watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
12:41:3718/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Lã Bất Vi - Trang 30
Chỉ mục bài viết
Lã Bất Vi
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Trang 27
Trang 28
Trang 29
Trang 30
Trang 31
Trang 32
Trang 33
Trang 34
Trang 35
Tất cả các trang
Trang 30 trong tổng số 35
Chương 16
QUẦN THẦN GIAO TRANH
Âm thanh hùng hồn vang vọng trong mái nhà rộng lớn, âm thanh này vang vọng từ trong cung Chương Đài ra đến bên ngoài, nó cũng tác động đến nội tâm đang dao động của Doanh Chính.
Từ hôm nay, Doanh Chính chính thức kế vị ngôi vua. Đại lễ được tiến hành sau lễ tang của vua Trang Tương ít hôm. Doanh Chính được Lã Bất Vi và Triệu Cơ dẫn đến đại đường. Trên đầu nó hôm nay không phải là chuỗi ngọc đong đưa mọi hôm mà là một vành khăn tang. Văn võ đại thần đều mặc tang phục. Lễ lên ngôi của Doanh Chính vẫn được tiến hành theo nghi thức truyền thống, chỉ không có các sắc màu sặc sỡ của quần áo vàng bạc lễ chào mừng. Dưới sự chỉ huy của Lã Bất Vi, Doanh Chính thực hiện đúng các nghi thức, vái lạy trời đất. Đối lập hoàn toàn với thần thái của Doanh Chính là vẻ mặt đầy sức sống của Lã Bất Vi.
Sau khi hoàn thành các nghi thức, quan nghi trượng cao giọng ban bố thánh chỉ của Doanh Chính: Tần vương chiếu lệnh, phong cho văn tín hần Lã Bất Vi là Trọng phụ.
Lệnh được ban ra, dưới triều các quan thi nhau bàn tán. Các đại thần đều biết rằng, Tần vương của họ vừa mới 13 tuổi, vẫn là một đứa trẻ chưa thông hiểu thế sự, đại lễ lên ngôi và chiếu lệnh của vua Tần đều do Lã Bất Vi đứng sau rèm thao túng. Nhưng họ không hiểu, Lã Bất Vi tự đội cho mình vòng nguyệt quế trọng phụ là với dụng ý gì.
Dụng ý của Lã Bất Vi rất sâu sắc, trọng phụ không phải là chức quan, cũng không phải là tước danh càng không phải là cách gọi họ hàng thân thuộc. Chữ “trọng” nghĩa là thứ hai, tức là người cha thứ hai, hay là chú cũng được. Ý của Lã Bất Vi là ám chỉ mình sinh ra Doanh Chính, đồng thời cũng thể hiện được quan hệ của ông ta và Dị Nhân – cha Doanh Chính là quan hệ đặc biệt. Đồng thời “trọng phụ” cũng là tên hiệu của Quản Trọng thời Tề Hoàn Công. Quản Trọng cũng là tướng quốc của nước Tề, tài giỏi vô cùng, giúp cho nước Tề dân giàu nước mạnh, Tề Hoàn Công trở thành một trong ngũ bái thời Xuân Thu, Tề Hoàn Công tôn trọng mọi kế sách của Quản Trọng, việc triều chính của nước Tề hoàn toàn giao cho Quản Trọng, không hề can thiệp một chút nào. Lúc ấy Quản Trọng được gọi là “trọng phụ”. Lã Bất Vi lấy tên gọi này, không những mong Doanh Chính thừa nhận ông ta là cha nó mà còn ngầm ý với văn võ bá quan, Lã Bất Vi sẽ xử lý được việc triều chính giống như Quản Trọng mà không cần Tần Cương trao quyền.

Doanh Chính đặt lại bút mực và ngọc tỷ trên ngự án, thấy đám triều thần tụ tập ở dưới đang bàn bạc thì cảm thấy rất thích thú. Nó nắm chắc tay cầm của ngự sàng đến nỗi tay cầm trở nên trơn bóng và ấm. Mãu hậu Triệu Cơ cũng ngồi ngay bên cạnh nó, chỉ cách nó trong gang tấc. Nó nhìn chằm chằm vào gương mặt đỏ hồng của mẫu hậu như bị thôi miên, nó đã nhận ra mùi hương phát ra từ phía nào. Đó chính là gương mặt của mẫu hậu. Nó không hề biết rằng, để mẫu hậu có gương mặt đẹp như vậy thì thường xuyên phải xoa bóp bằng các loại quả nước. Đôi mày lá răm, đôi môi hồng như đá thạch lựu, đôi mắt long lanh như hồ nước xuân. Doanh Chính nhìn đi nhìn lại, cảm thấy có một gương mặt nào đó giống hệt gương mặt của mẫu hậu, nó nhớ ra rồi, đó chính là gương mặt của quả phụ Thanh. Đúng rồi, nó đã từng hứa một khi được lên ngôi vua, nó sẽ mời quả phụ Thanh tham dự vào việc triều chính. Bây giờ nó đã trở thành Tần vương, không thể nuốt lời được.
Nghĩ tới đây, Doanh Chính nhìn khắp một lượt các đại thần đang thì thầm to nhỏ ở phía dưới, nói to bằng một giọng trẻ con: “Các khanh không được huyên náo, quả nhân muốn ban chiếu lệnh”. Doanh Chính thấy giọng nói đầy uy lực của nó đã nhanh chóng có hiệu lực, cung Chương Đài bỗng nhiên trở nên yên lặng. Triệu Cơ và Lã Bất Vi đang ngổi ở hai bên nó, cũng quay mặt lại, đầy vẻ kinh ngạc.
Doanh Chính đứng dậy, đặt tay lên ngự án nói rõ ràng: “Truyền chiếu lệnh của quả nhân, cho gọi quả phụ Thanh vào triều, tham dự quốc chính”.
Lời nói của Doanh Chính giống như hắt mộtbát nước vào chảo mỡ đang sôi, gây phản ứng mạnh mẽ hơn cả câu lúc nãy: Tần vương chiếu lệnh, phong văn tín hầu Lã Bất Vi làm trọng phụ.
Lã Bất Vi và Triệu Cơ cũng cảm thấy kinh ngạc vô cùng. Trước đó không hề có sự sắp xếp nào để Doanh Chính công bố thánh chỉ này, hơn nữa từ thuở khai thiên lập địa, chưa có người phụ nữ nào được tham dự triều chính, luận đàm việc nước. Khổng Phụ Tử từng nói: “Tiểu nhân và đàn bà đều khó dậy!” Một khi quả phụ Thanh có thể ngang hàng với bá quan văn võ ra vào cung Chương Đài, há chẳng phải vua chẳng ra vua, tưóng chẳng ra tướng, phá bỏ kỷ cương triều chính luân thường đạo lý hay sao?
