PHẦN THỨ BA
Chương 25
Hảo nấn ná ở chơi nhà hơn nửa tháng. Ở nhà để bênh vực em, để an ủi và khuyên bảo em nữa. Nàng vẫn còn lo sợ. Câu chuyện định tự tử của Hồng lúc nào cũng lảng vảng trong óc nàng. Có đêm nàng mơ thấy em gieo mình xuống nước, khiến trong giấc ngủ nàng khóc òa lên.
Nghe nàng thuật lại giấc chiêm bao, Hồng cảm động và cười chảy nước mắt. Rồi từ lúc đó cho tới sáng hai chị em thì thầm nói chuyện, sau khi đã lắng tai nghe tiếng ngáy đều đều của Tý và Thảo nằm ngủ ở hai cái giường kê gần đấy: Hảo thừa biết con dì ghẻ luôn luôn để ý do thám chị em mình.
Một đêm nàng đã lợi dụng sự do thám ấy: Nàng nói những câu mà nàng cốt Tý và Thảo nghe rõ để chúng mách lại với dì ghẻ. Nàng bấm cho Hồng hiểu ý định của nàng, rồi nàng đem những lời hơn lẽ thiệt ra nói với em, khuyên em nên để cha được yên tuổi già trong cảnh gia đình êm ấm. Còn “cô” tuy không đẻ ra mình nhưng đẻ ra đàn em cùng một huyết thống với mình, thì mình có thể thành thực yêu gần như một người mẹ được, như một người mẹ thứ hai của mình.
Hồng toan cãi lại, nhưng Hảo bưng vội lấy miệng nàng và nói tiếp luôn. Thấy thế Hồng nằm im để mặc chị thuyết lý để mặc chị dạy những bài luân lý thông thường, những bổn phận con đối với cha mẹ và chị đối với em. Mãi khuya mới biết chắn chắn rằng Tý và Thảo đã ngủ say, Hảo mới bảo cho Hồng biết:
- Chị cốt nói cho chúng nghe thấy.
Hồng bật lên tiếng cười to. Hảo vội lay mạnh cánh tay em…
- Chết! Lỡ chúng nó thức dậy…
Nhưng hai người lắng tai nghe không thấy tiếng động đậy: trong yên lặng hầu hoàn toàn của ban đêm, tiếng ngáy vẫn đều đều và se sẽ. Hồng thở dài bảo chị:
- Khổ thực, chị ạ, mình ở nhà mình mà hình như lạc vào đám quân thù… giữ gìn từng tí, lúc nào cũng sợ sọ hãi hãi, sợ hãi từ đứa ở trở lên, chung quanh rặt giống mật thám… Một nơi địa ngục chứ gia đình gì lại thế!… Chị đã rõ vì sao em muốn tự tử chưa.
Hai tiếng tự tử lại làm cho Hảo rùng mình.
Nàng ngập ngừng bảo em:
- Ở đời cần phải nhẫn nại… Người ta sẽ nghĩ lại… tự thấy lỗi người ta…
Hồng ngắt lời:
- Nghĩ lại! Không bao giờ người ta nghĩ lại đâu, chị ạ.
Rồi nàng hậm hực:
- Sao bây giờ chị sinh ra nhút nhát, nhu nhược đến thế. Trước kia, chị bướng bỉnh chửng chạc biết bao.
Hảo ôn tồn đáp:
- Trước khác, bây giờ khác.
Nàng định nói: trước kia nàng chỉ tưởng đến nàng, đến tự do của nàng, nhưng nay nàng nghĩ đến tính mệnh của Hồng. Sợ em hiểu những ý thầm kín của mình, nàng giải nghĩa:
- Trước kia chị còn dại, làm việc gì cũng bồng bột hấp tấp. Vả lại bây giờ thầy già yếu, chị em mình cũng nên khéo ăn ở cho thầy vui lòng, cho thầy đỡ khổ với người ta; vì mình kình địch với người ta thì người ta lại giầy vò thầy…
Hồng nức nở khóc:
- Chị ở xa chị không biết đấy, em chả kình địch với người ta bao giờ, người ta cũng vẫn bêu xấu, bêu nhuốc em như thường.
Thấy Hồng nói mỗi lúc một to hơn và sợ nàng khóc ầm nhà, Hảo dịu dàng vỗ về khuyên dỗ, rồi một lát sau nàng cất tiếng ngáy làm như đã ngủ say.
