watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:16:4918/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Hàn Phi Tử V - Trang 10
Chỉ mục bài viết
Hàn Phi Tử V
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tất cả các trang
Trang 10 trong tổng số 10

THIÊN XLI

VẤN BIỆN.

(HỎI VỀ SỰ TRANH BIỆN)


Có người hỏi:
-        Do đâu mà có sự tranh biện?
Đáp:
-        Do bề trên (vua chúa) không sáng suốt.
Lại hỏi:
-          Tại sao bề trên không sáng suốt mà lại sinh ra tranh biện?
Đáp:
-                      Trong nước của một vị minh quân thì lệnh là lời nói rất quí, pháp luật là rất thích đáng. Lời không thể có hai cùng quí[1], pháp luật không thể có hai cùng thích đáng. Cho nên lời nói và việc làm mà không theo pháp lệnh thì phải cấm. Nếu có người nào (bảo) không theo pháp lệnh mà có thể đối phó với sự gian trá, thích ứng với sự biến động, mưu lợi, dò đoán được sự tình thì bậc vua chúa nên thu nạp lời người đó mà xét xem có thực tế không. Lời nói của họ mà thích đáng thì thưởng lớn,[2] không thích đáng thì phạt nặng. Như vậy người ngu sợ tội mà không dám nói (bậy), người thông minh không cãi lí, do đó mà không có sự tranh biện. Đời loạn thì không vậy. Vua ban lệnh mà dân lấy văn học để chê bai, công sở có pháp luật mà dân lấy hành động riêng để sửa pháp luật theo ý mình; vua làm loạn pháp lệnh mà trọng trí lược, hành vi của bọn học giả, vì vậy mới có nhiều văn học. Phàm lời nói và hành vi phải lấy công dụng làm tiêu chuẩn. Mài mũi tên cho thật bén rồi lấy bắn càn thì thế nào mũi tên cũng trúng một sợi lông mùa thu (lông tơ), nhưng như vậy không thể bảo là bắn giỏi được, vì không có cái đích nhất định. Đặt một cái đích rộng năm tấc, đứng cách xa trăm bước thì nếu không phải là Nghệ và Phùng Mông[3] tất bắn không trúng được, vì phải nhắm một cái đích nhất định. Cho nên nhắm đích nhất định, thì đích rộng tới năm tấc mà bắn được như Nghệ và Phùng Mông đã là khéo rồi; không có đích nhất định mà bắn càn thì dù trúng mười cái lông mùa thu cũng là vụng. Nay nghe lời nói, xét hành vi (của ai) mà không lấy công dụng làm tiêu chuẩn thì lời tuy rất tinh thâm, hành vi tuy rất kiên cường, cũng chỉ là lời nói càn (việc làm càn) thôi. Cho nên thời loạn thì người ta cho lời khó hiểu là tinh thâm, cho sự uyên bác là hùng biện; xét hành vi thì người ta cho sự xa rời quần chúng là hiền minh, cho sự phạm thượng là cao ngạo. Bậc vua chúa thích lời tinh thâm, hùng biện, trọng hành vi hiền minh, cao ngạo, cho nên tuy có người lập ra pháp luật, định hành vi nào nên giữ nên bỏ, phân biệt lời nào phải lời nào trái, (tới chỗ này chắc sắp chữ thiếu?) nên kẻ mặc áo nhà Nho và bọn đeo kiếm (hiệp khách) mới đông, nông phu và chiến sĩ mới ít, lời luận về “chắc, trắng”, “không có chiều dầy"[4] mới nổi lên mạnh, mà pháp lệnh của quốc gia không còn. Vì vậy mà tôi bảo rằng bề trên không sáng suốt thì sinh ra tranh biện.
 