Nghĩ tới đây, Lã Bất Vi vội nói: “Thưa các bá quan văn võ, lời của đại vương vừa nói chỉ là nói đùa, không nên tin là thật”.
Doanh Chính nói với Lã Bất Vi: “Tướng quốc đấy không phải là lời nói đùa của quả nhân mà là quả nhân không muốn nuốt lời”.
Lã Bất Vi nhận thấy nếu cứ đôi co với Doanh Chính về chuyện của quả phụ Thanh thì thật là mất thể diện nên ông ta liền thay lời vua tuyên bố: “Bãi triều”
Doanh Chính bực bội trở về tẩm cung. Triệu Cao đã đứng bên cạnh, Doanh Chính hỏi: “Triệu Cao, ngươi nói xem trọng phụ nghĩa là như thế nào?”
Triệu Cao trả lời: “Khởi bẩm đại vương, trọng phụ có nghĩa là người cha thứ hai”.
Doanh Chính nghe xong nổi trận lôi đình: “Cái gì? Lã Bất Vi đó đã làm tướng quốc và thái phó cho quả nhân rồi còn chưa đủ hay sao , lại còn muốn làm cha của quả nhân. Thật là không biết trời cao đất dày!”
Triệu Cao sợ Doanh Chính tức giận, vội chữa lại: “Trọng phụ có nghĩa là cha tiên vương và tướng quốc đã từng đồng cam cộng khổ ở Hàm Đan, ngang vai với nhau. Nếu nhìn từ điềm này, tướng quốc cũng được coi là…” nói tới chỗ này, nghỉ một lát, quan sát sắc diện của Doanh Chính nói tiếp: “Tướng quốc cũng có thể coi là chú của đại vương”.
Doanh Chính hừ một tiếng nói với Triệu Cao: “Triệu Cao, nhanh chóng mài nghiên mực đợi quả nhân ban chiếu”.
Triệu Cao vâng một tiếng, vừa mài mực vừa suy nghĩ, đại vương vừa thiết triều trở về nay lại định ra chỉ gì?
Nghiên mực đã mài xong, Triệu Cao im lặng chờ đợi, Doanh Chính hứng khởi nói: “Viết, mau viết, truyền quả phụ Thanh vào thành Hàm Dương, nhập triều tham dự quốc chính!”
Bởi vì Triệu Cao đi theo Doanh Chính, lúc thiết triều ban nãy Triệu Cao đứng ngoài theo dõi hết những diễn biến trong triều, trong lòng nghĩ: “Tướng quốc chỉ cho những lời nói đó là nói đùa trẻ con, viết cũng chẳng có tác dụng gì!”
Doanh Chính thấy Triệu Cao không động bút vội hỏi: “Triệu Cao, tại sao không viết?”
Triệu Cao nói: “Lúc nãy, lúc nãy tướng quốc đã nói, đó chỉ là trò đùa trẻ con!”

Doanh Chính mắng: “Hồ đồ, chẳng nhẽ ngươi cũng đã trở thành kẻ nịnh bợ xum xoe với tướng quốc rồi sao, quả nhân bảo ngươi viết thì ngươi viết, quả nhân muốn làm việc gì thì đừng mong ai ngăn cản được!”
Triệu Cao sợ xanh mặt, cúi rạp đầu xuống chân Doanh Chính, dập đầu nói: “Tiểu nhân đáng chết, tiểu nhân đáng chết”
Doanh Chính bình tĩnh trở lại nói: “Mau đứng dậy”
Triệu Cao nhanh chóng viết xong, nhưng anh ta biết ngọc tỷ ở bên cạnh thái hậu Triệu Cơ, không có chiếu lệnh của ấn chỉ thì chẳng khác chi tờ giấy trắng. Triệu Cao thừa biết nhưng vẫn cố hỏi: “Đại vương, ngài đóng ngọc tỉ lên đi”
Chỉ là một câu nói nhưng như là dội một gáo nước lạnh vào Doanh Chính. Nó biết rõ ràng, mẫu hậu giữ ngọc tỉ không bao giờ có thể đưa cho nó để đóng dấu tên. Nghĩ tới đó, Doanh Chính ngồi im trên giường, không nói một lời.
Triệu Cao vội khuyên nhủ: “Đại vương không nên buồn bực, phải kiên nhẫn. Tục ngữ nói làm cô dâu nhiều năm rồi cũng thành vợ. Chẳng bao lâu nữa đại vương cũng sẽ được đeo kiếm giữ ấn, ngọc tỉ sẽ nằm trong tay đại vương”.
Nghe Triệu Cao nói vậy, Doanh Chính thấy nhẹ nhõm được vài phần.
Một lúc sau, có một người đàn ông trung niên, là thương nhân nước Nguỵ đến cầu kiến, nói là thuộc hạ của quả phụ Thanh. Nói rằng chủ nhân ông ta luôn luôn ghi nhớ ân đức của Chiêu Tương Vương với mình, luôn coi nước Tần là tổ quốc của mình. Bây giờ nghe nói Doanh Chính lên ngôi, vốn dĩ chủ nhân của anh ta muốn tự tay dâng lễ chúc mừng. Tiếc rằng công việc kinh doanh buôn bán bận rộn, nênchủ nhân không đến triều kiến đại vương được, nói xong dâng lễ đồ mừng lên.
Triệu Cao sợ Doanh Chính lại nghĩ ra chuyện này chuyện nọ, nhất thời hứng khởi, đưa chiếu lệnh lúc nãy cho vị thương nhân nước Nguỵ đem về, quả phụ Thanh đến thật, thì đúng là cả hai bên đều khó xử, chủ và khách đều bối rối khó mà chu toàn được.
Nghĩ vậy Triệu Cao vộ bảo vị thương nhân nước Nguỵ: “Đại vương của chúng ta cũng không bao giờ quên được chủ nhân của các ngươi, nay nhờ ngươi nhắn với quả phụ Thanh, là đại nhân mời bà ta đến thành Hàm Dương, đại vương nhà chúng ta nhất định sẽ hậu đãi”.
Doanh Chính nói: “Nếu quả phụ Thanh đến, quả nhân nhất định khoản đãi”
Tiết xuân ở Hàm Dương ngày dài đêm ngắn, màn đêm thực sự buông xuống vào khoảng canh ba. Sau canh ba, hậu cung điện Chiêu Thanh tối om, như ở trong một chiếc lọ đậy kín. Triệu Cơ nằm trên giường, hai mắt mở thao láo, không hề muốn ngủ, trằn trọc không yên. Thỉnh thoảng bà ta lại căng tai ra, chú ý động tĩnh phía bên ngoài. Bà ta đã treo một dải lụa xanh ở bên ngoài khung cửa, Lã Bất Vi đi ngang qua vài lần nhất định sẽ nhìn thấy. Bà ta đã bảo hết các tì nữ trong cung ra ngoài. Trong cả tẩm cung chỉ có một mình bà ta.
