watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:22:5028/03/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Thất Chơn Nhơn Quả - Trang 2
Chỉ mục bài viết
Thất Chơn Nhơn Quả
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tất cả các trang
Trang 2 trong tổng số 10
Hồi 4
Đàm chơn không, Tôn-Thị hối phu chủ,
Cầu Đại-Đạo, Mã-Dương tầm minh sư


Nghĩa là:
Nói việc chơn không, bà Tôn-Thị khuyên chồng,
Cầu học Đại-Đạo, Mã-Ngọc tầm minh sư.
Có bài kệ rằng:
Trời cũng không, Đất lại cũng không,
Người đời phái phái ở nơi không.
Nhựt cũng không, rồi Nguyệt cũng không,
Đông lên Tây lặn chẳng cần công.
Ruộng cũng không, hề đất cũng không,
Đổi dời nhiều ít người chủ ông.
Vàng cũng không, rồi bạc cũng không,
Thác rồi nào đặng ở tay trong.
Vợ cũng không, con lại cũng không,
Huỳnh-Tuyền đường nọ chẳng tương phùng.
Sớm qua Tây rồi tối qua Đông,
Người đời tỷ thí tợ con ong.
Thể đặng trăm bông nên mật đó,
Đến đầu cực khổ cũng buông không.

Khi đó Trùng-Dương đi đến tỉnh Sơn-Đông, huyện Ninh-Hải, giả người xin ăn, trong ý muốn tìm người tu hành. Huyện Ninh-Hải phía Tây có nhà họ Mã, làm chức viên ngoại, tên là Mã-Ngọc. Cha mẹ qua đời, lại không anh em, cưới người vợ họ Tôn tên là Huyên-Trinh, dung mạo đoan trang, tâm tánh thông thái. Bà là người có học thường coi Kinh sách thấu việc xưa nay, chẳng ham thêu dệt vá may. Tuy là nữ lưu mà khí chất trượng phu khó sánh. Hễ viên ngoại có việc chi tính chẳng đặng hỏi bà thì rõ thấu. Cho nên ông bà kỉnh nhau như thầy bạn, ngặt tuổi già mà lại không con nên có làm bài kệ rằng:
Quang âm mau lẹ chẳng đợi chờ,
Người người chỉnh thấy việc bơ thờ,
Chẳng tin soi thử trên mái tóc,
Khi trước mày xanh bạc trắng dờ.
Mấy câu kệ này ý nói: “Máy quang-âm lẹ như tên bắn, đưa người rất mau già, ngày tháng thắm thoát như thoi đưa, thúc trẻ nhỏ trở nên già rất lẹ”. Khi đó vợ chồng Mã viên ngoại tuổi đã gần 40 mà không con. Một hôm viên ngoại nói cùng vợ rằng:
- Bạn mình mới nhỏ mà nay gần bốn chục rồi, chắc là vô hậu, vạn quán gia tài này chẳng biết về tay ai? Tôn-Huyên-Trinh rằng:
Xưa Tam-Hoàng trị thế, sau Ngũ-Đế lập đại công.
Vua Nghiêu, Thuấn sau tiếp nối, Võ-Vương mở chín sông.
Thành-Thang rước Y-Doãn, Văn-Vương thỉnh Thái Công.
Ngũ-Bá bày mưu chước, Thất-Hùng khiến bụng lòng.
Vinh, Tần tranh sáu nước, Hớn, Sở lại tranh hùng.
Ngô, Ngụy giành nhà Hớn, Lưu-Bị thỉnh Ngọa-Long.
Đông Tấn cùng Tây Tấn, sự nghiệp cũng không tông.
Nam Ngụy với Bắc Ngụy, giang san cũng long đong.
Đường Tống lại đến đây, bao nhiêu phú quí ông.
Hỏi thử người còn mất, đều thiệt cũng tay không !….

Xin coi từ xưa đến nay biết mấy muôn năm, Đế Vương, quan, tướng, thành bại thạnh suy biết mấy ngàn người, vì danh lợi mà bỏ mình, việc đến đâu cũng tay không, nháy mắt đều tan hết. Nay bạn mình đem việc trước sau phú cho nơi không, như trong thiên hạ không gia sản này, cũng như cha mẹ chưa sanh bạn ta, thì có chi là vinh diệu. Viên ngoại nghe nói cười rằng:
- Người ta tuy không còn có nhánh nhóc; bạn mình cái không này gốc rễ cũng dứt tuyệt.
Tôn-Huyên-Trinh nghe rồi nói rằng:
- Không nhánh không căn thiệt đại không.
Có bài kệ rằng:
Không đến tột rồi thiệt đại không,
Không kim không cổ tợ hồng mông,
Bằng người biết đặng hư không lý,
Thẳng đến Linh-Sơn thấy đại hùng.