Sáng hôm sau thấy dì ghẻ đổi hẳn thái độ với mình. Hảo hiểu ngay rằng bọ do thám đã mắc mưu. Vừa thoáng thấy nàng đi qua sân sau, bà phán vội gọi:
- Chị phán vào uống nước.
Hảo kéo ghế ngồi hầu chuyện cha và dì ghẻ, rắp tâm tìm cách để ân cần xin lỗi cho Hồng.
Bà phám mỉm cười nhìn nàng, khẽ gật, rồi quay sang nói với chồng:
- Bao nhiêu cái tử tế, cái khôn ngoan, cái phúc, cái hậu dồn cả vào chị phán, chị Hồng chả còn được lấy một tí.
Hảo lễ phép đáp:
- Thưa cô, em nó dại dột lắm, tiếng có lớn mà chẳng có khôn, thôi thì điều hơn lẽ thiệt xin cô dạy bảo cho. Bây giờ cô cũng như mẹ…
Ông phán kinh ngạc. Lần đầu ông nghe thấy Hảo nói với bà phán những lời kính cẩn, từ tốn. Ông đăm đăm nhìn, như để thầm cám ơn con: “Thầy sung sướng lắm, con có thấy không?” Và ông âu yếm bảo nàng:
- Uống nước đi, con.
Hảo nâng chén, nói:
- Xin mời thầy, mời cô xơi nước.
Bà phán niềm nở:
- Chị uống đi.
Rồi quay lại hỏi vú Hà:
- Ðã pha sữa cô phán xơi chưa?
Hảo lấy lòng bà phán để vì nể mình mà thôi không hành hạ em nữa. Và nàng mừng rỡ nhận tháy bà ta dần dần bớt cay nghiệt độc ác đối với Hồng.
Nhưng nàng vừa đi Hà Nội buổi sáng thì ngay buổi chiều đâu lại hoàn đấy. Những tiếng chửi cạnh, chửi khoé lại vang lên trong hàng giờ. Những câu nhiếc móc mỉa mai lại suốt ngày tuôn ra. Bà phán vẫn không thay đổi: Người ta thay đổi sao được một thói quen!
Trái lại, Hồng đã thay đổi hẳn tính nết: Nàng chỉ đem sự yên lặng thản nhiên ra đối đáp lại sự tàn ác ầm ỹ của dì ghẻ. Nàng thay đổi không phải vì những bài học luân lý, những lời khuyên răn của Hảo đã cảm hoá được nàng. Nàng thấy Hảo cái gương phản kháng mà nàng vẫn noi theo, nay vì nàng, vì muốn cứu vớt nàng, đã hạ mình phục tòng dì ghẻ. Ðó là một sự hy sinh rất lớn của chị, một sự hy sinh phạm tới lời thề mà một hôm quá phẫn uất, chị đã thốt ra: Hảo thề rằng đến ngày chết, không bao giờ còn quay lại nói một câu tử tế với dì ghẻ nữa. Thế mà nay nàng tử tế với dì ghẻ, phục tòng dì ghẻ, Hồng suy nghĩ tới điều ấy, trong mấy hôm liền và cảm thấy tình yêu rào rạt trong lòng, không phải tình yêu ích kỷ của trai gái, nhưng một tình yêu thiên về trắc ẩn đối với khắp mọi người. Vì thế, nàng quả quyết theo gương chị và quy thuận ngưòoi dì ghẻ, cũng như ngày xưa nàng đã theo gương chị mà phản đối người đàn bà ấy.
Còn một điều nữa khiến nàng thay đổi tính nết, điều mà mỗi lần tưởng tới nàng không khỏi lấy làm tự thẹn: Là nàng đã tìm một lần thoát ly gia đình bằng cách bỏ nhà trốn đi, một lần thoát ly cái đời khổ sở bằng cách tự sát. Nay suy đi nghĩ lại, nàng mới thấy sự thoát ly không dễ dàng, giản dị như nàng tưởng hay như những nhà tiểu thuyết lãng mạn tưởng tượng ra.
Chi bằng không tìm thoát ly nữa mà cứ coi như mình đã thoát ly rồi. Nàng thường ví gia đình nàng với nơi ngục thất. Song những tù nhân có mấy người tự sát để thoát ly được đâu, kể cả tù nhân bị kết án chung thân? Nàng nhớ một lần Nga đọc cho nàng nghe câu tư tưởng của một nhà hiền triết nào đó: “Có một linh hồn tự do thì dù sống trong ngục thất, sống trong địa ngục, mình vẫn coi như không bị giam hãm, xiềng xích”. Câu tư tưởng ấy trước kia nàng không lưu ý đến, nhưng nay nàng thấy có một nghĩa rõ rệt và sâu xa.