Đột nhiên có ba tiếng gõ nhẹ nhưng dứt khoát lên cột nhà.
“Đến rồi” Triệu Cơ ngồi dậy, mở cửa nhỏ. Cái thân hình mà bà ta quen thuộc nhẹ nhàng đi vào trong mà không nói một lời nào.
Giữa hai người đã không còn khoảng cách.
Rất lâu sau đó, họ nói đến chuyện Doanh Chính lên ngôi hôm nay.
Triệu Cơ ấm ức nói: “Thằng nhỏ Doanh Chính này, vừa lên ngôi đã giở trò rồi, định đưa quả phụ Thanh vào triều tham gia việc triều chính thì có phải là đần độn không? Thiếp nghĩ, chàng chẳng cần phải đứng giữa sa trường mà khoa chân múa tay, cứ đoàng hoàng trực tiếp lên làm Tần vương là xong”.
Lã Bất Vi vội ngăn lại: “Như vậy không được”
Triệu Cơ trách: “Các người có phải là nam nhi đại trượng phu đội trời đạp đất ở đời không? Chỉ mới một câu nói mà đã sợ xanh cả mặt”.
Lã Bất Vi nói: “Câu nói này không phải là vừa, ta lên làm Tần vương là việc ngu ngốc, thân bại danh liệt, hại nước hại dân.”
Triệu Cơ đáp: “Đấy chỉ là người sợ đến sởn tóc gáy thôi”.
Lã Bất Vi cười nói: “Người đẹp của ta, đây quyết không phải là ta sợ đến sởn tóc gáy. Nàng thử nghĩ xem. Giang sơn xã tắc của Tần quốc là do họ Doanh truyền từ đời này sang đời khác, thiên hạ đều biết. Ta làm Tần vương, thay đổi họ vua không chỉ tổ tông tôn hầu nhà họ Doanh không thể chấp nhận được mà các nước chư hầu cũng sẽ can thiệp vào. Như vậy ta đã thành kẻ mà cả thiên hạ này chống lại ta, là kẻ loạn thần tặc tử cướp nước hại dân”.
“Ta sẽ chết mà không có chỗ chôn! Còn bây giờ con trai ta lên làm Tần vương, bề ngoài thì vẫn là giang sơn xã tắc của họ Doanh nhưng trên thực tế chẳng phải là của họ Lã sao. Cũng giống như nàng, bên ngoài thì là Vương phi của Tần vương Trang Tương, là người đàn bà goá còn trên thực tế lại là thê thiếp của tướng quốc Lã Bất Vi đó sao?”
Triệu Cơ ôm chặt Lã Bất Vi rồi nói: “Chàng đúng là thương nhân, lắm mưu nhiều chước!”
Ở bên ngoài sân cung đình, tiết trời mùa hè nóng nực. Tề là con của Di Hồng giờ đã cao ngang cái bàn, đang chơi nhảy dây dưới một gốc cây. Xem ra nó đã chơi rất lâu rồi, gương mặt đỏ như người say rượu.
Bỗng có tiếng của Di Hồng gọi: “Tề à, về ăn cơm!”
Tề không có ý định dừng tay, vẫn tiếp tục nhảy.
Di Hồng lại phải tìm đến gốc cây nói: “Tề à, về phòng ăn cơm đi!”

Tiếng của Di Hồng làm đứt đoạn mất hứng thú của Tề, nó không nhảy nữa nói: “Con đã là người lớn rồi, lúc nào cũng Tề à Tề à như gọi một con mèo con, thật là khó nghe”.
Di Hồng nghĩ ngợi một lúc vui mừng bảo: “Được, con trai ta thành người lớn rồi vậy gọi là Thành Tề nhé. Kỳ thực Thành Tề năm nay đã 14 tuổi rồi. Doanh Chính là anh cùng cha khác mẹ với nó nhưng trông chắc chắn nhanh nhẹn khoẻ mạnh, còn Tề thì gày còm ốm yếu, như thể không có cơm ăn. Sau khi vua Trang Tương chết được hai năm, Di Hồng đã dồn hết sức để chăm sóc đứa con trai độc nhất của mình, vốn dĩ có thể sai một đứa thị nữ đi gọi Tề về ăn cơm nhưng bà vẫn tự đi gọi lấy. Bà biết khi Doanh Chính lên làm Tần vương thì nó khó có thể đối xử tốt với đứa em này. Mấy hôm nay Di Hồng đang mưu tính một việc là xin phong ấp cho Thành Tề.
Trời hôm nay vô cùng nắng, trên trời không có lấy một gợn mây. Gần tối trời vẫn sáng, Di Hồng cảm thấy trong lòng vui vẻ, Thành Tề đã dùng cơm tối xong, còn bà ta đi trang điểm lại, đi xin về việc phong ấp cho con trai.
Di Hồng biết rõ, Doanh Chính bên ngoài thì là Tần vương nhưng mọi chuyện đại sự bên trong đều do tướng quốc Lã Bất Vi quyết định. Bà nghe các quan trong cung nói, mỗi lần lâm triều, Lã Bất Vi đều ngồi bên cạnh Doanh Chính. Lã Bất Vi nói “truyền chỉ” thì Doanh Chính cũng nói “truyền chỉ”; Lã Bất Vi nói “chuẩn tấu” thì Doanh Chính cũng nói “chuẩn tấu”. Lã Bất Vi tuy không phải là văn võ song toàn nhưng ông ta lại là người nắm giữ việc triều đình rất chặt chẽ. Những tướng võ thiện chiến luôn sẵn sàng bảo vệ ông ta: “Mông Ngạo Vương Tiễn, nội sử Đằng Lý Tín, còn những môn khách mà ông ta tín nhiệm cũng là những nhân tài đa mưu túc trí như Lý Tư, Tư Không Mã. Không chỉ ở nước Tần mà ở các nước chư hầu cũng biết rõ ở thành Hàm Dương này, Lã Bất Vi là người có sức mạnh thét gió gọi mây, một lời của ông ta có sức mạnh ngàn vàng”.
Di Hồng đến cầu kiến, ông ta ngồi trên chiếc ghế có nhiều hoa văn, chăm chú nghe hết những lời của bà ta, nói với bà ta rằng Thành Tề còn nhỏ chưa cai quản được ấp phong. Hơn nữa, tước vị bổng lộc mà triều đình ban cho mẹ con bà đã có thể sống dư dật rồi.