Tôn-Huyên-Trinh nói:
- Xét có con cũng như không con, ngẫm lại có con cũng không, mà không con cũng không. Như vua Văn-Vương có 100 người con, đến nay coi lại có mấy người? Họ Cơ con cháu muôn đời của ông, có người nào cúng tế mộ phần ông bao giờ? Còn ông Trương-Công-Nghệ sanh chín trai hai gái, Quách-Tử-Nghi bảy trai tám rễ, Đậu-Yên-Sơn năm trai đều đặng khoa, Lưu-Ngươn-Phổ sanh hai người con đều đậu cử-nhơn. Mấy người đó nhiều điều sang trọng, con cháu hiển vinh, mà nay có thấy ai con cháu nào đâu? Coi lại cũng mưa lạnh gió sầu, nhà hoang mồ lở, cỏ mọc dẫy đầy. Há chẳng phải “có” rồi cũng qui về nơi “không” chăng? Cô phòng lạnh lẽo nào phải những người không con? Còn ruộng nhà đồ sộ thì người có con mới đặng, người không con không đặng hay sao? Tôi tưởng người sanh ở đời trong mấy mươi năm mau như nháy mắt dường như đá lửa chớp nhoáng, thấy đó rồi mất đó, tợ chiêm bao bọt nước, nào thiệt nào chơn. Nhà lớn ngàn căn, chẳng qua đêm nằm tám thước. Ruộng nhiều muôn sở cũng ngày ăn ba bữa mà thôi. Bao nhiêu mùi ngon vật báu, uổng cho cuộc giàu sang như nháy mắt, quỉ vô thường theo đến thì muôn việc đều không. Dẫu bạc vàng đầy rương cũng khó chuộc đường sống thác. Hỡi ôi! Thiệt làm người ở đời mà chẳng tỉnh, thì cũng như một giấc chiêm bao!
Kệ rằng:
Kinh dinh thuở mấy uổng mang mang,
Lầm nhận đường mê gỗi xóm làng,
Nay lại xưa qua nào có ở,
Dường như mượn chỗ tựu rồi tan.
Tôn-Huyên-Trinh nói cùng viên ngoại rằng:
- Bạn ta ở chỗ “không”, tầm cái Thiệt mà chắc Thiệt, đặng luyện chỗ bất sanh bất diệt, học phép trường sanh chẳng chết rất hay vậy.
Mã viên ngoại nói: Bà nói vọng rồi. Từ xưa đến nay, hễ có sống thì có thác, lẽ nào đặng trường sanh hoài? Việc làm có trước thì có sau, nào có việc hoài chẳng dứt? Huyên-Trinh nói:
- Tôi thấy sách Đạo thơ nói: Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần huờn hư, khiến cái chơn tánh còn hoài, linh-quang chẳng dứt, gọi là đạo trường sanh chẳng chết. Bằng như mình học đặng đạo ấy thì hơn người có con trăm phần. Mã viên ngoại nói:
- Nói vậy chớ có lẽ nào tinh mà luyện đặng hóa khí, khí hóa đặng thần, còn thần hóa đặng huờn hư mà chơn tánh còn hoài, linh-quang chẳng dứt? Huyên-Trinh nói:
- Ông muốn biết phải cầu minh-sư mới học đặng diệu pháp. Viên ngoại nói:
- Thôi tôi cầu bà làm thầy truyền cái công phu cho tôi học. Huyên-Trinh nói:
- Tôi là nữ-lưu, chẳng qua biết ít chữ, coi thấy đạo thơ đôi câu nào giải thấu chỗ diệu lý. Nếu ông có lòng chơn tâm học Đạo, phải cầu tầm người cao hiền chắc thấu đặng. Viên ngoại rằng:
- Việc tầm thầy kiếm bạn, thật bình sanh chí tôi ham lắm, hễ người tu hành học phải có căn cơ, như không có căn thành Tiên chẳng đặng, làm Phật chẳng dễ.

Nên tôi nghĩ phận căn cơ siển bạc, chẳng nói đến việc tu hành. Huyên-Trinh nói:
- Nói như ông thì sai rồi. Hễ sanh đặng làm người đều có căn cơ phước đức sẵn trước, như nói không có căn sao đặng làm người? Có câu: Cỏ nào không gốc, người nào không phước? Chẳng qua là sâu cạn không đồng. Như người căn cạn là sáu căn chẳng trọn: hoặc mắt không sáng, hoặc tai không nghe, hoặc tay gãy chơn cùi, điếc ngây mờ tối, góa bụa không con, nghèo thấp hèn. Đó là người cái căn siển cạn. Còn người căn sâu: Sang như Thiên-Tử, giàu có bốn biển, cai quản muôn dân, hoặc làm quan có quyền danh tiếng vui hưởng ruộng vườn, sáu căn đều đủ, tai mắt thông minh, tánh tâm từ thiện, ý khí bình hòa, toàn thân đủ trọn. Đó là người căn sâu phước lớn.
Trong đời trọng việc giàu sang: người giàu sang thì căn sâu hơn người thường. Như mà biết ăn ở hiền lành, thêm việc giúp người lợi vật: đó là đem cái căn dựng bồi thêm, trường trai giới sát tìm phép vô hình (tức là học Đạo) thì sau đặng thành Phật thành Tiên, chứng đặng Thánh Hiền đều do nơi đó. Nên nói việc căn phận tại mình, thường ngày bồi bổ, đừng nói kiếp sau mang theo, hiện tại kiếp này cũng hưởng đặng. Như muốn hưởng bền, thường cần bồi bổ, dưỡng từ lời nói, tập từ đức hạnh, lo làm phương tiện, là những việc chi thuận lòng người thì làm, đừng chê việc lành nhỏ mà không làm, không vì việc dữ nhỏ mà làm, thì lo chi kiếp sau không nhờ. Tỷ như cái núi, lâu ngày càng cao lớn lên thêm. Đừng nói bạn mình không căn mà thối chí. Như nói không căn thì làm sao hưởng gia nghiệp này? Lại đặng sai tớ khiến bạn, nhứt hô bá ứng. Thiệt không dám khoe mình, chớ xét ra cũng là người có căn lớn!
Bởi viên ngoại vốn người mộ Đạo, chẳng qua là qua một hồi mê muội, nghe bà mở vạch rõ ràng, nghĩa lý đặng thấu như chiêm bao mới tỉnh, đứng dậy tạ ơn rằng:
- Nay tôi nghe lời bà chỉ dạy, khiến tôi mở thông đường Đạo; chưa biết minh-sư đâu mà tìm, xin bà chỉ rõ.
Huyên-Trinh nói:
- Việc đó cũng không khó. Tôi thường thấy một ông già tay cầm gậy tre, vai mang bầu thiếc, tinh thần mạnh mẽ, mắt tỏ chiếu ngời, trên mặt đỏ như son, thường xin ăn tại xóm mình hơn mấy năm, chẳng thấy suy già, chắc là người có Đạo. Vậy đợi ông đến, mời về nhà nuôi dưỡng, lần lần cầu học diệu lý chắc đặng.
Viên-ngoại rằng:
- Nay mình nhà cửa rộng lớn, cũng nên làm phương tiện kỉnh già thương khó, chẳng luận là có đạo hay không đạo, một mình ông ăn mặc là bao nhiêu. Để mai tôi hỏi ông chịu hay không. Huyên-Trinh nói:
- Tu một ngày giải thoát đặng một ngày, việc chẳng khá trễ...

