watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
08:01:1424/04/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Thất Chơn Nhơn Quả - Trang 3
Chỉ mục bài viết
Thất Chơn Nhơn Quả
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tất cả các trang
Trang 3 trong tổng số 10
Hồi 7
Đổ tộc trưởng Mã-Ngọc lập xá ước,
Đàm huyền-công, Trùng-Dương truyền toàn chơn


Nghĩa là:
Lo tiền cho tộc trưởng, Mã-Ngọc lập tờ xá ước,
Giảng huyền-công, Trùng-Dương truyền pháp toàn chơn.
Có bài kệ rằng:
Quang-âm mau lẹ chớ dần dà,
Danh lợi buộc ràng tợ lưới sa,
Muôn trượng từng sâu dời chơn bước,
Một tơ chẳng dính mới không ma.

Lại nói Mã-viên-ngoại y theo lời bà Tôn-Huyên-Trinh lo tiền cho mấy người đương quyền trong tộc rồi thì việc chi cũng phải xong. Khi đó Mã-Văn-Khôi liền sai người đi nói cho trong tộc biết việc viên-ngoại xá gia tài đó chẳng qua là làm kế giả. Mấy người trong tộc hỏi:
- Sao gọi là kế giả?
Đáp rằng: Lưu hổ thủ sơn chi kế!
Lại hỏi: Sao gọi là “Lưu hổ thủ sơn chi kế”?
Đáp rằng: Nghĩa là bắt hùm giữ núi. Vì viên-ngoại muốn vui việc thanh nhàn thong thả, nên cầm ông già ở đó đặng làm người tớ giữ của chớ chi lạ. Mấy người hỏi:
- Sao biết đặng cầm ông làm tớ giữ của?
Đáp: Viên-ngoại vì thấy ông người trung hậu, nên muốn cầm coi sóc cửa nhà mà sợ ông không lòng cần mẫn nên mượn thế xá gia tài cho ông. Ông nhận tưởng là sự thiệt nên buộc phải làm tờ xá ước. Viên-ngoại nghĩ không lập tờ cho ông, sợ ông không hết lòng gìn giữ, nên thỉnh bạn mình làm chứng cho ông vui, chẳng phải cầm cọp giữ núi hay sao?
Mấy người trong tộc nói: Xá cho ông thì như của ông rồi, ông làm sao không đặng quyền coi giữ?
Đáp: Phân hào cũng không dời đặng sao gọi của ông?
Mấy người hỏi: Sao biết phân hào không dời đặng?
Đáp: Ông là người phương xa, thân cô-lão, không có thân quyến, tuổi đã già, ăn đặng bao nhiêu? Chừng hai con mắt nhắm rồi thì cũng tay không, của quí về mình, chẳng phải mọi giữ của hay sao?
Mấy người nghe đặng cười lớn nói rằng:
- Ông ấy chết rồi gia tài của viên-ngoại, phần không con, lo gì chẳng về anh em mình. Nay làm như nước thả ghe, lấy nghĩa đưa tình cho vui lòng viên-ngoại cùng ông già; hoặc ngày sau có thiếu chút ít cũng dễ mượn chác. Nên lời tục có nói:
”Đương diện lưu nhứt tiếng, hóa hậu dị tương kiến”
Nghĩa là:
”Mình làm mặt chút tình, ngày sau dễ thấy nhau”
Mấy người nghe Mã-Khôi nói thảy đều vui chịu hết.
Có bài kệ rằng:
Lời hay chớ dụng nói ra nhiều,
Một tiếng đều nghi sóng gió tiêu,
Bằng chẳng chịu đưa đồ bửu-bối,
Lời hay có nói cũng không siêu.

Khi đó Mã-Khôi thấy mấy người chịu hết, nhứt định ngày hôm sau tề tựu. Bữa sau, trong tộc đều tới thấy Mã-Khôi cùng Mã-Long ngồi với Trùng-Dương tiên-sanh tại nhà giữa vừa nói vừa cười. Mã-Khôi biểu viên-ngoại làm thêm đồ tiệc đặng đãi anh em trong tộc. Hội đến đủ mặt ăn uống hồi lâu rồi Mã-Khôi nói: Nay viên-ngoại đem gia tài giao cho Trùng-Dương tiên sanh, vậy trong tộc có ai không chịu hay không?
Nói vừa dứt lời, thảy đều ứng thinh rằng:
- Anh em tôi y lời không có trở cách việc chi. Mã-Khôi biểu viên-ngoại đem tờ đọc cho trong tộc nghe. Viên-ngoại đem giao cho Mã-Khôi đọc rằng:
Tờ Xá Ước
“ Người lập tờ xá ước là Mã-Viên-Ngoại. Nay đem gia tài điền sản, bạc tiền vật kiện của tổ-phụ để lại, cùng gia nhơn tôi tớ trong nhà, đành lòng xá giao cho Trùng-Dương tiên-sanh làm chủ quản xuất, đặng phép tự do. Trong bổn tộc họ Mã, lớn nhỏ không đặng trái lời. Mã-Viên-Ngoại từ xá gia tài đến sau cũng chẳng đặng đòi lại, e nói miệng không bằng, phải lập tờ làm cớ, như ngày sau có ai tranh tụng thì Trùng-Dương tiên-sanh đặng phép thỉnh làng phân xử.”
Người trưởng tộc: Mã-Long, Mã-Khôi, Mã-Hiền, Mã-Đức, Mã-Dương.
Người làm chứng: Mã-Chiêu, Mã-Miên, Mã-Giám, Mã-Trấn
Người lập tờ xá ước: Mã-Viên-Ngoại thị thiệt.”
Mã-Khôi đọc rồi giao cho viên-ngoại mời Trùng-Dương tiên-sanh tiếp lấy, rồi biểu khai tiệc đãi ăn một lần nữa. Khi mãn tiệc rồi thảy đều về hết. Người sau coi tới chỗ nầy có làm một bài khen viên-ngoại xá gia-nghiệp dõng mãnh nên thành đạo cũng mau.
Bài thi tặng rằng:
Gia-tài xá hết mộ tu hành,
Một vật không còn, dục khó sanh,
Ngày nọ sớm đem lòng niệm hết,
Năm sau học Đạo rất mau thành.