Di Hồng nói, con của bà đã lớn rồi, bây giờ được gọi là Thành Tề rồi. Mẹ con bà ấy mẹ goá con côi, cuộc sống khó khăn mong tướng quốc đại nhân giúp đỡ. Nếu được phong ấp, nhất định mẹ con bà ta sẽ cai quản tốt.
Lã Bất Vi nói những đất để phong ấp đã ban thưởng hết rồi, không còn phần nào dư nữa.
Di Hồng liền nói: “Nghe nói tướng quốc đang định thôn tính năm thành của nước Triệu, bổ sung nó vào bản đồ của Tần quốc”.

Lã Bất Vi đang định mưu tính chuyện đó, không ngờ người vợ goá của vua Trang Tương lại rõ tin tức như vậy. Lã Bất Vi nói: năm thành đó ở giữa nước Triệu và nước Yên, tình hình thay đổi, giao tranh liên tục xảy ra, các ngươi mẹ yếu con yếu có gan đi đến nơi đó không?
Di Hồng tuy là phận nữ nhi nhưng cũng không chịu thua cánh mày râu. Nghe Lã Bất Vi nói như vậy liền nói: chỉ lo rằng tướng quốc không lấy được năm thành đó về.
Nếu là người khác có những lời bất kính như vậy thì Lã Bất Vi đã cho một bài học. Nhưng tiếc rằng đây là thê thiếp của vua Trang Tương.
Di Hồng nói tiếp, nếu tướng quốc có thể lấy được năm thành trì đó về, phong ấp hết cho mẹ con bà thì mẹ con bà cũng dám nhận.
Lã Bất Vi nghĩ trong lòng, chỉ là một con tiện thiếp của Triệu Hiến Thành mà dám coi khinh người khác. Nghĩ tới đây, tức giận nói: nếu ta không lấy được năm thành trì đó về bản đồ Tần quốc, chức tướng quốc ta nhường lại cho ngươi. Lã Bất Vi nói xong cũng cảm thấy mình hơi quá lời, nhưng một lời nói ra tứ mã nan truy. Bây giờ xem ra chỉ còn một cách nghĩ ra trăm phương ngàn kế để lấy được năm thành đó về thì mới đáng mặt tướng quốc, thực hiện được lời nói của mình.
Mấy ngày nay Lã Bất Vi không ra khỏi cửa, dồn sức để suy nghĩ, sau cùng ông ta đã nghĩ ra được một cẩm nang diệu kế.
Triệu Yên là hai nước láng giềng, gần đây mới chuyển thành thù địch của nhau. Trong trận giao tranh, quân Yên đã bị thiệt hại vô số. Quân Yên bị rơi xuống nước nhiều không kể xiết chỉ còn cách cúi đầu nhục nhã xin cầu hoà. Sau này nước Yên trở thành cái bàn đạp để nước Triệu đi xâm chiếm các nước khác.
Lã Bất Vi quyết định phải ly gián quan hệ của hai nước Triệu Yên. Từ nước Yên theo hai hướng Nam và Bắc thành thế gọng kìm kẹp chặt nước Triệu.
Nước Triệu thuận theo sẽ phải giao nộp năm thành, nếu không sẽ phải giết hết quân Triệu đang chiếm cứ ở đó. Sau đó để con tiện thiếp Di Hồng biết những gì ta đã nói là làm.
Lã Bất Vi nghĩ trước nghĩ sau quyết định cử Tề Trạch là lão thần đã giúp vua Chiêu, vua Hiếu Văn, vua Trang Tương đến nước Yên làm thuyết khách.
Lần làm thuyết khách cuối cùng của Tề Trạch là vào một ngày hè nóng ẩm giữa tháng bảy. Ông được Lã Bất Vi đưa ra tận ngoài thành Hàm Dương, rồi đem theo lệnh và nô dịch của Lã Bất Vi, đi về phía Bắc, đến kinh đô nước Yên. Qua cửa sổ của xe, ông nhìn thấy bầu trời xanh ngăn ngắt, trong xe thì nóng nực vô cùng, ai nấy đều đẫm mồ hôi. Trong thời tiết như vậy, cuối cùng hai chiếc xe chở Tề Trạch và nô dịch cũng đến được kinh đô nước Yên.
Vua Yên thấy Lã Bất Vi cử sứ thần đến nước Yên thì không rõ lý do gì nhưng cũng vui vẻ tiếp đón, mở tiệc tẩy trần khoản đãi.
Sau khi xem thư của Lã Bất Vi, vua Yên đã rõ ý đồ của chuyến đi này.
Thấy dáng vẻ suy tư chần chừ của vua Yên, Tế Trạch nói đại vương Văn tín hầu của Tần quốc cử ta ngàn dặm xa xôi tới đây, thực chất là giúp cho nước Yên. Quý quốc và Triệu quốc đều là những quốc gia ngang nhau, tại sao phải chịu nhục cho nước Triệu đè đầu cưỡi cổ, chỉ huy việc. Ta nghe nói trước kia nước Triệu đã giết không biết bao nhiêu binh sĩ nước Yên. Quý quốc không báo thù lại còn nhận giặc làm cha, lại liên kết với nước Triệu, lúc thì đánh Tần, lúc thì tấn công nước Sở. Kết quả là các thành trì ấy đều thuộc về nước Triệu. Quý quốc thì chỉ hao binh tổn tướng, gây thù chuốc oán với các nước chưa hầu. Tôi không hiểu nổi đại vương phải làm thế là vì cái gì?
Gương mặt của vua Yên lúc trắng lúc đỏ xấu hổ nói: Không phải là đại nhân can tâm tình nguyện làm trâu làm ngựa cho nước Triệu mà là do nước Yên thế đơn độc, quân lại mỏng, chống lại nước Triệu thì cũng như trứng chống lại đá. Tình thế như vậy e không thể không cúi đầu. Nếu có người giúp đỡ quả nhân, nước Yên sẽ phải quyết chiến với quân Triệu.

Nhân cơ hội đó, Tế Trạch nói: “Đại vương, nếu ngài muốn đi ngủ thì tôi sẽ chuẩn bị gối cho ngài.Văn tín hầu lần này cử tôi đến là muốn giúp đại vương giải mối hận này. Tần Yên hợp binh đánh lại nước Triệu, cướp lại địa bàn ở phần sông của nước Triệu, lợi ích cả hai bên cùng hưởng”.