* * *

Lại nói qua Trùng-Dương, từ khi tới huyện Ninh-Hải ở mấy năm, luyện đặng tinh thục, biết đặng quá khứ vị lai, phép quỉ thần thấu hiểu, thần thông đều đủ, trí huệ thông minh, biết đặng việc độ Thất-Chơn thì phải tùng nơi vợ chồng Mã viên-ngoại khởi đầu mới hiệp theo lời của Chung-Tổ nói:
- Hễ gặp Mã thì hưng. Nên ông thường qua lại trong xóm đó xin ăn mấy năm. Nay gặp Mã viên-ngoại biết người đức lớn, và thấy Tôn-Huyên Trinh mấy lần biết người thông minh trí huệ, muốn chỉ dạy việc tu, nhưng lại nghĩ rằng:
- Thuốc chẳng kêu cho, Đạo chẳng khinh truyền, phải đợi y cầu học mới chỉ. Vì ông ở đó xin ăn mấy năm người người đều gọi ông là Côi-lão xứ xa, nghèo khó đến xin ăn, nào hiểu ông là Thần Tiên! Có một mình Tôn-Huyên-Trinh khác người, tâm hiền mắt thánh, nhận đặng người nghèo khó là Thần Tiên đó thôi! Mới nói cùng chồng tiếp ông về nuôi dưỡng đặng cầu học Đạo; khiến cho bảy vị chơn nhơn nối theo. Luận công bảy vị chơn nhơn tu hành, có bà Huyên-Trinh thứ nhứt !
Có bài kệ rằng:
Sanh thành trí-huệ thiệt phi thường,
Đặng biết Thần Tiên biết thử phương,
Chẳng có Huyên-Trinh thần lực giỏi,
Thất-Chơn tông phái khó ra đường.
Khi đó Mã viên-ngoại nghe bà nói liền ra ngoài dặn người coi cửa như thấy ông già xách bầu thiếc tới, mau vô báo cho ông hay. Bữa đó, viên-ngoại ngồi trong nhà thấy người giữ cửa vô báo:
- Có ông già xách bầu thiếc đến! Viên-ngoại liền ra tiếp rước. 0
Thần Tiên còn phải đợi thời kỳ,
Thời vận chưa gần, đạo khó hành.

Hồi 5
Mã viên-ngoại cầu phụng dưỡng sư lễ,
Vương-Trùng-Dương kinh dinh hộ đạo tài

Nghĩa là:
Mã viên ngoại cầu dưng lễ nuôi thầy,
Vương-Trùng-Dương sửa sang tiền hộ đạo.
Có bài kệ rằng:
Tiên Phật Thánh Hiền bởi tại tâm,
Nào tua đất lấp lại thành câm (kim vàng).
Người đời nhang khói cầu xin vái,
Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm.

Bốn câu nói việc thành Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại lòng người làm ra. Như lòng ngay thì mình cũng ngay, làm việc gì cũng thảy đều ngay. Còn lòng tà thì mình cũng tà, làm việc gì cũng thảy đều tà vậy. Nên người tu hành trước phải sửa lòng, sau thành cái ý: hễ lòng không chánh thì ý không thành, ý chẳng thành thì vọng niệm khởi ra trăm việc, phải mất chỗ đạo chơn. Cổ nhơn có bài kệ rằng:
Vọng niệm nhứt sanh thần tức thuyên,
Thần thuyên lục tặc loạn tâm điền.
Tâm điền nhứt loạn thân vô chủ,
Lục đạo luân hồi tại nhãn tiền.

Nghĩa là:
Hễ vọng niệm sanh ra thì thần dời ra ngoài rồi,
Thần ý dời thì sáu giặc rối loạn khiến tâm điền không tịnh.
Nếu tâm điền rối loạn thì thân này không có người làm chủ,
Vì vậy, sáu đường luân hồi ở tại trước mắt chẳng xa.

Có bài kệ rằng:
Lục đạo luân hồi, thuyết bất khoan,
Súc sanh, ngạ quỷ, khổ thiên ban.
Khuyên quân vật khởi vọng tham niệm,
Nhứt thất nhơn thân vạn kiếp nan.