Lại nói Mã-viên-ngoại thấy người trong tộc về hết, bèn mới tạ ơn khen bà Tôn-Huyên-Trinh rằng: Nếu không có bà chỉ bảo chắc khó đặng thành sự. Huyên-Trinh cười rằng:
- Phàm việc chi phải lẽ làm theo thì chắc đặng nên, gọi là tùy cơ ứng biến. Viên-ngoại hỏi:
- Việc đã thành rồi, còn học Đạo làm sao đi cầu? Huyên-Trinh nói:
- Việc học Đạo phải để chậm rãi, đợi thầy an dưỡng ít ngày, bọn mình đồng đến lạy thầy cầu Đạo.

Viên-ngoại cười nói:
- Phải, như vậy thì ta rán làm phương tiện.
Lại nói qua Trùng-Dương tiên-sanh một lòng muốn rước trong thiên hạ tu hành, đến đây tu chơn dưỡng tánh, sợ e xóm làng đàm tiếu thị phi. Vậy trước phải thí làm ân huệ cho người vui phục mới đặng yên ổn. Rồi từ đó đến sau, ông ra tiền bạc giúp người nghèo khổ, côi góa tật nguyền. Trong bổn tộc họ Mã có việc khiếm khuyết nhiều ít, ông thường trợ giúp: hoặc trai không tiền cưới vợ, kẻ góa không chồng, bịnh hoạn, ông đều cấp dưỡng cho mượn không đòi. Thiệt ông người có nhơn nghĩa, trong ngoài đều đặng an tịnh, trên dưới đều nhờ, trộm cướp không có một người, ông muốn làm việc chi thì trong họ Mã không ai dám cãi; lại chiêu tập người ở đó học Đạo giảng huyền, cũng không ai dám thị phi. Vì ông làm việc có lý, trọn trước trọn sau, ai cũng đều nhờ ông mà nên việc, bởi vậy không có một người bày việc chẳng phải với ông, hết lòng kính phục.
Nay trong thiên hạ những người có phước, hoặc giàu sang đừng ở khắc bạc, phải mở lòng rộng lượng mà thi ân bố đức cho người, thì cũng như ông đặng trọn lành, chẳng nên tham tiếc. Người coi đến đây, dẫu kiên-lẫn bực nào cũng phải thể theo chút ít.
Có bài kệ rằng:
Khắc bạc làm sao việc đặng thành,
Thị-phi bày nói chắc liền sanh,
Bằng không Vương-lão thi ân sớm,
Sao đặng nhiều năm hưởng thái bình.
Lại nói Trùng-Dương tiên-sanh đã thi ân rồi lại còn sửa soạn ở trong, lập 12 cái mao-am (nhà tranh) ở sau huê viên cho người tu tịnh dưỡng, mọi việc đều xong. Tiên-sanh dời ở tại mao-am công phu luyện đạo. Bữa nọ Mã viên-ngoại cùng Tôn-Huyên-Trinh đến mao-am cầu tiên-sanh học Đạo. Tiên-sanh nói: Đạo là đường giác tỉnh, dẫn người qui về chỗ chánh mà ra khỏi đường mê. Nhưng mà phải do cạn tới sâu, do thấp mới đến cao, y theo thứ tự, sau mới đặng thành công. Phàm học Đạo trước phải luyện Tánh tập sửa cho thuần hậu, vì cái Tánh gốc ở Tiên-Thiên, nên phải luyện cho tròn sáng mới có chỗ diệu dụng.
Nhơn cái Tánh nó liền với cái Tình. Tánh Tình động ra như cọp giao chiến, bằng chẳng luyện cho nó giáng phục, làm sao trừ đặng Tánh dữ mà qui về chỗ “Hư Không”? Người muốn luyện Tánh phải để cho lặng lẽ tự nhiên chẳng biết chẳng hay, không người không mình; tuy ngồi chớ không hiểu là ngồi tại đâu, cứ lo chăm-nom “Chủ-Nhơn-Ông” mà thôi, làm như vậy mới đặng vào chánh pháp.

Còn luyện giáng long phục hổ, thì phải khóa con Tâm-Viên, buộc con Ý-Mã; thường giữ không cho nó chạy ra, đem về chỗ thanh tịnh, đặng mà đoạt máy tạo hóa của Trời Đất, lẽ diệu khí của âm dương. Hễ tịnh đặng thì các việc lo phiền đều tiêu, các mối trần phải dứt: một niệm chẳng sai. Nếu tùy ý nó thuận hành làm theo thì làm phàm; còn noi theo Thiên-lý lấy lẽ tự nhiên của Trời Đất mà đoạt đặng khí âm dương, đem vào hiệp với thân mình, kêu là nghịch lý mà đặng thành Tiên thành Phật. Nên có câu:
”Sát sanh thăng thiên-đường, phóng sanh sa địa ngục”.
Nghĩa: sát sanh là sát cái phàm tâm, chẳng cho vọng các điều quấy thì siêu về Thiên-đường. Còn phóng sanh là để cho cái phàm tâm làm chủ sai khiến, dẫn vào nẽo bất lương; sử tánh tung hoành bỏ đường đạo-đức, thì tự nhiên phải sa địa ngục, nên người tu phải sửa trong lòng không một mảy tạp niệm, đừng có một điểm ma chướng, chẳng dính một vật hư tệ, mờ mờ sáng, không có một chút bụi trần, gọi là nói đại lược chỗ Đạo. Còn chỗ sâu nữa chẳng khá bày tên trạng, duy có: Tâm lãnh Thần hội mà thôi (chẳng khá tiết lậu), đợi hai người tấn bộ tôi sẽ chỉ điểm cho.
Bữa nọ hai người sắm lễ xin cầu Đạo, viên-ngoại được đặt pháp danh là Đơn-Dương; Tôn-Huyên-Trinh là Bất-Nhị, đều lạy tạ ơn thầy, rồi đồng trở về. Tôn-Bất-Nhị nói cùng Mã-Đơn-Dương rằng:
- Khi trước chưa cầu thầy học Đạo thì mình là vợ chồng, nay đã đồng một thầy, học một Đạo thì như anh em đạo hữu. Để tôi kỉnh anh bằng sư huynh, anh kêu tôi bằng đạo-hữu, cũng như em. Bổn phận người học Đạo phải tuyệt tình dục ân ái, phân phòng ở riêng, sư huynh chẳng đến phòng tôi, tôi cũng chẳng vào phòng sư huynh hoặc có việc chi thương lượng phải sai tôi tớ đến thỉnh, hội tại công đường mà minh biện.
Mã-Đơn-Dương nói rằng:
- Y lời đạo hữu,tôi nào chẳng nghe, đạo hữu có lòng chơn tôi cũng có ý thiệt. Hồi không biết, mê muội thì thôi, nay đã đến Phật-tiền đồng lập nguyện qui-y, là linh-sơn cốt nhục rồi, đâu còn dám vọng lòng tà. Tôi đặng nghe thầy nói: Mình hồi trước là thập-nhị lão-mẫu mà xuống đây, vì niệm tính sai lầm, sanh nam dục nữ, thiệt nhắc đến thôi càng hổ thẹn cho thân! Xin đạo hữu an lòng.