Vua Yên sợ nước Tần nuốt lời nên vẫn im lặng, Tế Trạch biết được suy nghĩ của ông ta nói: “Đại vương lo Tần quốc chúng tôi nói không giữ lời đúng không? Đại vương à, Tần quốc chúng tôi từ đại vương đến dân thường nói lời đều giữ lấy lời. Nếu đại vương vẫn không tin, chúng tôi sẽ cử một vị đại tướng đến nước Yên làm con tin”.
Vua Yên chỉ chờ câu nói này của Tế Trạch, vội trả lời: “Được, được. Vậy cử ai tới?”
Tế Trạch nói: “Xin đại vương lựa chọn!”
Vua Yên như thể đã chuẩn bị trước từ lâu buột miệng nói ngay: “Trương Đừơng”
Trương Đường là phó tướng của Mông Ngao, anh dũng thiện chiến, đã cùng vua Chiêu Tương Vương chinh chiến bao lần, vào sinh ra tử, công tích dày như núi, uy hiếp các nước chư hầu. Vua Yên nghĩ rằng, để Tương Đường đến nước Yên, uy danh của ông ta sẽ làm các nước chư hầu khiếp sợ, còn Tần quốc vì sợ mất một vị tướng tài mà không dám nuốt lời. Đó là việc có lợi thế cả đôi đường.
Tế Trạch đáp ứng lời yêu cầu của vua Yên nhưng cũng đề nghị nước Yên cử một người đến Tần quốc làm con tin. Để biểu thị tấm chân tình của mình, vua Yên đã cử ngay thái tử Đan đến nước Tần.
Tế Trạch vội cử một thụôc hạ tâm phúc về thành Hàm Dương mời Lã Bất Vi và Trương Đường đến nước Yên. Từ sau khi Tế Trạch đi Lã Bất Vi thấp thỏm không yên, nay nhận được tin báo vội cử Tư Không Mã đến phủ của lão tướng Trương Đường mời vị lão tướng này đến nước Yên.
Tư Không Mã đi rồi, Lã Bất Vi nghĩ chỉ cần Trương Đường đến nước Yên thì năm thành trì kia nếu quân Triệu không giao cho nước Tần thì nước Tần cũng cướp lấy. Đến lúc đó, không những bản đồ của Tần quốc được mở rộng mà Di Hồng cũng phải thấy rằng Lã Bất Vi là bậc đại trượng phu, nói lời chắc như đinh đóng cột.
Tư Không Mã nhanh chóng trở về, nhìn thấy khuôn mặt dài thuỗn cùng vẻ thất thần của ông ta Lã Bất Vi cũng đoán được sự việc không được như ý muốn. Tư Không Mã nói với Lã Bất Vi Trương Đường không thể phụng mệnh.
Từ lúc Lã Bất Vi lên làm tướng quốc chưa gặp phải sự chống đối nào, ông ta không hề nghĩ rằng Trương Đường dám chống lại ông ta.
Lã Bất Vi hỏi Tư Không Mã: “Hà cớ gì mà Trương Đường không muốn đi?”
Tư Không Mã trả lời: “Trương Đường nói ông ta đã nhiều lần dẫn quân đi đánh nước Triệu, quân sĩ nước Triệu căm hận ông ta đến tận xương tuỷ. Vua Triệu đã từng ban thưởng cho ai lấy được đầu ông ta. Đường từ thành Hàm Dương đến kinh đô nước Yên gần với nước Triệu. Trương Đường sợ trên đường sẽ bị hành thích, khó bảo toàn tính mạng.”
Lã Bất Vi nghe xong tức giận vô cùng, nói: “Lấy đâu ra cái lý ấy, ở một quốc gia quan văn không tham của, quan võ không tham sống thì mới ổn định được thiên hạ. Trương Đường là đại tướng của Tần quốc lại ham sống sợ chết, gan nhỏ như gan chuột! Ngươi hãy đến phủ của ông ta một lần nữa nói, đại vương có lệnh nếu ông ta kháng lệnh sẽ bãi quan, bãi chức đuổi về quê làm dân thường”.
Tư Không Mã đi rồi, Lã Bất Vi đứng ngồi không yên, trong lòng như có lửa đốt. Mấy môn khách nhìn thấy Lã Bất Vi nghiến răng nghiến lợi, đầu tóc dựng ngược như râu mèo.
Lã Bất Vi không phải đợi lâu, Tư Không Mã rầu rầu trở về nói: Trương Đường vẫn kiến quyết nói một câu. Ông ta không thể đi. Ông ta tuôi cao rồi, không màng đến danh lợi bổng lộc, trở thành thứ dân lại càng thanh thản.
Lã Bất Vi bình tĩnh lại nghĩ, đúng là không thể bãi quan bãi chức của Trương Đường. Nếu như vậy, một là Lã Bất Vi bất tài, chỉ một mình Trương Đường mà không làm gì nổi. Hai là, những lão tướng trong triều sẽ thay ông ta bất bình như vậy sẽ tạo ra một tình thế cưỡi lên lưng hổ rồi khó xuống. Còn cách gì nữa đây? Lã Bất Vi hạ lệnh cho các môn khách và tôi tớ lui ra rồi bản thân lại vắt óc tìm ra kế hay.
Lã Bất Vi vừa ra lệnh, đám môn khách và tôi tớ tự nhiên lác đác lui ra tựa như lá thu rụng.
Lã Bất Vi dường như đang niệm kinh ngồi im trên sạp suy nghĩ. Bỗng nhiên Lã Bất Vi mở to mắt và bị giật mình bởi một tay môn khách đang đứng khoanh tay cạnh cửa. Lã Bất Vi cho rằng mình bị hoa mắt chính bởi vì hồi nãy ông đã kêu đám môn khách và tôi tớ lui ra, kẻ nào lại dám không nghe lệnh, vẫn đứng trơ trơ ở đây.
Lã Bất Vi định thần lại nhìn thì quả nhiên có một người đang đứng ở đó. Vì khoảng cách hơi xa nên Lã Bất Vi không nhìn rõ mặt mũi người đó thì liền trách mắng: “Ta bảo các người lui ra, mi điếc à?”
“Quân vương đang chưa biết làm thế nào về chuyện tướng quân Trương Đường, làm sao tôi có thể dửng dưng mà lui ra được?” Tay môn khách đang nói độ hăm hai, hăm ba tuổi xem ra cũng không kém phần khéo léo và nho nhã.