Nghĩa là: Sáu đường luân hồi nói không hết như người chẳng tỉnh xét, có ngày bị đọa vào trong chỗ súc sanh quỉ đói phải khổ sở ngàn việc, nên khuyên người đừng khởi việc tham tưởng lầm sai. Hễ làm mất cái thân này muôn kiếp khó trở lại đặng. Muốn ra khỏi chỗ luân hồi thì kiếp này phải tu mới hết việc khổ.
Vì Tiên Phật Thánh Hiền cũng tại cái tâm, tâm phải chánh ý phải thành. Như tâm ý chánh thành để làm cốt Phật, nhang đèn cúng lạy, son vàng tô phết đó là vọng cầu. Nên nói: “Cười chết từ bi Quan-Thế-Âm” là cười người không có lòng chánh thành, lo sửa mình để vọng cầu việc giả. Lại nói ra tu lấy chỗ nhang đèn cúng vái mà cầu cho thành Tiên thành Phật, tánh Phật chỗ nào? Nên nực cười cho người lầm sai mà không cải sửa.
Có câu: “Bất vị tế hưởng nhi giáng phước; bất vị thất lễ nhi giáng họa”. Nghĩa là: “Chẳng vì cúng tế mà cho phước; chẳng vì thất lễ mà giáng họa”. Trời Phật Thánh Thần trọng là trọng người chí thành cung kỉnh, tự hối ăn năn biết sợ nhà tối có Thần không dám làm quấy thì Ngài thương lắm, kỉnh lắm. Người ấy dẫu không cầu Ngài cũng cho phước lộc. Còn Ngài ghét kẻ bất trung, bất hiếu, bất nghĩa, bất lương, ý độc hại người, lòng lang ở bạc. Những người như vậy dầu cho nhang đèn cúng lạy thế nào, Ngài không dung đặng.
Bởi Ngài dặn làm phước chớ đừng cầu phước, tự nhiên họa dứt phước thêm, chớ Ngài có tư vị, hay là thương ghét ai bao giờ? Có câu “Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo giả”. Nghĩa là: “Mắc tội nơi trời thì không còn chỗ cầu vậy”, như thế thì có ai biết mà tránh chăng?
Đây việc khuyên tỉnh đã nói rồi, lại nói qua Mã-Đơn-Dương nghe người xách bầu thiếc đến, lật đật ra tiếp rước, thỉnh vào nói chuyện. Ông già đi theo viên-ngoại vào ngồi tại ghế giữa lấy lời khẳng khái mà hỏi:
- Vậy kêu ta cầu hỏi việc chi? Viên-ngoại đáp:
- Tôi thấy ông già cả tuổi tác hằng ngày xin ăn lao khổ, muốn cầm lại đây nuôi ông, chẳng biết ông chịu hay không? Nói chưa dứt lời, ông già giận nói:
- Ta thiệt xin ăn quen rồi, chẳng chịu ăn những không công cực lộc của ai.

Viên-ngoại thấy ông giận chẳng dám nói nữa, liền vô nói với bà rằng:
- Ông xách bầu thiếc tôi thỉnh vô nhà nói việc nuôi dưỡng, ông nói chẳng chịu ăn những vô công thi thực, nên tôi hỏi bà tính làm sao? Bà cười rằng:
- Ông nói chẳng nhằm việc, nên người không chịu. Chẳng nghe sách có nói: “Quân tử mưu đạo bất mưu thực, tiểu nhơn mưu thực bất mưu đạo”. Nghĩa là: “Người quân tử ham đạo chẳng lo ăn, còn tiểu nhơn ham ăn chẳng lo đạo”. Ông mới thấy mặt lại kể việc nuôi dưỡng, lấy chỗ ăn uống mà dụ, quân tử nào kể việc ăn uống, cầu chỗ Đạo thì hơn. Tại ông nói thất lời, để tôi ra phân giải chắc ông an lòng chịu ở.

Có bài kệ rằng:
Không phải tiên-sanh chẳng chịu cầu,
Vì lời nói biện chẳng nhằm câu,
Huyên-Trinh ra giảng thông quyền biến,
Chắc định ông già phải gật đầu.

Rồi đó Huyên-Trinh đến nhà trước, thấy ông già chắp tay xá nói rằng:
- Ông đặng muôn phước? Ông già cười rằng:
- Ta là người tu hành nào có đặng phước! Huyên-Trinh rằng:
- Ông chẳng lo việc quấy, muôn sự đều không, tiêu diêu thong thả, chẳng tính chẳng sầu, đặng chỗ cao thấp tự lòng, chẳng phải là phước sao? Tôi coi trong trần này biết bao nhiêu nhà giàu sang danh lợi mà trọn ngày nhọc lòng lo tưởng, thương vợ mến con không dứt. Tuy nói có phước mà xét lại chưa đặng thong thả, duy có cam cái danh lợi giả dối mà thôi nào phải như ông chẳng nhiễm việc trần, đặng hưởng chỗ không tâm, như vậy thật là Thần Tiên tại thế. Ông già nghe nói cười lớn rằng:
- Cô đã biết sự tiêu diêu tự toại là phước, thanh tịnh vô vi là vui, mà sao chẳng học tiêu diêu tự toại? Chẳng tìm thanh tịnh không không? Huyên-Trinh rằng
- Tôi chẳng phải không học, vì chưa đặng chỗ pháp, tuy muốn tiêu diêu mà chẳng đặng tiêu diêu, muốn thanh tịnh mà chưa đặng thanh tịnh đó thôi. Ông già rằng:
- Như cô chịu học thì tôi chẳng tiếc công. Huyên-Trinh nói:
- Như ông vui lòng từ bi dạy tôi, nhà tôi ở huê viên có cái “Kiểu-Nguyệt-Đình” thiệt là thanh tịnh, thỉnh ông đến ở đó, bạn tôi mới đặng cầu học hỏi. Ông già liền gật đầu thuận ý.