Đơn-Dương nói dứt lời kêu Mã-Hưng dọn mùng mền trước phòng Tây-lang. Mã-Đơn-Dương từ Tôn-Bất-Nhị ra trước an nghỉ. Người sau có bài kệ khen hai ông bà phân phòng dõng mãnh nên sau thành Đạo cũng mau. Kệ rằng:
Đại-Đạo nguyên lai chẳng luyến tình,
Luyến tình đâu đặng Đạo là minh,
Chỉnh coi Mã-Tổ đương khi đó,
Chồng vợ phân phòng ý phải tin.
Khi đó bà Tôn-Bất-Nhị cùng ông Mã-Đơn-Dương đã phân phòng được hơn nữa tháng. Bữa nọ bà kêu tớ nữ thỉnh Mã-Đơn Dương đồng đến mao-am học Đạo. Đơn-Dương nghe nói cùng Tôn-Bất-Nhị đến mao-am đồng xin cầu hỏi tiên-sanh rằng: Bữa trước thầy nói: Cái Tánh là gốc tại Tiên-thiên, xin thầy dạy cho trồng tại chỗ nào? Trùng-Dương đáp:
- Tiên-thiên là khí hổn-độn chưa mở, không có Trời Đất, người vật, không sắc, không thinh, chẳng hay chẳng biết. Có chỗ nào mà trồng đặng! Như nói trồng đó là chẳng phải Tiên-thiên việc có trồng thì nó mất chỗ mối hay, bằng nói Tiên-thiên có chỗ trồng là chỗ tướng về việc hữu hình, hễ theo tướng thì phải mất Tiên-thiên. Người nói Tiên thiên tại chỗ đó là không phải. Chỗ Tiên-thiên xét đi nghĩ lại thiệt không có vật chi hết. Nếu đem chữ nhứt mà nghĩ nghị đừng nói chữ nhứt là Tiên-thiên. Chữ nhứt nguyên cũng chẳng phải. Trò muốn biết lẽ Tiên-thiên, đem cây viết cùng ta biện rõ ràng. Tiên sanh lấy viết bày rõ mối Tiên-thiên.
Tánh là Tiên-Thiên vật rất linh,
Biết luyện Chơn-Tánh là Tiên-Thiên.

Hồi 8
Đàm Tiên-thiên trinh nhứt diệu lý,
Trừ ma-căn bất nhị pháp môn

Nghĩa là:
Nói việc Tiên-thiên tinh ròng lẽ diệu,
Trừ ma-căn pháp môn chẳng hai.
Có bài kệ rằng:
Ngoài ý cầu Tiên việc chẳng sai,
Bóng trăng trong nước, cảnh trong hoa,
Tiên-thiên diệu lý trò biết chớ,
Chỉnh tại một mình chớ khá khoe.
Khi đó Trùng-Dương tiên-sanh nói với Mã-Đơn-Dương cùng Tôn-Bất-Nhị rằng:
- Vì Tánh là vật của Tiên-thiên, tròn huyền huyền, sáng rỡ rỡ, tuy có tên mà chẳng có hình, chẳng biết chẳng hay, khó vẽ khó họa, nào có chỗ trồng! Ta nay cùng trò gắng gượng mà vẽ cái hình tượng trò phải hiểu biết. Trùng-Dương nói rồi liền lấy cây viết lại ghế sơn đỏ vẽ một vòng rồi một vòng nữa, trong vòng sau chấm một điểm. Vẽ rồi hỏi Đơn-Dương cùng Bất-Nhị:
- Hai người có biết nghĩa đó chăng? Đơn-Dương và Bất-Nhị thưa:
- Đệ tử tâm tánh ngu muội chẳng thấu, xin thầy chỉ dạy. Trùng-Dương tiên-sanh nói:
- Ban đầu một vòng hỗn-hỗn độn độn, giống như Trời Đất chưa phân, nhựt nguyệt chưa có, tên là “Vô-Cực”. Rồi trong chỗ Vô lại sanh ra một điểm tên là “Thái-Cực”, một điểm đó mà sanh ra Trời, sanh Đất, sanh người, sanh muôn vật. Nên Tiên-thiên do Thái-Cực mà sanh một điểm, ấy là cái Khí, gọi là Tiên-thiên nhứt-khí, ai muốn khỏi luân-hồi phải tìm chỗ đó.