Lã Bất Vi nhìn cử chỉ và lời nói của người đó thì nhận ra đó chính là tiểu môn khách Cam La ở trong phủ của mình. Cam La là cháu của lão tướng quốc Cam Mậu, sau khi cha chết, đến đời Cam La thì gia sản cũng đã suy yếu. Qua tiến cử của Thái Trạch, Cam La mới đến phủ làm một chức quan nhỏ gọi là “tiểu thứ tử” - một chức vị không ra ngô ra khoai xen lẫn với đám môn khách. Lã Bất Vi không ấn tượng với người này lắm mà chỉ biết rằng ngoài việc Cam La ê a đọc sách ra, nếu không nghịch ngợm cùng đám trẻ con thì cũng trèo cây chọc tổ chim hái quả bồ kết.

Trẻ con nói chuyện người lớn, Lã Bất Vi lấy làm thích thú thì bình tĩnh nói: “Tiểu Cam La, ta đang nghĩ cách, ngươi mau ra ngoài chơi đi”.
Cam La khoác lác không ngượng mà rằng: “Tướng quốc đang nghĩ chuyện gì chứ? Chẳng phải là việc để tướng quân Trương Đường đi sứ nước Yên hay sao? Chỉ là một việc nhỏ chẳng đáng kể gì lại khiến ngài khó xử thế sao? Ngài xem, anh cả Tư Không của tôi chỉ là đồ giá áo túi cơm thôi. Đi đến mấy bận mà chẳng được việc gì. Nếu là tôi đi thì lão tướng quân Trương Đường nhất định đi sứ nước Yên thôi”.
Lã Bất Vi ôm bụng cười mà rằng: “Tiểu Cam La, nhà ngươi nói mạnh như vậy không sợ gió to cướp đi cái lưỡi của mi à. Chuyện người lớn bọn ta còn chưa làm được huống hồ là một đứa nhãi con như nhà ngươi!”
Cam La không chịu nói: “Tướng quốc, ngài không nên nhìn người trong khe cửa mà nhìn sai người. Chắc ngài đã từng nghe chuyện Hạng Thác lúc bảy tuổi đã làm thầy của đại thánh nhân Khổng Khâu, còn tôi thì đã 22 tuổi rồi. Làm sao ngài biết là tôi không thể khuyên tướng quân Trương Đường đi sứ nước Yên?”
Lã Bất Vi cảm thấy tranh cãi với một đứa trẻ ranh thì thật vô ích liền thủng thẳng nói: “Nếu thế thì nhà ngươi hãy đến phủ của Trương Đường xem”
Cam La hỏi: “Nếu tôi làm được việc đó thì tướng quốc thưởng gì nào?”
Lã Bất Vi không ngần ngừ nói: “Phong ngươi làm thượng khanh”
Cam La nghe xong thì mặt mày rạng rỡ hẳn lên
Cam La nhớ rằng khi mình còn rất nhỏ đã từng gặp Trương Đường một lần. Ấn tượng cũng đã mờ nhạt như giấc mộng xa xôi vậy. Ấn tượng cũng đã mờ nhạt như một giấc mộng xa xôi vậy. Trong tưởng tượng của Cam La, lão tướng quân Trương Đường đã qua đi cái năm tháng “tai sóng” rồi. Một đời trên yên ngựa rong ruổi giữa chốn sa trường, yên thân đã làm cho Trương Đường nghiên ngả, chòng chành thành một thân già lụ khụ rồi. Nhưng khi gặp tướng quân Trương Đường, Cam La vô cùng kinh ngạc bởi thân thể tráng kiện của ông. Tướng quân Trương Đường lưng không cong, vai không gù, đang ngồi trong phòng khách tiếp chuyện Cam La.
Trương Đường nói: “Bạch Câu quá khích, lâm mục thành âm, thoáng một cái tiểu Cam La sắp trở thành người lớn rồi. Không biết bây giờ ngươi định chơi ngón nghề gì đây?”
Cam La nói đầy vẻ nghiêm túc: “Tôi đâu được thanh thản như lão tướng quân. Một việc quan trọng sinh tử đang giày xé lòng tôi khiến tôi ăn không ngon, ngủ chẳng yên”

Trương Đường cười sảng khoái mà rằng: “Nhãi ranh như ngươi có việc gì to tát mà liên hệ đến việc sinh tử cơ chứ?”
Cam La vẫn nói với vẻ nghiêm túc: “Lời lão tướng quân nói rất đúng. Khi tôi còn rất nhỏ thì đã làm môn khách dưới trướng Lã tướng quốc rồi, hết thảy đều được hầu hạ, cơm bưng nước rót, không chút bận tâm, không chút lo lắng thì đương nhiên không có việc gì to tát can hệ đến sinh tử rồi. Mà tôi chỉ thấy buồn lo không yên về tai hoạ sắp giáng xuống đầu lão tướng quân đó thôi.”
Trương Đường không lấy làm ngạc nhiên mà rằng: “Nhãi ranh, muốn thứ gì ở lão phu cứ việc nói rõ, đừng có khoa trương thanh thế hòng hù doạ lão phu”
Cam La nghiêm mặt hỏi: “Lão tướng quân, công lao của ngài so với Vũ An quân Bạch Khởi thì công lao của ai lớn hơn?”
Trương Đường chịu nhận lép vế mà rằng: “Vũ An quân Bạch Khởi thống soái ngàn vạn binh mã, đánh đâu thắng đó. Nói là Bạch Khởi lập nên một nửa giang sơn quả là chẳng phải khoa trương. Cho dù Bạch Khởi đã bị Ứng hầu Phạm Thư xử tội chết đã nhiều năm nay nhưng người nước Tần đều biết công lao của Bạch Khởi. Lão phu đâu dám đánh giá công lao trước mặt Bạch Khởi chứ”.
Cam La biết rõ nhưng vẫn hỏi: “Lão tướng quân biết rằng công lao của mình không bằng Bạch Khởi chứ?”
Trương Đường thẳng thắn: “Đương nhiên là biết”
Cam La nói tiếp: “Thế tôi xin hỏi thêm lão tướng quân, Ưng hầu Phạm Thư so với Văn tín hầu Lã Bất Vi ai là người có quyền cao quýêt đoán hơn?”
Trương Đường suy nghĩ giây lát mà rằng: “Không phải nhà ngươi làm môn khách trong Lã phủ, lão phu cũng phải nói thật lòng. Ưng hầu Phạm Thư đâu có thể bì bằng Văn tín hầu Lã Bất Vi chứ”
Cam La nhấn mạnh ngữ khí hỏi vặn lại: “Lão tướng quân vẫn biết rõ quyền hành của Lã Bất Vi là rất lớn chứ?”
Trương Đường vẫn đáp lại là: “Đương nhiên biểt rõ”.