Huống hồ trong cái ngục thất gia đình của nàng còn có cái mà nàng yêu được: làm việc; còn có người mà nàng yêu được: cha nàng. Cha nàng, nàng cho là cũng một tù nhân như nàng, và cùng nàng cùng sống trong một ngục thất. Lần đầu nàng cảm thấy hết cả sự khổ sở, sự đau đớn của người cha tốt, nhưng nhu nhược, bị vợ áp chế, hành hạ.
Cho nên nàng quả quyết sống một đời mới, một đời khác hẳn trước, một đời khoáng đục, không thù, không ghét, không ghen, không tức ai. Và nàng bắt đầu thực hành ngay những ý định của nàng.
Sáng hôm ấy nàng thức dậy sớm lấy áo cũ ra mạng những chỗ rách và khâu lại những đường sứt chỉ. Ðoạn nàng đánh thức hai em dậy học ôn bài. Tý và Thảo cau có gắt gỏng, nàng chỉ tươi cười đáp lại bằng những lời dịu dàng.
Nghe tiếng dì ghẻ quát tháo gọi vú Hà, không những nàng không lấy làm khó chịu, mà nàng vội vàng chạy lên gác và lễ phép nói:
- Thưa cô, vú Hà đi mua bánh tây ạ.
Bà phán trừng trừng nhìn nàng, cho cử chỉ của nàng là láo xước, là khiêu khích. Bà càng căm tức khi nghe Hồng ôn tồn nói tiếp:
- Thưa cô, cô bảo vú Hà điều gì ạ?
Bà phán hằm hằm quay ngoắt đi:
- Tôi cámơn.
Hồng rón rén bước xuống thang gác.
Từ đó, bà phán càng ghét Hồng. Bà không hiểu sự yên lặng, lòng nhẫn nại của Hồng mà bà cho là giả dối.
Và luôn luôn bà bảo chồng: “Ông coi, nó cứ lì lì cái mặt nó ra”, hay “ông thấy không, nó trêu tức tôi đấy!”. Lâu ngày, ông phán cũng tin rằng Hồng định trêu tức dì ghẻ.
PHẦN THỨ BA
Chương 26
Hồng ốm đã hơn hai tuần lễ.
Chiều nay cũng như mọi buổi chiều, nàng đăm đăm mong Tý đi học về. Từ hôm bà phán thấy bệnh nàng trầm trọng và sợ lây sang hai con, bắt dọn buồng kho ở trên gác cho nàng nằm thì nàng sống cách biệt hẳn mọi người. Một ngày, trừ vú Hà hai lần bưng cơm lên, nàng chỉ còn gặp mặt Tý chiều chiều đem báo hôm trước lên cho nàng, thỉnh thaỏng đến bên giường hỏi thăm.
Trong hai đứa em xưa kia vẫn thù ghét nàng và vẫn bị nàng thù ghét, nay nàng đã được lòng Tý. Có nhiều lúc nàng tưởng Tý yêu nàng nữa: không phải nàng đã lấy lòng Tý để mong được dì ghẻ nghĩ lại mà thương hại nàng hay ít ra để cho nàng được yên thân. Không phải. Sự yên thân nàng chỉ hy vọng ở nàng. Nàng đã nhận thấy, đã hiểu rõ rằng chỉ khi nào chính mình quả quyết để cho mình yên thân thì mình mới yên thân. Sự bình tĩnh của tâm hồn không ai có thể cho mình, cũng không ai có thể cướp của mình được. Nàng còn nhớ một hôm bỗng dưng nàng cảm thấy sung sướng – cái sung sướng hồn nhiên mà người ta thường vụt có. Giữa lúc ấy bà phán thét mắng đầy tớ om sòm, cốt để chửi cạnh nàng và làm cho nàng khổ sở. Nhưng nàng vẫn dửng dưng, như không để ý tới. Như không nghe thấy gì hết. Ngày nay không những nàng không nghĩ để tìm nghĩa xa xôi những câu bóng gió của dì ghẻ mà những lời sâu cay độc địa dì ghẻ nói thẳng vào mặt nàng cũng không làm cho nàng động lòng nữa.