Có bài kệ rằng:
Làm biện nhằm câu biết cổ kim,
Tiên-sanh nay đặng hội tri-âm,
Tri-âm nói biện tri-âm tỏ,
Đây đó nguyên là một giống tâm.
Ông già nghe bà Huyên-Trinh nói nhằm đạo lý, trong lòng vui mừng liền chịu ở dạy. Mã viên-ngoại nghe nói lại kêu gia tướng dọn dẹp sau huê viên chỗ “Kiểu-Nguyệt-Đình” sạch sẽ thỉnh ông vào đó an nghỉ, lại trí một người gia đồng là Trần Khuê hằng ngày đem trà dưng nước. Viên-ngoại nói cùng bà rằng: Bạn mình nói chuyện với ông hơn nữa ngày mà chưa biết ông tên họ chi, để tôi hỏi coi. Huyên-Trinh rằng: Sách có câu “Đại ân bất tạ, đại đức bất danh”, nghĩa là ơn lớn chẳng tạ, người đức lớn chẳng tên làm chi; thôi kêu lão Tiên-sanh cũng đặng. Viên-ngoại chẳng nghe cứ muốn hỏi, bà can không đặng phải để ông đi.
Viên-ngoại đến “Kiểu-Nguyệt-Đình” thấy ông ngồi tịnh trên ghế. Viên-ngoại tới trước hỏi rằng:
- Xin hỏi ông cao tánh đại danh, nhà ở chỗ nào? Vì sao mà đến đây? Hỏi luôn mấy lần thấy ông ngó lên nói rằng: Ta là Vương-Trùng-Dương nhà ở tại Xiểm-Tây, ngàn dặm chẳng từ khó nhọc vì ngươi mà đến đây.
Mã viên-ngoại nghe nói giựt mình nói rằng:
- Tiên-sanh vì tôi mà đến đây? Ông vổ tay cười rằng:
- Thiệt, vì ngươi mới đến đây. Viên-ngoại lại hỏi:
- Như Tiên-sanh vì tôi mà đến, ắt cũng có duyên cớ chi! Trùng-Dương rằng:
- Ta đến đây vì cái vạn quán gia tài của ngươi mà đến. Viên-ngoại nghe nói nửa cười nửa lo hỏi rằng:
- Ông vì vạn quán gia tài của tôi mà ông muốn lấy hay sao? Trùng-Dương nói:
- Nếu tôi không muốn thì tới làm chi!

Viên-ngoại nghe nói mặt tái xanh, trở ra đi liền.
Có bài kệ rằng:
Tiên-sanh lời nói chọc người kỉnh,
Trên thế chưa nghe những sự tình,
Muốn lấy gia tài không chỗ cớ,
Lẽ trong đạo lý thiệt chưa minh.
Khi đó viên-ngoại ra khỏi Kiểu-Nguyệt-Đình tính thầm trong bụng rằng:
- Ông này thiệt chưa hiểu mối việc, khi không mà muốn lấy gia tài của ta! Dám mở miệng như vậy! Con nít cũng chẳng dám nói lời đó, đường ấy mà làm sao có đạo đức kìa!
Chừng về phòng ngồi nghĩ, trong lòng buồn bực chẳng vui. Huyên-Trinh thấy viên-ngoại biến sắc, biết là bị ông già nói việc chi chẳng vui, liền cười nói rằng:
- Tôi đã nói trước, biểu đừng đi hỏi cũng không nghe, chắc ông bị điều chi chẳng vừa ý chăng? Hễ người quân tử phải có lượng lớn, dung người chế người, việc chi chẳng hiệp ý, xin đừng trách phiền, chớ học theo chí mọn chấp nhứt. Viên-ngoại nghe bà nói mấy câu trong lòng mở giải, nói rằng:
- Tôi tưởng đâu ông già là người có đạo đức, ai dè ông thiệt người tham tài! Bà hỏi:
- Sao mà biết tham tài? Viên ngoại đem việc của ông thuật cho bà nghe:
- Nói muốn lấy gia tài của ta mới đến đây ! Bà nói:
- Tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của mình, chắc có duyên cớ chi, sao ông không hỏi cho minh bạch. Tôi thấy trong sách có câu: “Thiên niên điền địa bát bá chủ”, nghĩa là “Ruộng đất ngàn năm thay đổi chủ có hơn tám trăm người”. Trong đời tài sản thiệt là đồ chí công của Trời Đất, chẳng qua là cho người mượn mà xài chung. Như người biết xài thì hưởng đặng ít chục năm, hoặc mấy đời. Sao gọi là biết xài? Như người có của mà biết xài là biết thi ân bố đức, giúp kẻ nghèo nàn, mua vật phóng sanh, tu kiều bồi lộ, chôn thây trôi nổi, làm các điều lành, chớ đừng cam một mình, gọi là xài chung một vốn.
Còn người không biết xài thì cũng như mưa dập bông tàn, gió thổi mây tan, hễ đến tay người này, thì liền trao cho người khác, hoặc không cần kiệm, xài phí, cờ bạc, rượu chè, cam để cho nhiều, làm điều trái lẽ. Hoặc cho vay ăn lời nặng mà tổn đức bình sanh. Như vậy làm sao mà hưởng đặng bền? Nên của ấy phải đổi dời. Đó là chỗ chí công của Trời Đất, luân phiên xoay trở không ngừng, nghèo đó rồi giàu, thạnh đó lại suy, nào có đặng làm chủ ngàn năm bao giờ? Vậy xin ông thức tỉnh.
Có bài kệ rằng:
Vạn quán gia tài chớ đủ khoe,
Ai mà giữ đặng trọn không dè,
Tài ba thiên hạ đồ công vật,
Há được ngàn năm được chở che.