Giọng Cam La cũng đanh sắc mà rằng: “Điều gì lão tướng quân cũng đều đã rõ thì sao bây giờ lại hồ đồ đến bước chẳng còn thuốc gì cứu vãn nổi? Giống như năm nào, Ưng hầu Phạm Thư lệnh cho An Vũ quân Bạch Khởi đem quân đánh nước Triệu, Bạch Khởi cậy công kiêu ngạo bỏ lời Phạm Thư ngoài tai không chịu xuất quân mà làm theo cách của mình bất chấp mọi người vẫn cứ ở lại thành Hàm Dương. Kết quả ra sao? Bạch Khởi bị đuổi khỏi quốc đô, sau đó Phạm Thư lại sai người giết chết Bạch Khởi. Một đời danh tướng lại nát thây nơi tây thành Hàm Dương! Giờ đây Văn tín hầu Lã Bất Vi đã mấy lần sai người mời ngài đi sứ nước Yên, ngài lại cự tuyệt không tuân mệnh, không biết giờ đây lão tướng quân xuống hoàng tuyền ở chốn nào đây?”
Lời Cam La nói khiến Trương Đường bừng tỉnh giấc mộng, Trương Đường thở dài và hỏi Cam La: “Há Văn tín hầu Lã Bất Vi sai ngươi đến đây sao?”
Cam La nói: “Văn tín hầu Lã Bất Vi hành sự thi lệnh chỉ có một hai bận chứ đâu có năm lần bảy lượt được.Tôi chả là không nỡ thấy lão tướng quân lại dẫm vào vết bánh xe đổ của Bạch Khởi nên mới đến đây nói vậy thôi”.

Những lời Cam La nói khiến Trương Đường sợ hãi tái nhợt mặt mày.
Trương Đường ngồi trên sạp mà như đang ngồi trên thảm gai thì liền rướn người thi lễ Cam La mà rằng: “Tiểu thứ tử, nhà ngươi hãy cứu giúp lão phu phen này”.
Cam La nhẹ nhàng nói: “Lão tướng quân, ngài không nên hoang mang quá. Ngài hãy đến chỗ Văn tín hầu cúi đầu nhận tội và đồng ý đi sứ nước Yên là có thể biến dữ thành lành rồi”.
Trương Đường mời Cam La ngắm cảnh thưởng hoa, vui chơi thoả thích trong phủ của mình rồi ông phanh ngực lộ cánh tự mang roi đi thẳng đến phủ tướng quốc.
Lã Bất Vi thấy tướng quân Trương Đường cúi đầu nhận tội thì vội đỡ ông dậy và hỏi: “Lão tướng quân, sao lại đổi ý muốn đi sứ Yên quốc?”
Trương Đường nói vẻ ngượng ngùng: “Tục ngữ có câu Hữu chi bất tại niên cao, vô chí không hoạt bách tuế! Chính lời tiểu thứ tử của tướng quốc nói làm tôi hiểu ra điều đó.
Lã Bất Vi không tin lắm, hỏi rằng: “Một đứa trẻ ranh miệng còn hơi sữa đi khua môi múa mép lại có thể làm lão tướng quân động lòng ư?”
Trương Đường nói: “Lời tiểu thứ tử thấu tình đạt lý khiến tôi phải tâm phục khẩu phục”.
Điều đó khiến Lã Bất Vi thực sự bất ngờ. Tư Không Mã mấy lần mang chiếu của tướng quốc đến gặp nhưng Trương Đường không đả động. Mấy lời của tiểu Cam La lại khiến Trương Đường thay đổi đến nỗi tối tăm trời đất. Xem ra vị tiểu thứ tử đây tài hoa có phần khác người đấy. Chính ta cũng không phát hiện ra mà chỉ có hắn là thứ tầm thường vô dụng thật là có mắt như không.
Lã Bất Vi đang thầm trách mình thì Trương Đường hỏi: “Tướng quốc đại nhân khi nào tôi lên đường đi Yên quốc?”
Lã Bất Vi nói: “Đương nhiên là nên đi sớm không nên muộn rồi”.
Trương Đường vừa đi không được bao lâu thì Cam La cũng mừng rỡ quay về. Cam La nói với Lã Bất Vi rằng: “Tướng quốc đại nhân, hôm nào mời đại nhân ban chiếu phong thần làm thượng khanh nhé”.
Thế là Lã Bất Vi có phần phân vân khó xử. Không phong cho Cam La làm thượng khanh ư? Chính ta đã hứa rằng nếu Cam La thuyết phục được Trương Đường đi sứ Yên quốc thì sẽ phong làm thượng khanh. Đường đường là tướng quốc của một nước làm sao có thể nuốt lời được? Phong cho Cam La làm thượng khanh ư? Chỉ có mỗi việc thuyết phục Trương Đường đi sứ nước Yên e rằng công lao hơi ít, không đủ để ban chức thượng khanh. Biết làm sao đây…
Cam La thấy Lã Bất Vi lặng yên không nói thì liền nói: “Tướng quốc đại nhân, ngài không cần phải khó xử như vậy đâu. Ngài cứ phong tôi làm thượng khanh đi, tôi làm chơi mấy hôm rồi trả lại ngài thôi”.
Lã Bất Vi thấy Cam La khéo léođáng yêu, lại có thể thuyết phục được Trương Đường đi sứ nước Yên thì chứng tỏ rằng năng lực phân tích giải quyết vấn đề của Cam La không phải là hạng thường. Bản thân mình là tướng quốc và là chủ nhân thì phải nên khen thưởng, đề bạt, tạo cơ hội cho Cam La lập công dựng nghiệp.
Nghĩ đến đó, Lã Bất Vi liền hoà nhã thân thiện nói với Cam La rằng: “Chức thượng khanh không đơn thuần chỉ tốn mấy thứ nước bọt là lấy được. Thế này vậy, ngươi hãy giúp ta lấy năm thành trì Hà Gian của nước Triệu, khi đó ta sẽ phong cho ngươi làm thượng khanh”.
Cam La làm bộ người lớn nói: “Thần xin nghe sai khiến của quân hầu”.
Lã Bất Vi nói: “ngày mai ngươi hãy đến đây, ta sẽ có kế truyền đạt cho nhà ngươi”.

Cam La sảng khoái vui vẻ nhận lời rồi quay trở về chỗ ăn chỗ ở của các môn khách. Lã Bất Vi nhìn cái bóng vui mừng nhảy nhót của Cam La mà than rằng: “Thật là trẻ con!”
Trong mắt Trương Đường thì hết thảy mọi người trong phủ từ thê thiếp đến tôi tớ đều nhìn ông bằng con mắt buồn đau và lo lắng. Trương Đường biết những người này đều vã mồ hôi về việc ông đi sứ nước Yên. Uyển Cơ vợ ông thì khóc cả ngày, mặt mày ủ ê. Trương Đường cũng biết chuyến đi này lành ít dữ nhiều. Nhưng nếu không đi thì việc Lã Bất Vi trong tay một đống quyền hành sẽ khiến ông phải chết dễ dàng giống như giẫm chết một con kiến vậy. Còn nếu làm thành chuyến đi sứ Yên quốc này thì không chỉ có thể biến nguy thành hoà mà còn có thể được thăng quan tiến chức.