Nhơn cái Tánh tùng Tiên-thiên mà phát, phát ra trước khi chưa có cái thân cho đến cái thân mất. Bởi một điểm linh tánh là căn bất sanh bất diệt, kêu là “Linh-Tánh”. Linh-Tánh ai cũng có, tại người phàm bỏ quên thì nó phải mê, mê thì bổn tánh khiến vọng niệm đều sanh, rồi tà khí niệm ma nhập vô trong. Như bỏ không giữ gìn, ngoại ma tới phá, mất chỗ Tiên-thiên nó khiến không cho nghe đặng Đạo, nó cướp quyền làm chủ, hễ ai bày việc danh lợi, tài sắc, tửu khí, thì nó đến mê-man không dứt. Than ôi! Người mộ Đạo không mấy ai; còn người học Đạo chẳng tin thiệt, không chịu nghe dạy. Bằng người tu Tiên-thiên bèn lập chí gia công chẳng mỏi thì tùy chỗ “Tâm lãnh thần hội” mà luyện lâu ngày ắt đặng hiệu nghiệm. Nếu lấy chỗ nhơn tâm mà hỏi Tiên-thiên thì Tiên-thiên chẳng khá đặng vậy! Phải dùng Đạo-Tâm mà hỏi Tiên-thiên, thì Tiên-thiên ở tại trước mắt.
Còn cái nhơn-tâm nó hay ám muội tham cầu, kêu là: “Thức thần đương quyền”. Đạo-Tâm là Thiên-Lương phát hiện, kêu là: “Nguơn-Thần chủ sự”. Như người tu đặng phát hiện cái “Tâm thiên-lương” thì chỗ Tiên-thiên chẳng cầu cũng đặng. Nhưng mà ban đầu phải trừ cái bịnh, trừ bịnh là chẳng phải trừ bịnh “Ngoại-cảm, phong-hàn, thử-thấp”. Trừ là trừ cái bịnh Tham, Sân, Si, Ái. Mấy thứ bịnh đó trừ đặng thì trăm bịnh chẳng sanh, thêm tuổi sống lâu, đặng thành Tiên Phật, làm Thánh làm Hiền. Nay ta đem bộ công-phu truyền cho hai trò, phải gắng sức mà làm đó!
Còn việc Đạo trừ bịnh, phải trừ chỗ bịnh căn, tìm cho đặng chỗ gốc thì cái bịnh chẳng khó trừ, vì cái bịnh phần nhiều bị trong chỗ tham muốn, giận hờn, ganh ghét, thương yêu, ái dục, mấy chứng mà ra. Lại thêm tửu, sắc, tài, khí, mà cảm vào trong ngũ-tạng hết mấy phần, nên người tu hành trước phải trừ tửu, sắc, tài, khí, khử trừ ngoại cảm cho sạch, sau tuyệt chỗ sân-si, ái dục cho hết bịnh nội thương. Hễ tầm đặng bịnh căn, các vật chất đều hết, rồi sau mới tu trường-sanh, tìm chỗ chẳng chết. Chẳng chết là Chơn-Linh chẳng chết, chớ không phải xác thân không chết, nếu không biết thì Tánh-Mạng cùng xác thân đều chịu trầm luân.
Còn ta nay chỉ việc rượu mà nói: nếu người biết rượu là hại cho đạo, phải thề mà trừ nó; bằng như thấy rượu còn thèm thì lấy chỗ giới luật mà giữ, hoặc người biểu uống, hoặc thấy người uống mà ý còn vọng tưởng, tuy là chưa uống mà ý muốn uống thì cũng như uống rồi, đó là bịnh căn rượu. Như muốn trừ bịnh rượu cho dứt thì khi mới khởi ý ra phải trừ liền, lẽ nào chẳng sạch cái căn rượu?
Còn việc sắc hay làm hư hại cho đạo hoặc tồi bại trong qui trình, hao mòn thân thể, lại hổ thẹn với đời. Như muốn trừ nó phải thệ mà trừ, bằng thấy sắc mà muốn tưởng, thì lấy chỗ giới luật mà giữ; hoặc nó lấy lời quyến-mị, yểu điệu đưa tình, trêu người giỡn cợt, mà trong ý muốn động, có tình thương mến, tuy là chưa thông với nhau mà cái ý tình khởi ra thì cũng như thông rồi. Đó là bịnh căn chỗ sắc còn ẩn tại nơi trong! Như muốn trừ nó, khi mới khởi tình ra thì phải trừ liền, mới đặng sạch dứt căn ái-dục.

Còn tỏ cái căn chỗ Tửu-Sắc nó cũng hay ẩn trong chỗ Tâm Ý. Muốn học Đạo mà khử cái bịnh căn các thứ ấy, trước phải chánh cái Tâm, sau thành cái Ý, thì bịnh căn tiêu dứt. Như bịnh căn chẳng dứt do nơi mình Tâm Ý chưa chánh vì chưa quyết thoát trần, nên Tâm Ý hay nương náu theo hoài, còn phát một niệm, tuy chưa uống mà ý muốn uống, tuy chưa thông mà tình muốn thông. Thiệt là trước khi không có tưởng, nhơn bị ngoại cảm sẵn trước nó động vô trong, ví như bóng trăng trong nước, lấy đá quăng động nước thì trăng cũng xao động. Tuy không phải thiệt mà hình ảnh giao-động, thì Chơn Đạo chẳng đặng thành vậy.
Như nay ngươi muốn cầu dứt bịnh căn ấy thì Nho có dạy: Phi lễ vật thị, phi lễ vật động. Nghĩa là: Chẳng phải lễ chẳng ngó, chẳng phải lễ chẳng động. Thích có phép: Vong nhơn, vong ngã, vong chúng sanh. Là: Quên người, quên mình, quên chúng sanh. Còn Đạo có phép: Thị chi bất kiến, thích chi bất văn. Là: Coi đó chẳng thấy, nghe đó chẳng hay. Ba lời ấy là thuốc trừ bịnh căn tửu sắc. Lữ-Thuần-Dương 0 nói: “Kiến sắc như đồng kiến hổ”, là “Thấy nữ sắc sợ như thấy cọp”, chẳng dám ngó lâu, hễ ngó lâu thì nó đoạt cái Linh-Tánh. Xưa nay từ vua đến dân, lắm kẻ vì sắc mà hư. Dân vì sắc mà lụy thân, quan vì sắc mà hư danh, giàu vì sắc mà hết nhà, vua vì sắc mà mất nước, không hạng nào đắm sắc mà khỏi hại. Vì vậy Thánh-nhơn đặt chữ sắc có chữ đao ở trên, đao ấy giết người không thấy máu.
Nói qua việc tiền của lại càng khó hơn nữa. Trong mấy người tu cũng có người đạo duyên chưa quyết mà vì nhà nghèo khó không thể đua tranh với đời trong việc ăn mặc tốt xấu sang hèn, nên đi tu là làm kế đỡ. Có người vì thất vọng mới nương vào cửa Phật, kỳ thật không hiểu, không minh cái Đạo, vì không minh cái Đạo mới có người tuy là tu mà còn trau giồi bản dạng, quần áo nhởn nha, lấy chỗ giàu sang mà khoe ruộng vườn nhà cửa; chơi bời lanh xảo, thường đứng trong trường danh lợi đua chen. Có người khắc bạc tính toán, giạ già cân non mà cầu lợi. Đã muốn cầu danh lợi, tình dục, ruộng đất, tài sản, điểm trang son phấn, tranh việc thị phi mà lại muốn thành Phật thành Tiên! Những người ấy mà cũng tới học đạo, thật khá buồn thay!
Còn nói qua chữ Khí, người tu cũng phải có, mà lại nhiều người chưa bình đặng cái khí can, ít ai giữ cái khí chánh, ít ai biết dưỡng tính, chế cái khí giận, khí nóng hoặc lộ trên mặt mà sanh việc giận hờn; hoặc ưng theo trong lời nói mà sanh việc hơn thua, yếu mạnh, vì cái Khí chớ không phải vì Lý. Như vậy đâu có dưỡng đặng chỗ “Khí hạo-nhiên”, thì làm sao mà siêu phàm nhập Thánh? Những người như vậy đã muốn các việc tranh đua chen lấn, một mảy cũng không chịu nhục chịu thiệt, mà lại cũng muốn học Đạo, thành Phật, thành Tiên, há chẳng thương thay!
Nay như người muốn cầu cái phép dứt tuyệt đặng trở nên người đức hạnh, thì Nho có dạy: “Chẳng nghĩa mà giàu sang, ta coi như mây nổi”. Còn nói giữ cái chí đừng có nóng cái khí. Hễ giận lễ nghĩa thì cũng giận, mà xuất lời ra cho nó nghi-tiết dùng qui-trình mà nói, đặng sửa chỗ quấy mà trở về chỗ chánh. Còn giận khí huyết thì chẳng nên giận. Giận khí huyết là không đáng chuyện giận cũng giận; hoặc việc nhỏ mọn cũng tìm ra mà giận nên người tu lấy chỗ bình hòa, nhẫn nhịn mà xử. Đó là khinh tài dưỡng khí!