Khi đó bà Huyên-Trinh khuyên chồng rằng: Tiên-sanh như muốn lấy cái gia tài của mình, ắt có duyên cớ. Như hỏi ông nói đặng hiệp lý, mình nên dưng cho ông, huống là bạn mình không con cháu, gia tài này ngày sau chưa biết về tay ai. Nói chưa dứt lời viên-ngoại cười rằng: Bà nói đâu việc dễ lắm! Ông bà tôi từ Xiểm-Tây dời qua đến đây, chịu hết thiên tân vạn khổ mới đặng sự nghiệp này. Dẫu ta chẳng muốn nữa cũng chẳng dám đem sự khó nhọc của ông bà mà đưa cho người khác. Huống nay bạn mình tuổi mới nửa đời, như đem gia tài cho người rồi, mình còn nửa đời sau lấy chi cho qua ngày tháng, há chẳng lầm việc lớn đó sao?
Bà Huyên-Trinh nói: Uổng cho ông là người chí trượng phu mà việc không tỏ thấy. Bạn mình đem gia tài giao cho tiên-sanh là muốn cầu cái đạo trường sanh, cứu đặng cửu-huyền thất-tổ. Bằng như đặng thông việc đạo thì ta thành Thần Tiên, còn giữ cái gia tài này làm gì? Sách có nói: Một người con tu thành Tiên Phật thì cửu huyền đặng bạt tộc siêu thăng. Như vậy đâu có lỗi với ông bà. Coi lại cái đạo siêu hết tông môn mà sánh chẳng bằng vạn quán gia tài này sao?
Có bài kệ rằng:
Của tiền vàng bạc có hằng hà,
Nào gặp đạo huyền đáng giá đa,
Của báu tuy nhiều sau cũng hết,
Đạo công muôn thuở chẳng tiêu ma.
Viên-ngoại nghe bà giảng rồi nói rằng: Lời của bà chẳng phải không tốt, bằng như chẳng thành Thần Tiên, lời tục có nói: “Vẽ cọp chẳng thành trở lại giống chó” rồi làm sao? Bà nói:
- Làm người phải có hằng tâm, như không có hằng tâm thì cũng chẳng khá làm đặng thầy bói, thầy thuốc, huống là học Thần Tiên. Như người có chí thì việc ắt thành, không chí thì ngày sau chẳng nên. Tại mình bền cùng chẳng bền. Sách có nói: Thần Tiên vốn thiệt người phàm tâm, chỉ sợ người lòng chẳng chuyên. Bởi tại người chuyên lòng chuyên chí phàm làm tới, có cầu chắc đặng. Có câu: Trồng dưa đặng dưa, trồng đậu đặng đậu, là lẽ thường. Xưa nay Thần Tiên ông nào cũng nhờ thân phàm mà tu thành, nào có sanh ra tự nhiên không học mà đặng biết bao giờ? Viên-ngoại nghe bà nói, gật đầu trả lời:
- Phải lắm! Phải lắm !

Đến bữa sau, viên-ngoại tới Kiểu-Nguyệt-Đình hỏi Vương Trùng-Dương rằng: Bữa trước tiên-sanh nói muốn lấy gia tài của tôi, chẳng biết tiên-sanh muốn lấy đặng làm việc chi? Trùng-Dương tiên-sanh lấy lời ngay nói rằng: Ý tôi muốn tiền đặng chiêu trong thiên hạ, những người tu hành học đạo ở tại đây đặng lập một cái đạo trường, cho kẻ tu hành biện đạo, tu tâm dưỡng tánh, có chỗ hộ đạo, trong ngoài không chỗ lụy; dứt đường ràng buộc thảy đặng vui mừng hoan hỉ, thoát nẻo luân hồi, và làm công đức giùm cho ông.
Tiên-sanh đem việc chơn thành tỏ cho Mã viên-ngoại nghe, chừng ấy viên-ngoại mới đem lòng vui phục.
Làm đặng việc xá mình theo người mới là siêu phàm nhập Thánh.

Hồi 6
Tôn-Huyên-Trinh khuyến phu xá tài,
Mã-Văn-Khôi thọ lộ thông quyền biến

Nghĩa là:
Bà Tôn-Huyên-Trinh khuyên chồng xá gia tài,
Mã-Văn-Khôi ăn tiền thông quyền biến.
Có bài kệ rằng:
Muôn phép đều không chớ muốn cầu,
Mượn tài hộ đạo dưỡng công phu.
Lần đem việc đó thông quyền biến,
Ngày khác y nhiên cũng hết sầu.