Vậy nàng tử tế với Tý và Thảo là chỉ vì nàng muốnt ử tế, chỉ vì nàng đã nhận thấy khi nào mình tốt, tốt với khắp mọi người, cả với kẻ thù thìmình sung sướng, thì mình bằng lòng mình, thì tự nhiên sự bình tĩnh sẽ thấm sâu vào trí não vào tâm hồn mình. Xấu bụng, ác nghiệt, làm cho kẻ khác khổ sở, mình có được lợi lộc gì đâu! Ðiều ấy, nàng đã nhiều lần nghĩ đến và nay trên giường bệnh, tâm trí nàng nhọc mệt nhưng sáng suốt hơn lúc khoẻ mạnh, càng thấy rõ rệt lắm. Những sự xảy ra, những lời nói, việc làm hằngngày của bà phán và những người sống chung quanh nàng mà trước kia nàng không lưu ý tới, lúc này như bỗng hiện thành hình, tựa cuốn “phim” đem chiếu trên màn ảnh. Vì thế, nàng nhớ lại tường tận những hành vi ngôn ngữ của dì ghẻ, nhớ lại không phải để oán ghét nhưng để nghĩ đến tấm lòng tốt móoi có và sự sung sướng mới có của mình.
Một hôm – Nàng nhớ cả là một hôm thứ ba – nàng giảng cho Tý bài học luân lý “Bổn phận của chúng ta đối với tôi tớ”. Nàng cũng chỉ dịch nghĩa bài chữ Pháp, và thỉnh thoảng chêm một câu thí dụ cho Tý dễ hiểu. Nhưng bà phán đứng ở hiên nghe thấy cho là nàng nói cạnh mình. Tức thì bà bước vào trong phòng, cười mát bảo Hồng:
- Tử tế, dễ dãi quá với tôi tớ để chúng nó bợm đĩ trai gái thì cửa nhà còn ra sao nữa!
Hồng ngưng lại nhìn hai em, rồi dịu dàng nói:
- Em đã hiểu chưa?
Tý nhanh nhẩu đáp:
- Ðã. Chị giảng thế thì ai không hiểu?
Hôm ấy, không những bà phán ghét Hồng, bà còn giận lây cả Tý nữa. Bà gọi con vào buồng để đay nghiến: “ở trường thầy giáo không giảng nghĩa cho mày hay sao mà mày phải nhờ đến cái con trời đánh ấy?”
Hồng mỉm cười khi được Tý thì thầm thuật lại cho nghe lời nói của dì ghẻ! Và bây giờ ôn lại câu chuyện, nàng vẫn không giữ được cái mỉm cười thương hại: “Những kẻ ác, những kẻ xấu bụng không bao giờ sung sướng được. Họ luôn luôn chỉ những chạnh lòng vì tức tối!”
Qua kính cửa sổ, ánh hoàng hôn một ngày đông khô ráo chiếu bóng gợn nước sông Tranh lên trần nhà. Những mầm cầu vồng chạy đuổi nhau. Thỉnh thoảng bóng đen một cái xe tay lướt qua.
Hồng vừa tò mò ngắm nghía cái cảnh tưởng sắp tàn ấy, vừa suy nghĩ miên man đến chuyện đời. Bỗng nàng rùng mình. Một luồng gió mạnh vừa thổi bật mảnh giấy nhật trình dán che lỗ hổng của mảnh kính vỡ. Vội vàng Hồng kéo chăn trùm kín đầu, và nhắm mắt cố ngủ vì nàng đã thức hai ngày và một đêm liền. Nhưng nhắm mắt Hồng càng trông thấy rõ những người, những vật thường gặp và những việc đã xảy ra hằng ngày: Một bàn tổ tâm hiện bật lên như một bức tránh khắc nổi với những màu sặc sở, trong đó cử động ba người đàn bà: bà phán, bà phủ và bà đốc.
Bà đốc! Hồng cố tìm hiểu vì sao bà ta lại ghét mình. Chẳng lẽ vì bạn mà ghét lây con chồng của bạn! Không một lần nào Hồng được bà ta nói với nàng những câu dịu dàng hay thẳng thắn: bà ta không cằn nhằn gắt gỏng thì cũng ý tứ mỉa mai. Và khi nào Hồng bị dì ghẻ mắng hay nói xấu thế nào bà ta cũng đế thêm vào.