Đạo Thích nói: “Chẳng chịu thọ phước đức của người; chẳng chịu dùng tiền bạc của người, đặng thành việc nhẫn, cũng là khinh tài dưỡng khí”. Còn Đạo Tiên nói: “Biết trừ tham lam, hiền lòng dằn khí, đó là trừ chỗ bịnh căn tài khí”. Như người tu muốn trừ bốn vách ấy, thì trước phải quyết chí chặt đứt căn bịnh, phải chánh chỗ Đạo-Tâm. Nên Nho tại chỗ Tỉnh — Thích tại chỗ Giác — Đạo tại chỗ ngộ — Nếu đặng tỉnh, giác, ngộ thì trong thiên hạ việc gì cũng coi thấu cả.
Trùng-Dương tiên-sanh giảng cái lý trừ bịnh rồi, Mã-Đơn Dương cùng Tôn-Bất-Nhị lại hỏi việc công phu, tịnh dưỡng dùng phép làm sao?
Trùng-Dương nói:
- Trước phải ngồi Tịnh, các việc quên hết đặng niệm chỗ “Tổ khiếu”. Hễ phàm tâm tử thì Đạo-tâm sanh. Ngồi niệm cho dày, mở bớt dây lưng nút áo. Giờ Tý, ngồi ngó ngay hướng Đông, 2 chơn kiết-già, sửa ngay thẳng, 2 tay chắp lại, khấu xỉ giáng cam lồ, bắc cầu lên trời, lỗ tai nghe vô trong, âm dương hội hiệp, để cái rèm xuống, đem thần quang trở soi đơn-điền, kêu là tịnh tọa công phu, phải đừng vọng niệm. Nếu như còn ý tán loạn thì chơn-thần chẳng thuần dương, mà việc công phu cũng khó thành.
Còn nói ngồi niệm cho dày, đặng rán ngồi lâu, cái thân không mỏi. Còn mở nút áo cùng dây lưng cho khí nó vận chuyển thông hành đều đủ. Chờ giờ Tý là lấy chỗ dương khí phát sanh. Ngồi ngó ngay hướng Đông là đoạt chỗ thanh khí. Ngồi kiết-già là thâu dưỡng thần khí, tay ấn chỗ vô danh đặng quên các điều hình thể. Sửa mình cho ngay thẳng đặng các chỗ đều thông hơi không bít; môi răng khấu nhau cho chỗ trùng lầu không hao khí. Miệng là chỗ khí hơi, hễ miệng hở thì khí tan, nên phải bế lại. Lỗ tai nghe vô trong vì lỗ tai thuộc thận, nếu nghe tiếng nói thì hao tinh, nên phải nghe vô trong chẳng nghe ra ngoài.
Còn âm dương hội hiệp là chẳng cho mờ tối, con mắt là tổ khiếu của thần, hễ nhìn ngó sắc lâu thì thần theo sắc mà tán, như đặng quang minh thì thần đặng tròn sáng, còn nhắm lại thì thần phải mê muội. Còn bỏ cái rèm xuống là chẳng tối chỗ thần quang. Tự trên huyền cung trở chiếu chỗ đơn-điền, cũng như nhựt nguyệt trên trời sáng tỏ, mà soi thấu muôn vật, sanh đặng các loài. Còn ít nói cho khí tụ, thì hơi không lậu ra, bớt lời, bớt việc, là dưỡng đặng chỗ tinh. Như tinh không lậu ra lỗ tai, không điều sắc tướng, mà ngưng thần, thần không lậu nơi con mắt, các việc đều không, cho nên kêu là: “Vô-Lậu Chơn-Nhơn”.
Tiên-sanh giảng Đạo rồi nói: Việc đó là công phu rất hiệu. Như hai người muốn vào cửa Đạo chẳng khá gọi việc đó là tầm thường! Phải gắng công kiên cố ngày giờ thì mới có hiệu nghiệm. Bằng như dãi đãi thì lầm chỗ đường đi. Tiên-sanh nói dứt lời liền ra ngoài chỉ việc công phu (ai có căn đi tìm mới biết việc công phu).