Khi đó, Trùng-Dương tiên-sanh đem việc mượn tiền hộ đạo chiêu tập người tu hành nói cho Mã viên-ngoại nghe, viên-ngoại mới vui phục nói rằng: Như ông nói vậy thật người có đạo đức lớn, tôi cùng Tôn-Thị đều nguyện lạy ông làm thầy, chưa hiểu trong ý ông làm sao? Trùng-Dương nói:
- Hai ông bà như có lòng chơn tâm học đạo tôi nào chẳng chịu! Nhưng mà trước phải xá gia tài rồi sau mới truyền cho chí đạo, một lòng một ý đặng khỏi chỗ lo nhớ. Viên-ngoại nói:
- Thầy muốn dùng bao nhiêu tự ý, tôi không tham tiếc, hà tất phải xá? Trùng-Dương nói:
- Như ngươi không xá, thì cũng còn của ngươi, tôi không đặng tự do xuất phát. Viên-ngoại nói:
- Ruộng đất, tiền bạc cùng tờ giấy giao ước dưng hết cho ông cũng như tôi xá rồi. Tiên-sanh rằng:
- Tờ giấy còn tên của ngươi, như muốn giao cho tôi phải thỉnh người trong tộc làm tờ xá ước mới có bằng cớ. Viên-ngoại nghe nói trở vui làm buồn, từ biệt tiên-sanh về nhà đem những lời Trùng-Dương thuật cho bà nghe, nói rằng:
- Theo ý tôi việc nầy chắc không thành. Huyên-Trinh hỏi:
- Sao vậy? Viên-ngoại nói:
- Bà chẳng hiểu trong tộc của tôi sao? Bà nói:
- Người đều riêng lòng làm sao hiểu đặng! Viên-ngoại nói:
- Người trong tộc tôi thấy vợ chồng mình không con, ai ai cũng thầm tính chia rồi, đợi vợ chồng mình chết thì gia tài nầy về họ, nào có chịu đem giao cho người khác, nên tôi biết chắc không thành.

Bà Huyên-Trinh nói:
- Việc đó cũng khó, ngày mai ông thỉnh tộc-trưởng có quyền thế đặng nghị luận. Như họ y lời thì thôi, bằng chẳng chịu thì ông làm như vầy...... chắc là họ bao ông đặng nên. Viên-ngoại nghe liền nói:
- Thiệt bà có trí cao, làm như vậy chắc đặng thành. Liền kêu Mã-Hưng đi thỉnh bổn tộc định ngày mai giờ ngọ tới cho đủ.
Mã-Hưng y lời đi thỉnh. Qua ngày sau, anh em đồng bạn và trong tộc lớn nhỏ đều vào nhà giữa phân thứ tự mà ngồi. Có một người trưởng-tộc tên là Mã-Long làm chức Cống-Sĩ hỏi viên-ngoại rằng:
- Cháu thỉnh trong tộc có việc chi? Viên-ngoại thưa:
- Cháu mấy năm rồi thường hay bịnh hoạn, trong mình chẳng khỏe hay chóng mặt. Nay có một người ở bên Xiểm-Tây tên là Vương-Lão Tiên-Sanh, thiệt người trung hậu, cháu biểu người ấy ở tại nhà cháu đem hết gia tài ruộng đất giao cho ông lo liệu đặng vợ chồng cháu an rảnh mà dưỡng bịnh. Ông biểu cháu thỉnh người tộc-trưởng làm tờ giao ước ông mới chịu lãnh. Nên nay cháu thỉnh tộc-trưởng đến thương lượng đặng làm tờ giao lại cho ông.
Viên-ngoại nói vừa dứt lời, có người anh tên là Mã-Miên nghe nói giận dữ chỉ viên-ngoại nói rằng:
- Chú ngây rồi, hồ ngôn nói loạn, cơ nghiệp của ông bà không bảo giữ, có đâu nói xá cho người ta. Chú nghe lời dỗ gạt mà nói như vậy. Mã viên ngoại biết việc không hợp lý, chẳng dám nói nữa.
Lại có một người chú họ tên là Mã-Văn-Khôi, làm chức học sanh và một người anh họ là Mã-Chiêu, làm quan Tử-Giám đại học-sanh. Hai người có tước trong tộc họ Mã, tài giỏi hơn hết. Hễ có việc chi lớn nhỏ đều nhờ hai người tính toán thì xong việc. Mã-Văn-Khôi thiệt người có quyền biến, thấy Mã-Miên nặng lời cùng viên-ngoại, lên tiếng nói:
- Thôi đừng trách oán, cũng việc anh em, bởi viên-ngoại là người thật thà, phải mời Vương-Lão Tiên-Sanh ra đây đặng tôi hỏi coi cớ sao mà dám nói như vậy? Liền sai Mã-Hưng đi thỉnh Vương-lão. Trùng Dương ra đến cũng không làm lễ, mấy người đều không hỏi tới ông. Mã-Miên thấy ông cười lớn rằng:
- Tôi tưởng lão tiên-sanh nào, ai dè người đi xin ở đây! Mã-Văn-Khôi hỏi Trùng-Dương:
- Ông người cô-lão, thường hay ở xóm nầy xin ăn mấy năm, chưa nghe ông có tài chi, nay viên-ngoại của tôi coi trọng ông là một bực, tiếp về nuôi dưỡng đủ lễ thì thôi, phải an phận giữ mình, sao lại xúi cháu tôi biểu làm tờ xá gia tài cho ông? Ông là người năm sáu mươi tuổi, sao không biết lẽ? Trong thiên hạ nào có phép như vậy, mà dám nói ra không sợ chê cười? Trùng-Dương đáp:
- Bình sanh tôi chẳng biết làm việc chi hết, vì nghèo sợ rồi, nên biểu y đem gia tài nhượng cho tôi đặng hưởng ít năm, nào sợ gì ai cười. Nói vừa dứt lời có Mã-Phú, Mã Quới nhảy lại chỉ trên mặt Trùng-Dương nạt một tiếng:
- Tao cho mấy thằng chẳng biết thể diện, con chim cú, con cú dại mà muốn đội mão phụng, chuột lang mà muốn ăn thịt khổng-tước, uổng cho mày sống mấy mươi tuổi, nói lời chẳng sợ xấu hổ, thiệt là đáng ghét!