Còn bà phủ, Hồng không biết bà ta có những ý nghĩ gì về mình, cũng không rõ vắng mình thì bà ta có xui xiểm dì ghẻ điều gì không. Nhưng chỉ trông thấy cái bộ mặt kín đáo và nghe những câu “quan lớn có xơi không, bà lớn phán bốc hộ xin một cây” cũng đủ khó chịu rồi. Lại cái cười nữa, cái cười hở hai hàng lợi của bgà ta, sao mà ghê sợ thế! Ghê sợ cả cái giọng hời hợt: “Cô Hồng đấy à? Lâu nay cô có đi Hà Nội thăm cô phán Căn không?” Mỗi khi nghe thấy câu hỏi ấy, Hồng chỉ lí nhí đáp lại một tiếng “không” rồi lảng ngay vào nhà trong, để khỏi phải trông thấy cái nhìn chế nhạo của bà đốc và cái lườm dữ tợn của dì ghẻ…
“Ðàn bà!”
Tiếng oán trách ấy tự thâm tâm Hồng thốt ra. Bao nhiêu người đàn bà ghét Hồng như quân thù quân hằn! Thấy nàng qua hai bên phố họ chỉ trỏ. Gặp nàng họ quay mặt đi, có khi họ nhổ bọt nữa. Mà nàng có làm gì họ đâu! Nhiều lần nàng đã muốn bảo vào tận mặt họ rằng: Họ ác, họ xấu, rằng lòng nhân đạo của họ còn đáng bỉ, đáng khinh bằng mấy tính lẳng lơ của nàng nếu quả thực nàng lẳng lơ như họ tưởng hay cố ý tưởng thế.
Nàng chẳng rõ bọn đàn ông có khinh bỉ nàng không. Mâý ông trưởng phố gặp nàng vẫn lễ phếp chắp tay chào. Còn ông giáo Huyến thì thoáng trông thấy nàng là cất mũ ngả đầu và nhoẻn miệng cười tình. Có lẽ sắc đẹp của nàng đã làm cho họ cảm động mà không dịp nghĩ đến “nết xấu” của nàng chăng? Vì không bao giờ nàng tin được rằng họ có lòng trắc ẩn. “Mình thử xấu ngưòi xem họ sẽ cư xử với mình có ác gấp mấy bọn đàn bà không?”
Hồng nghĩ đến một việc xảy ra năm trước: một thiếu nữ, một đêm trăng, nói chuyện với tình nhân ở trong sân trường nữ học, bị bọn đội xếp và viên quản phố bắt giải phủ. Mãi sáng hôm sau cha mẹ người khốn nạn mới vào được phủ xin con về.
Hồng khúc khích cười trong chăn: “ở đây sao mà người ta trinh tiết đến thế!”
Bên phồng ông phán, bà phán có tiếng động mà Hồng nhận ngay được là tiếng giầy lê gót của dì ghẻ. Từ hôm nàng ốm, đã hai lần bà phán vào buồng thăm nàng, mỗi lần hỏi được một câu: “Thế nào hôm nay có đỡ không!” Nàng chỉ lo bà lại thăm một lần thứ ba nữa. Nàng lắng tai chú ý, và vui mừng sung sướng khi nghe tiếng giầy thong thả xuống thang gác.
Một lát sau, nàng hé chăn ra nhìn: trời sắp tối. Những làng và ruộng ở bên kia sông đã lờ mờ bằng phẳng trong ánh chiều ta. Trên sông mấy cột buồm cao. Hồng toan ngồi dậy để ngắm mặt nước sông, thì chợt nghe có tiếng giầy rón rén ở phòng ngoài. Ốm, nàng thính tai hơn lúc khoẻ và nhiều đêm khuya nàng nhận được cả tiếng róc rách se sẽ của nước sông Tranh mà nàng ví với tiếng thì thầm trò chuyện.
Hồng sợ hãi nghĩ đến Thảo: dì ghẻ thường sai Thảo dọ thám nàng, nàng vẫn biết. Ðã bao lần nàng nghe thấy động ở cửa buồng và tưởng như trông thấy con mắt đen láy của Thảo dòm qua lỗ khoá.
Bổng cánh cửa từ từ mở. Hồng vội hỏi:
- Ai đấy?
Tiếng Tý đáp:
- Em.
Hồng mừng rỡ:
- Em đấy à? Sao hôm nay em đi học về trễ thế? Em có cầm báo lên cho chị đấy chứ?
- Có, nhưng tối quá rồi, chị xem sao được? Hôm nay em đi đá bóng nên về muộn.
- Thế à? Cám ơn em nhé! Chốc có đèn, chị sẽ xem.
Tý ngồi xuống thành giường, hỏi:
- Chị có đỡ không?