Trong phủ, không khí tang thương u uất vẫn ngày một nặng nề. Trong khi Trương Đường đang tỉ mỉ căn dặn Uyển Cơ thì tiền xe binh mã cũng đã chuẩn bị xong một cách nhanh chóng.
Buổi sáng hôm lên đường, trời bắt đầu mưa rả rích. Gió thu ào ào thỉnh thoảng lại tốc rèm mưa lên. Trong không khí thấm đượm sự u ám mịt mù khiến người ta cảm thấy xơ xác tiêu điều. Trương Đường không nỡ nhìn đám tôi tớ con cháu và Uyển Cơ nước mắt đầy mặt xen lẫn nước mưa đang đứng cạnh cửa, ông giật lấy chiếc roi từ người điều khiển và vụt thật mạnh vào mông con ngựa một cái, chiếc xe lắc mạnh và lao đi trong mưa. Khi gần đến cổng thành thì thấy tiếng trống phách dập dồn vọng lại đến đinh tai nhức óc. Trương Đường vén rèm xe bị mưa làm ướt lên thì thấy lố nhố những đầu đội mũ vẫn còn ánh lên vệt nước ở một chỗ sáng sủa không xa về phía trước, thương kích cờ quạt thì dày đặc tựa như cây khô không lá.
Đội xe của Trương Đường còn chưa đi đựơc bao xa thì bị chặn lại. Trương Đường liền sai người đi thăm dò thì liền biết ngay đội quân ấy là do Cam La chỉ huy đến tiễn biệt, ông vừa bực vừa buồn cười. Thật là trẻ con, muốn làm gì là làm. Cam La huy động nhiều người tham gia nghi thức này khiến ầm ĩ cả thành. Trương Đường vốn chọn một ngày mưa gió như vậy để lên đường là vì không muốn cho ai biết để tránh cho nước Triệu biết trước được tin này.
Một lát sau, Cam La liền đến cạnh xe của Trương Đường nói với ông rằng: “Trên đường đi lão tướng quân phải nổi trống giong cờ để tuyên truyền cho hết thảy lớn bé già trẻ được biết. Nhưng hãy đi chầm chậm. Khi đến gần biên giới của nước Triệu thì lão tướng quân hãy dừng chân đón nghe tin tức của tôi”.
Trương Đường không còn dám khinh thường Cam La nữa, ông vội hỏi: “Tiểu thứ tử, nhà ngươi lại có cẩm nang diệu kế gì chăng?”
Cam La nói: “Tôi làm theo kế của Văn tín hầu Lã Bất Vi đại nhân đó, lão tướng quân không nên hỏi nhiều. Tôi đi trước đến Hàm Đan đây”. Nói rồi, Cam La không để Trương Đường kịp hỏi han thêm gì bèn trèo lên xe của mình và khuất dần trong mưa gió mịt mù.
Mấy hôm sau đã bắn ra một tin mới trong thành Hàm Đan là: Tần quốc phái một đứa trẻ 22 tuổi đi sứ Triệu quốc.
Hiếu Thành vương nước Triệu lúc ấy đã qua đời, con trai Hiếu Thành vương là Triệu Uyển lên kế vị lấy hiệu là Điếu Tương Vương. Điếu Tương Vương biết Cam Mậu – cha của Cam La đã từng làm tới chức tả thừa tướng dưới thời của Tần Võ Vương và cũng là môn khách dưới trướng Lã Bất Vi thì không dám chậm trễ làm lễ trọng thể nghinh tiếp Cam La ở Tùng Đài.
Xưa nay Cam La chưa từng thấy trường hợp nào phô trương náo nhiệt như thế. Cam La và Điếu Tướng Vương cùng ngồi dưới triều. Cam La chỉ thấy hai bên triều, bá quan văn võ đều đứng như rừng mọc, thương kích dàn thành trận thì trong lòng không khỏi hồi hộp. Cam La nhớ đến lời Lã Bất Vi đã nhắc nhở; nhà ngươi hãy tỏ rõ phong độ của sứ thần một nước lớn và hãy lấy phong thái ngồi cao nhìn xuống mà nói chuyện với Triệu vương. Đã có trăm ngàn đạo quân hùng mạnh của Tần quốc hậu thuẫn cho ngươi rồi. Điếu Tương Vương sẽ không dám đụng đến một sợi lông của nhà ngươi đâu.
Nghĩ đến đây, Cam La liền trấn tĩnh lại hỏi: “Đại vương, ngài có nghe chuyện thái tử Đan nước Yên đi sứ Tần quốc chúng tôi không?”
Điếu Tương Vương gật đầu nói: “Có nghe nói”
Cam La lại hỏi: “Tần quốc chúng tôi cũng phái lão tướng Trương Đường đi sứ Yên quốc, đã lên đường đi từ lâu. Việc đó đại vương có biết không?”
Điếu Tương Vương nói: “Có biết!”

Cam La nói tiếp: “Thái tử Đan đi sứ Tần quốc biểu thị sự hoà hảo giữa Tần quốc và Yên quốc; Trương Đường đi sứ Yên quốc biểu thị sự hoà hảo giữa Yên quốc và Tần quốc. Yên Tần liên minh, Triệu quốc ở giữa Yên quốc và Tần quốc e rằng sẽ nguy khốn đó.”
Điếu Tương Vương không hiểu bèn hỏi: “Yên Tần liên minh thì làm sao Triệu quốc chúng tôi lại nguy hiểm chứ”
Cam La nói ngay: “Thưa điện hạ, thế ngay cả việc Tần Yên liên quân tấn công Triệu quốc ngài cũng không nhận ra ư?”
Điếu Tương Vương lòng nặng trĩu sợ hãi hỏi: “Chúng tôi đâu có đắc tội với Tần quốc, tại sao Tần quốc lại liên minh với Yên quốc tấn công chúng tôi chứ?”
Cam La nói: “Bệ hạ nói rất phải. Nguyên nhân Tần quốc đánh Triệu quốc là do Văn tín hầu Lã Bất Vi muốn có năm thành trì ở Hà Gian của Triệu quốc đó”.
Điếu Tương Vương biết rằng, Triệu quốc không thể chống đỡ được liên minh Tần Yên mạnh như con thú dữ và dòng thác lũ thì ngồi đỡ đầu trên ngai vàng.

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 259
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com