Lúc nọ Mã-Đơn-Dương nghe hết mấy lời thấu đặng chỗ huyền-diệu liền quì lạy từ thầy trở về chỗ cũ, y phép làm theo lâu ngày đặng thấy ứng nghiệm, rồi cũng tưởng Đạo có bao nhiêu mà thôi; chẳng đến mao-am học hỏi, cứ giữ một điểm công phu làm hoài. Cách hơn một tháng, Mã-Đơn-Dương ngồi tại phòng công phu, xảy đâu thấy Trùng-Dương tiên-sanh đến. Đơn-Dương lật đật tiếp vào. Trùng-Dương ngồi xuống nói rằng:
- Đại-Đạo thiệt không cùng, lấy cũng chẳng hết, nói cũng chẳng xiết, phải sửa cho các chỗ đều không, chẳng khá chấp một mối, thành tâm theo Đạo hết lòng cải đổi mới đặng có ích thân tâm. Đạo chẳng tìm chẳng gặp, chẳng hỏi chẳng biết, học chẳng thấu chẳng thành. Hễ người có Đạo thì một giờ một khắc chẳng rời thân mình, một bước một lời thường giữ trong lòng, tỉnh hoài chẳng muội, niệm niệm đều chơn. Sao gọi là chơn? Hễ người có Đạo thì giờ khắc không quên, một mảy tư dục chẳng có, gọi là chơn. Như vậy mới thiệt là theo Đạo. Nên thầy Nhan-Hồi có câu: “Đắc nhứt thiện huyền huyền phụ ưng”. Nghĩa là: Nghe đặng Đạo giây phút không rời.
Còn việc lỗi phải cải phải trừ. Hoặc có bịnh tại chỗ tư (1) phải lấy chỗ công tâm mà trừ; hoặc bịnh chỗ ý dục (là chỗ muốn) phải lấy Đạo-tâm mà trừ chỗ muốn đó. Bịnh chỗ tà vạy phải lấy chỗ lòng ngay mà trừ chỗ chẳng ngay. Còn bịnh kiêu ngạo phải lấy việc nhún-nhường mà trừ, hễ bịnh khởi chỗ nào thì phải hiện phát trừ trị, chẳng đặng dung chế. Nên cần việc công phu cũng vậy, hễ khởi đâu giác đó, giác đặng phải quét, quét liền cho sạch, thì tự nhiên trong lòng đặng vui vẻ. Tỷ như gió mùa Xuân, vạn vật đều phát vượng, sáng như trăng tỏ, tươi nhuận như trời đất, thanh tịnh cả núi non, lần lần khí đầy đủ, mặc niệm vận hành chừng một năm, đủ đầy trong tam-bửu! Như như chẳng biết chẳng hay thì đại-đạo đặng thành. 0.

Lại nói bà Tôn-Bất-Nhị ngồi một mình trong phòng công phu, xảy thấy Trùng-Dương tiên-sanh giở màn ngoài cửa bước vô. Tôn-Bất-Nhị giựt mình đứng dậy, vừa muốn hỏi, lại thấy thầy cười nói rằng:
- Đạo lý tinh vi, huyền-diệu không cùng trong mình thông đủ, muôn mạch chầu về một mối, phải tự nhiên làm đi, mới có công hiệu. Như trò ngồi cô đơn một mình thiệt là không ích! Há chẳng nghe một âm chẳng sanh, một dương chẳng trưởng. Nếu trò ngồi như chết thì âm dương chẳng đặng thông nhau, làm sao mà kết thai đặng? Ta nói cho trò biết: muốn âm chẳng lìa dương, dương chẳng lìa âm, đây chẳng lìa đó, đó chẳng xa kia...
Trùng-Dương mới nói mấy lời, Tôn-Bất-Nhị mặt đỏ phừng phừng, lật đật giở màn ra ngồi trước nhà, kêu tớ gái là Thu Hương đi thỉnh ông Đơn-Dương nói chuyện. Thu-Hương thấy bà giận, chẳng dám chậm trễ, mau đến trước thỉnh ông.
Lúc ấy, Đơn-Dương đang nghe tiên-sanh giảng Đạo, xảy thấy Thu-Hương chạy tới thưa rằng: Không biết việc chi bà giận ngồi tại trước nhà, sai tôi mời ông cho bà nói chuyện. Đơn Dương nghe nói thưa thầy rằng: Cho đệ tử đi một chút trở lại. Trùng-Dương tiên-sanh gật đầu.
Chẳng hiểu lý nầy cùng lẽ nọ,
Nên khởi lòng nọ với lòng kia.
_________________________________________________
( 1) Chỗ tư là người tu ở chùa cũng như gởi thân cho Phật, ăn cơm chùa thì phải lo việc Phật, đặng đến ngày qui thiên mà về Phật lãnh công quả của mình làm ngày trước, chớ mình tu ở chùa mà lo làm việc riêng, thì chỗ nào là công? Dẫu không tu cũng vậy, hễ làm việc nhà nước thì lo việc nhà nước, chẳng đặng ăn lương mà lo việc nhà mình.