- Cũng dễ chịu vì hôm nay không lên cơn.
- Dễ thường bị sốt rét cách nhật.
- Chính thế, chứ còn dễ thường gì nữa. Mà chắc chắn làpaludisme .
Tý suy nghĩ:
- Paludisme là sốt rét rừng, phải không chị?
- Phải đấy, em ạ.
Nhưng ở đây có rừng đâu mà chị mắc bệnh ấy?
Hồng cười:
- Gọi sốt rừng cho tiện chứ ở đâu cũng có thể mắc được. Giống muỗianophèle mang bệnh đi khắp các nơi.
Tý yên lặng kính phục nền học vấn và sự biết rộng của chị.
- Bài tính của em đã chấm chưa?
- Ðã. Cả lớp có mỗi mình em làm đứng.
Hồng cười:
- Thế à? Khá nhỉ!
Tý cũng cười:
- Chị làm hộ em, chị còn khen. Bài tính khó quá.
- Có chuyện gì lạ không, em?
- Không.
Tý trả lời lơ đãng vì còn mãi nhìn quanh phòng, để tìm xem gió thổi từ đâu vào.
- Ở đây lạnh quá, chị ạ.
- À, chị quên bẵng đi mất, chị đương mong em về để nhờ em dán lại hộ chị tờ giấy kia bị gió thổi rách.
- Ðâu chị?
- Ở cửa kính ấy.
Tý đứng dậy:
- Ðược, để em dán. Hồ đây rồi.
Tý móc túi lấy ra một miếng keo, giơ lên khoe chị Hồng cười vui vẻ:
- Rõ tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn!
Tý đổ ra đĩa ít nước, còn thừa ở trong cái chén đặt trên mặt hòm, rồi vừa chấm keo phết vào khung kính vừa nói
- Hôm nay em nhận được thư của anh Yêm. Anh Yêm cũng biết chị ốm, dặn em phải chăm nom chị.
Hồng cảm động ứa nước mắt, nằm im lặng nhìn Tý:
- Chốc nữa có đèn em sẽ đưa cho chị xem thư… Có lẽ lễ Noel anh yêm cũng về…
Nghe thấy tiếng giầy bà phán lên gác, Tý ngưng bặt giơ tay làm hiệu trỏ bảo Hồng. Nhưng Hồng không trông thấy gì, không nghe thấy gì, tâm trí liên miên nghĩ đến bức thư của Yêm.
Dán xong, Tý lại ngồi xuống thành giường thì thầm:
- Mẹ lên đấy… Thôi em xuống nhà.
Tý đã vặn quả nắm cửa, còn quay lại bảo Hồng:
- Hôm ấy em gặp chị Thêm. Chị ấy nói đã hai lần đến thăm chị, nhưng vú Hà đều bảo chị ốm và không cho lên.
- Thế à?
- chị ấy nói chị ấy đến đưa trả chị cái gì ấy chả biết. Em bảo cứ đưa cho em, nhưng chị ấy không đưa.
Hồng nghĩ ngay đến Lương. Từ ngày xảy ra câu chuyện bỏ nhà ra đi, nàng đã nhận được hơn hai chục bức thư của Lương, bức nào cũng nồng nàn tình yêu. Trái lại những bức thứ phúc đáp của nàng, lời văn bình tỉnh, thản nhiên tuy vẫn thân mật, cái thân mật của người bạn đối với một người bạn: Nàng chỉ còn coi Lương như một người bạn khổ sở. Nàng không còn oán trách Lương, vì biết rằng hai người không lấy được nhau lỗi không phải ở Lương.
- Chắc lại thư của anh Lương chứ gì, em ạ.
- em cũng tưởng thế.
Hồng không giấu giếm Tý, có khi lại đọc thư của Lương cho Tý nghe. Hiểu tình cảnh Hồng, Tý càng thương chị.
- Em cầm cái giấy này đưa cho chị Thêm, chị ấy sẽ trao thư cho ngay.
Vừa nói, Hồng vừa cầm bút chì nguệch ngoạc mấy chữ lên một mảnh giấy rồi đưa cho Tý.
- Thôi em xuống nhà, bảo vú Hà bưng cơm lên chị xơi nhé.
- Ừ, em xuống nhà. Nhưng đừng bảo gì cả thì hơn.
Nằm lại một mình, Hồng nhìn qua cửa kính ra cảnh trời gần tối hẳn: Lác đác, nhấp nháy vài ba ngôi sao, ánh sáng lờ mờ ra run run.