớn, bé, lối kiến trúc rất lạ mắt.
Bỗng đến một vùng núi bằng phẳng có một căn nhà gỗ đồ sộ làm theo lối dinh sảnh của các tiểu vương sơn cước, cây cối hoa cỏ mọc đầy, trước nhà có một cái sân, giữa sân có trồng một cái cột cờ cao như cây phướn, ngọn cờ có lá cờ đỏ chót như nhuộm máu tươi, giữa thêu hai cái liềm gác chéo ôm lấy một cái sọ người có tóc coi rất dữ, dưới có một con sóng lượn, tất cả đều bằng ngân tuyến!
Khiên La dẫn mọi người vào thẳng ngôi nhà, qua bậc gỗ cao vút.
Sàn rộng bao la, trần thiết giản dị, nhưng rất uy nghi. Vách căng toàn da thú, ghế từng dãy, toàn ghế mây. Nhưa trám thắp như sao sao, quân đầy sàn, bên nam, bên nữ, ngó qua cũng hơn trăm tay súng.
Đám “tù nhân” được dẫn tận cuối sàn, đứng một bên, hướng lên một bục gồ rộng, cao vọi. Trên bụ có đặt ba cái ghế tay ngai bọc da báo gấm lốm đốm. Ghế chính giữa cao hơn, ghế ở hai bên thấp hơn một chút.
Trước ghế có cái bàn rộng cũng bọc da thú, trên bàn, trên ghế la liệt đầy chiêng, khánh, cồng, tù và, trống khen, nhạc cụ, hai bên vách treo đầy gươm đao. Sau ghế có một lá cờ giống hệt lá cờ ngoài cột cờ.
Im đến nỗi chỉ nghe tiếng nhựa trám cháy lép bép và tiếng gió thổI vi vu ngoài sườn núi mang vào những tiếng chim khảm khắc “loọng sôi”.
Chợt phía sau lá cờ, có tiếng tù và rúc âm u, vang vọng cánh rừng.
Dứt hồi tù và, từ trong vùn vụt đi ra một đội nữ binh quấn xà cạp đeo súng ống, gươm đao, dao găm, cung nỏ, dàn dọc chếch hai bên rồi một nàng bộ tướng tiến lại, cầm dùi gióng lên một hồi còng, đệm ba tiếng cuối ngân nga.
Ai nấy đứng thẳng, im phăng phắc. Âm chưa ngưng hẳn, từ trong vừa vụt tiến ra hai bóng nữ nhân, leo lên ngồi luôn vào hai cái ghế tả hữu.
Bọn “tù nhân” nhìn lên, thoáng hơi bỡ ngỡ, mới nhận ra chính nàng chúa Hai, chúa Ba. Lúc này hai nàng lại mặc xiêm y Thổ Thái.
Nàng chúa Hai mặc “phá” lãnh gấu thuỷ ba kim tuyến, áo gấm lam, ngoài còn khoác thêm cái áo choàng tựa lối gái Mường, cũng màu lam. Nàng chúa Ba mặc cái áo tía, quần lãnh đen, áo choàng cũng màu tía.
Cả hai đều đeo khuyên, nhưng kẻ khuyên chuỗi tròn, kẻ khuyên hình tam giác nhọn. Cả hai đêu búi tó đỉnh đầu, đính mảnh khăn đỏ, chân viền kim tuyến, trông càng tôn vẻ uy tợn rừng xanh.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 179
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com