Hồi 9
Vương-Trùng-Dương phân thân hóa độ,
Tôn-Bất-Nhị phẫn nộ thủ sư

Nghĩa là:
Vương-Trùng-Dương biến thân mà hóa dạy,
Tôn-Bất-Nhị không hiểu chẳng phục thầy.
Có bài kệ rằng:
Ta độ chúng sanh học chơn truyền,
Không không có có khó trau liền,
Biết là Đại-Đạo không xa viễn,
Người chẳng lòng cầu tại thất duyên.
Khi đó Mã-Đơn-Dương nghe Thu-Hương nói Tôn-Bất-Nhị ngồi trước nhà giận hung, liền xin thầy ra đi, coi thử Tôn đạo hữu kêu việc chi. Mã-Đơn-Dương đến nhà trước thấy bà ngồi giận đỏ mặt, liền cười mà nói rằng: Đạo hữu giận việc chi? Hay là tôi tớ có phạm lỗi điều chi không vừa ý? Thôi, mình làm chủ phải cho có độ lượng, dung kẻ dưới tay, chẳng vì nó mà phiền giận! Tôn-Bất-Nhị đáp rằng:
- Sư huynh không rõ, tôi tưởng Vương Trùng-Dương là người có đạo-đức, ai dè người không chánh, mới vào phòng tôi nói việc khó nghe, tôi không học nữa. Đơn-Dương cười rằng:
- Thầy đến phòng đạo hữu hồi nào? Tôn-Bất-Nhị nói:
- Còn ở trong phòng! Đơn-Dương cười rằng:
- Đạo hữu chắc là chiêm bao? Thầy từ sớm mai đến giờ giảng đạo-đức với tôi, giây phút không rời, còn đang tại phòng tôi. Lúc Thu-Hương đến mời cũng thấy. Đạo hữu không tin hỏi Thu-Hương coi có hay không. Tôn-Bất-Nhị chưa kịp hỏi, Thu-Hương liền nói:
- Hồi tôi thỉnh ông có nghe thầy đương giảng việc trời đất hay lắm. Ông ra đi với tôi thì thầy còn ở lại đó. Tôn-Bất-Nhị nghe nói cúi đầu làm thinh. Mã-Đơn-Dương sợ thầy đợi lâu trở ra không nói với bà nữa, chừng ấy Tôn-Bất-Nhị trong lòng phiền giận thầm rằng: Tưởng đi thỉnh sư huynh đặng bày tỏ việc thầy cho ông nghe, ai dè nói việc như không, bà buồn bực chẳng vui, liền trở vào phòng.
Cách hơn một tháng, Mã-Đơn-Dương đến mao-am cùng thầy học Đạo. Trùng-Dương tiên-sanh biểu trò ngồi rồi nói:
- “ Than ôi! Trên đời người tu hành học Đạo, hoặc vì mặt mà tu, vì miệng mà tu, đều thất xa lắm. Đối với Đạo không có một hào ly chi hết. Lại có người tu tại con mắt, lỗ tai, miệng, bụng, các việc đều phép hữu vi, mất chỗ thể đạo chơn; lại có người theo bàng môn giả dối, tu luyện ham những phù huê (hữu hình) mà định tịnh chẳng biết. Lại có người tâm chí quyết tu mà sức độ lượng yếu, thảy đều có bịnh. Bởi bịnh ấy là tại nơi dung vị hoặc thái-quá bất-cập đều chưa đặng chỗ tự nhiên; hoặc vui chỗ nầy, vui chỗ kia, tới một tấc, trở lui một trượng. Vì phàm tâm chưa dứt, đạo tâm chưa minh, chưa ngán thấu chỗ tình tục, nên ăn mặc còn sợ tốt xấu, danh tiếng tài hay, cùng vàng bạc, cửa nhà, ruộng đất không người hay biết. Các điều ấy chưa đặng cách tục mà lại muốn học Đạo cầu phước, thong thả an nhàn! Có khi than nghèo cực mà lại hay xài phí, tư dục không quên, vì coi chẳng thấu cuộc đời, để cho nó khiến như vậy thì chẳng khá gọi là Đạo!”

Xét lại, mỗi người đều có cái Tánh chơn, biết tu chỗ Đạo thì thành đến bực Phật Tiên. Nhơn vì chẳng cách việc trần, không riêng thế tục, nên cái Đạo chẳng tỏ, chẳng minh. Như muốn cầu theo về Thiên-Đường thì phải món món đều khác, chẳng giống người thường, trong ngoài đều tu hết, mới gọi là có Đạo-tâm”.
Tiên-sanh cùng Đơn-Dương giảng Đạo, thầy trò nói tự thỉ chí chung, tâm đầu ý hiệp như vậy thì làm sao mà đạo không thành!
Lại nói qua bà Tôn-Bất-Nhị ngồi trước nhà bị ông Mã-Đơn Dương nói bà nằm chiêm bao mấy lời rồi làm thinh, trong lòng chẳng phục ý ông. Nếu nói mình chiêm bao thì không lẽ. Thiệt thấy rõ ràng thầy vô nói rành rẽ bên tai tôi, sao lại nói thầy ở tại phòng không dời động giây phút? Thiệt là nghĩ không ra. Suy nghiệm một hồi rồi trở vào phòng. Bữa nọ bà đương ngồi công phu, lại thấy Trùng-Dương dở màn bước vô cười rằng: Đại-Đạo chẳng phân nam nữ, lìa tránh âm dương Đạo chẳng thành.
Tôn-Bất-Nhị thấy vậy nhượng cho thầy ngồi, mình trở ra đứng ngoài cửa hỏi rằng:
- Thầy sao không ở tại mao-am mà công phu? Vào đây làm chi? Trùng-Dương nói:
- Vì trò bỏ chỗ Tạo-Hóa lư, ngồi tịnh cô đơn, khí hải khô. Có câu: “Con gái không chồng là hoán phụ, con trai không vợ là khoán phu”. Ta nói rõ cho trò biết: Một âm một dương chẳng khá dang cách; âm dương phối hiệp thì việc ắt chánh lý. Có câu: “Tây gia nữ, đông xá làng”, nghĩa là: Âm dương hội hiệp mới nương nhau đặng. Vậy thì hai đàng khá chỗ động phòng, hai tám mới về nên giao cảm, kết thánh-thai dựng tại bên thân. Mười tháng công phu ôn dưỡng, sản xuất anh-nhi mạnh hơn người. Trò phải y theo lời làm như vậy, thì đặng về Thiên-Cung chầu Ngọc-Đế.
Tôn-Bất-Nhị nghe mấy lời chẳng nói, liền khóa cửa lại, đi đến trước kiếm Mã-Đơn-Dương nói chuyện đó cho ông nghe. Đi đến thấy cửa phòng của ông đóng chặt, hỏi người tớ là Mã Hưng, Mã-Hưng nói:
- Viên-ngoại và tiên-sanh mắc giảng đạo tại mao-am. Lúc đó Trùng-Dương đang nói:
- Lòng người phải bớt, lòng Đạo phải chơn; vùng cười, chỉ Mã-Đơn-Dương mà rằng:
- Trò mau đi ra coi có người kiếm ngoài trước. Đơn-Dương nghe thầy nói có khách đến liền từ thầy ra coi. Đến nhà trước gặp Tôn-Bất-Nhị rồi bà níu áo Đơn-Dương nói rằng:
- Sư huynh lại đây mà coi. Đơn-Dương hỏi:
- Coi việc chi? Tôn-Bất-Nhị nói:
- Đừng hỏi, đến đó sẽ rõ.