Mã-Phú kêu Mã-Quới nói rằng:
- Bạn ta đuổi nó ra ngoài xóm, đừng cho ở đây. Nói rồi liền áp lại kéo Trùng-Dương. Mã-Chiêu can rằng:
- Thôi đừng đuổi xô, thương người cô lão. Nay viên-ngoại rước ông tới, thôi để ông đi, đừng cho viên ngoại xá gia tài thì thôi.
Mã-Phú, Mã-Quới mới ngừng tay. Kế Mã-viên-ngoại kề miệng gần tai Mã-Long nói nhỏ việc chi chẳng biết, rồi Mã Long nói với mấy người:
- Thôi anh em bây đừng ngầy-ngà, thảy đều về hết, để tao ở lại định việc, tao không cho nó nào dám xá.
Mấy người nghe lời Mã-Long thảy đều ra về. Viên-ngoại thỉnh Mã-Long và Mã-Văn-Khôi ở lại mời vào phòng đãi rượu. Mã Long với Mã-Văn-Khôi ngồi bên tả, viên-ngoại ngồi bên hữu. Làm lễ đãi tiệc vừa xong, Mã-viên-ngoại thưa rằng:
- Thưa trước ông cùng chú còn ở lại đây, nay cháu muốn một việc, thưa ông cùng chú toan liệu.
Mã-Văn-Khôi hỏi:
- Vậy viên-ngoại có việc chi nói ra mới hiểu mà tính toán. Viên-ngoại nói:
- Tôi chẳng phải đem gia tài mà xá cho Vương-Trùng-Dương, chẳng qua là tạm ông coi dùm ít năm, đặng cháu thong thả an dưỡng chứng bịnh. Mã-Văn-Khôi hỏi:
- Biểu ông coi giữ không thì phải, sao lại biểu lập tờ xá ước chi vậy? Viên-ngoại thưa:
- Không, đó là nhứt thời quyền biến, thấy ông chơn tâm thiệt ý, cậy ông giữ giùm tôi cũng đặng rảnh tâm an dưỡng một lúc, chớ không có điều chi. Mã-Văn-Khôi nói:
- Lẽ của cháu, ta chưa minh đặng, chẫm rải nói lại ta nghe. Viên-ngoại thưa rằng:
- Chú nghe cháu tỏ, vì cháu nhiều bịnh, còn cháu dâu hay chóng mặt khó coi sóc các việc. Bấy lâu cháu tầm người trung-hậu thật-thà thế tay săn sóc, may nhờ trời tùng người như nguyện nên gặp lão tiên-sanh, tôi muốn đem gia tài giao cho ông lo liệu thì gia tài nầy cũng như của tôi. Bởi ông nghe chẳng kịp biểu tôi phải giao dứt cho ông, tôi thấy nói lời quê mùa, tôi cũng liền đáp theo như lời ông nói xá dứt. Ấy rõ ràng là lời nói chơi, ông tin là thiệt, lại biểu thỉnh trong tộc làm tờ xá ước cho ông. Tôi nghĩ ông là người cô-lão ở xứ xa đến đây, không bà con thân thích, dẫu giao hết cho ông cũng không lẽ sang dời đâu đặng. Huống ông tuổi già sống có mấy năm nên lập tờ cho ông gìn giữ thế cho tôi đặng dưỡng bịnh một lúc, chừng ông mãn phần cũng qui về tôi, nào có tổn hại chi. Xin ông cùng chú vui lòng an việc nầy, cháu rất đội ơn.

Mã-Long nói:
- Trong tộc đông người, để hỏi lại coi. Mã-Văn-Khôi lại hỏi Mã-Long, thấy Mã-Long gật đầu rồi nói:
- Chuyện nầy một mình tôi ắt cũng chưa đặng.
Viên-ngoại nghe nói mời hai người vào phòng kín, lấy một món báu lạ đem để trước mặt hai người, thấy chớp sáng lòa, coi ý ông nào cũng chịu.
Có bài kệ rằng:
Chiếu chớp hình ra thấy nhãn tiền,
Sáng ngời một đốm lại tròn viên,
Có y muôn việc đều an chuyện,
Chẳng đặng dầu sanh cũng lụy liền.

Khi đó viên-ngoại đem ra thảy đều ngó cười, miệng chẳng hở môi, rồi Mã-Long nói với Mã-Văn-Khôi rằng: Viên-ngoại hồi sớm nói việc ấy rõ ràng, thế không có điều chi hại, chẳng qua là mượn việc xá ước mà buộc lòng ông già lo lắng công việc, như vậy cũng không sao. Mã-Văn-Khôi rằng:
- Phải ấy là quyền biến một hồi cho có người giúp sức, như chú chịu lãnh thì mấy người kia tự nhiên phải an. Mã-Long nháy nháy kề miệng vào tai Mã-Văn-Khôi nói ít câu, coi bộ vui mừng rồi nói rằng:
- Viên-ngoại hãy an lòng, chắc việc nầy xong đặng. Thôi để tôi đi nói với mấy người kia, thì thế nào cũng xong.
Có đặng bạc tiền việc lớn xong,
Nào lo xá ước lập không thành.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 257
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com