Đơn-Dương theo đến thấy cửa khóa, Tôn-Bất-Nhị mở khóa biểu Đơn-Dương vô mà coi, Đơn-Dương không biết việc chi, cũng bước vô ngó bốn phía, thấy mền mùng ghế đẳng y nguyên, không có chi lạ, liền hỏi Bất-Nhị rằng:
- Đạo hữu biểu tôi vô có việc chi? Bà nói:
- Coi thầy của sư huynh ở trong phòng tôi đó! Đơn-Dương nói:
- Đạo hữu nói không sợ tổn đức; thầy cùng tôi giảng đạo tại mao-am không dời một bước, thầy nào vào đây?
Bất-Nhị nghe nói không tin, bèn vô giở mùng mền kiếm coi, cùng không thấy ai hết, liền nói việc quái lạ!
Mã-Đơn-Dương nói:
- Có chi mà quái lạ. Tôi biết rồi, tại vì đạo hữu không cần công phu đặng thâu cái phàm tâm cho dứt, cứ lo chuyện ngoài hoài, nên sanh ma chướng như vậy. Tôn-Bất-Nhị nói:
- Sư huynh nói việc gì đâu? Tôi bình sanh không có tạp niệm ma chướng, một lòng tịnh dưỡng nào có vọng tưởng điều chi? Lần nầy là hai lần, thầy đến phòng tôi rõ ràng, tiếng nói bên tai mấy lời còn nhớ, nào có phải vọng ma. Đơn-Dương hỏi:
- Thầy nói việc chi, thuật lại tôi nghe.
Bà đem lời thầy vô phòng hai lần thuật cho ông nghe. Đơn-Dương cười rằng:
- Thiệt đạo hữu thông minh một đời, mà lầm sai một thuở. Vì Đạo chẳng phải thông minh mà đặng nên, việc mình muội tánh. Bất-Nhị hỏi:
- Sao gọi là muội tánh? Ông nói:
- Vì người học Đạo phải để tâm hạ khí, chẳng hổ học hỏi người dưới. Như vậy một bước lại thêm một bước, đi xa càng hiểu đường dài, lấy mười đếm trăm, thêm trăm đếm ngàn. Thiệt việc Đạo chí quí chí trọng, nói không xiết kể. Đạo hữu mới đặng chút huyền công, tưởng là Đạo có bấy nhiêu mà thôi, mỗi ngày cứ giữ quyết cái phòng của đạo hữu, ngồi hoài khô tọa, chẳng minh lẽ âm dương, không hiểu cơ tạo-hóa, chẳng chịu đến trước thầy mà học hỏi, để nghi tính nam nữ phải cách biệt, chấp lòng nhơn ngã. Bởi thầy thấy đạo hữu giữ quyết một việc sợ sau chẳng đặng liễu đạo, thầy muốn ra chỉ đạo cho đạo hữu, vì sợ chỗ hiềm nghi phải xuất hiện dương thần, phân thân hóa dạy mà đạo hữu chẳng hay. Nên thầy hay nói với tôi: “Một âm một dương gọi là Đạo, lìa bỏ âm dương Đạo chẳng thành”. Vì cái âm dương đó: Dương hỏa, âm thủy, là âm dương trong thân mình luyện ra. Chẳng phải nói việc vợ chồng như ở thế.

Nghĩ lại việc nầy thiệt thầy hết lòng khổ chí cần dạy; tiếc cho đạo hữu hiểu lầm mà chẳng biết chỗ huyền-cơ. Lại nói độc dương bất trưởng, là nói dương thuộc hỏa, lửa nhiều nóng quá chẳng đặng thành đơn. Còn độc-âm bất sanh, là nói âm thuộc thủy, nước nhiều tràn lạnh cũng chẳng đặng thành đơn. Bởi nói cô-âm độc-dương là tỷ thí nước lửa chẳng đặng giúp nhau. Luận ra mà nói, người tu hành phải cho đặng nước lửa đương tiếp, âm dương quán phong, mới khá huờn đơn đặng.
Còn nói đạo hữu bỏ Tạo-Hóa lư là rõ ràng chẳng minh lý âm dương. Như nói câu: “Khoán phu hoán phụ” là nói cô-âm bất sanh, độc-dương bất trưởng, nên thầy tỏ mấy lời cho đạo hữu biết. Hễ người học Đạo thì phải tìm chỗ âm dương, bởi âm dương là chỗ huờn đơn của Tiên Phật. Trước dụng chơn-ý, mà dẫn thông âm dương (như cầm bầu rượu mà vui uống rượu ngon). Còn chơn-lý thuộc thổ, màu vàng, nên thí dụ là huỳnh hà. Như câu: “Tây-gia-nữ” là thuộc Kim, Kim hay vượng phát tại Tây nên gọi là “Tây-gia-nữ”. Còn câu: “Đông-xá-lang” thuộc mộc, mộc hay vượng sanh tại Đông, nên gọi là “Đông-xá-lang”. Còn hai đàng xứng nhau là nói 2 cái 8 là 16, hiệp thành một cân (Hễ kim chẳng phải con của mộc, thì chẳng khắc; mộc chẳng phải con của kim, thì chẳng sanh). Đó là nói việc âm dương tạo hóa, ngũ-hành sanh khắc như vậy.
Còn người tu hành phải lấy cái ý hội thông. Tỷ như bà mai nói hiệp hai nhà dẫn cho kim mộc gặp nhau, không có dang cách như vợ chồng vui hiệp. Còn động phòng là chỗ đơn đình; dẫn kim mộc về một chỗ, kim là phách, mộc là hồn, dẫn tụ về một mối, yêu mến không rời, hồn chẳng lìa phách, phách chẳng lìa hồn. Hống tám lượng, diên nửa cân, giao cảm là chỗ kiết đơn, thiệt nói hai đàng xứng nhau, tinh khí hiệp nhau ngưng kiết (Tỷ như vợ chồng có thai vậy).
Còn nói 10 tháng là số đủ, ôn-dưỡng là hỏa-hầu 0. Như nói tinh khí ngưng kiết, cũng là để lửa ngưng có chừng mà nấu luyện thành đơn. Còn nói số đủ là vuông tròn, công phu đầy đủ, anh-nhi giáng sanh 0. Khí hóa ra thần, thần nuôi dưỡng cho đầy đủ, tùng chỗ nê-hoàn mà ra, lên chầu kim-khuyết, mà làm người chơn-nhơn. Như vậy chẳng phải là Thần Tiên sao? Mã-Đơn-Dương nói rồi, Tôn-Bất-Nhị mới vui mừng tỉnh ngộ. Vậy ai muốn tu luyện thì tìm minh sư mới rõ.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 270
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com