[1] Nghĩa là về một việc đã ra lệnh thì phải theo, chứ không thể vừa theo lệnh đó vừa theo một mệnh lệnh ngược hoặc khác hẳn.
[2] Nguyên văn: hữu đại lợi = có lợi lớn (cho người nói), tức là người đó sẽ được thưởng.
[3] Hai người bắn giỏi thời xưa – Phùng Mông là học trò của Nghệ. Nhiều người đọc là Bàng Mông hoặc Bồng Mông, nhưng lối đọc này bị các học giả Nhân Sư Cổ và Nguyễn Nguyên bác.
[4] )   Công Tôn Long tách rời cái cứng và cái trắng (li kiên bạch) Như phiến đá trắng, lúc thì ta thấy nó trắng mà không thấy nó chắc, lúc thì thấy nó chắc mà không thấy nó trắng, thấy cái nọ, không thấy cái kia, như vậy là cái nọ lìa cái kia, không chứa cái kia.
Huệ Thi bảo: cái không có chiều dày thì không chồng chất lên được, vậy mà nó lớn tới ngàn dặm (vô hậu, bất khả tích dã, kì đại thiên lí).
Coi thiên Thiên hạ trong Trang tử. Không rõ Huệ Thi (một nhà ngụy biện cũng như Công Tôn Long) muốn nói gì. Có người không chấm câu sau chữ hậu và giảng là: không có cái gì có chiều dày mà không chồng chất lên được, chất hoài nó sẽ lớn tới ngàn dặm.

THIÊN XII

THUẾ NẠN

(DU THUYẾT KHÓ)


1.      Du thuyết khó ở chỗ hiểu được tâm lý đối phương[1]
Du thuyết khó, nhưng không khó ở chỗ trí thức của ta đủ thuyết phục được vua chúa hay không, cũng không khó ở chỗ khẩu tài của ta phát biểu được rõ ý của ta hay không, cũng không khó ở chỗ ta dám tung hoành phóng dật diễn hết ý của ta hay không, mà khó ở chỗ hiểu được tâm lí đối phương để cho lời chúng ta hợp với tình ý của họ. Như đối phương nghĩ tới danh dự thanh cao mà ta đem tài lợi ra thuyết thì tất họ cho ta là bỉ lậu, tư cách đê hèn mà không dùng ta, xa lánh ta. Nếu đối phương nghĩ tới tài lợi mà ta đem danh dự thanh cao thuyết thì họ cho ta là không biết thời thế, không hiểu sát sự tình, tất không thu dụng ta. Đối phương trong lòng thích tài lợi mà ngoài mặt bộ thích danh dự cao, nếu ta đem danh dự thanh cao ra thuyết thì bề ngoài họ thu dụng ta mà thực tâm xa lánh ta; nếu ta đem tài lợi ra thuyết thì bề trong họ dùng lời ta mà bề ngoài xa lánh ta. Những điều đó không thể không xét được.

2.      Những điều nên tránh để khỏi nguy hiểm tới thân.
Việc làm phải kín đáo mới thành công, lời nói vì tiết lậu mà thất bại. Không nhất định là mình có ý tiết lậu ra, có khi chỉ vì vô tình nói đến điều đối phương muốn giấu mà thân cũng nguy rồi. Đối phương bề ngoài làm việc đó mà thực sự nhắm mục đích khác, kẻ du thuyết không những biết việc mưu tính của họ lại còn biết họ vì lẽ gì mà làm như vậy, thế là thân sẽ nguy. Mình giúp họ lập kế hoạch về một việc đặc biệt nào đó mà thỏa đáng, có kẻ thông minh ở ngoài dò xét biết được, việc tiết lậu ra, họ sẽ cho là chính mình tiết lậu, như vậy thân sẽ nguy. Tình chưa thân, ân huệ chưa thấm nhuần, mà nói hết ra như chỗ cực thân với nhau, nếu ý kiến của mình được thi hành mà thành công thì rồi mình cũng bị quên; còn nếu như ý kiến của mình thi hành không được mà thất bại thì sẽ bị nghi, như vậy thân sẽ nguy. Bậc quí nhân có điều lầm lỗi mà kẻ du thuyết đem lễ nghĩa ra bàn để che cái ác của họ, như vậy thân sẽ nguy. Bậc quý nhân được người ta bày cho một mưu kế nào mà thích, coi đó là công của mình, kẻ du thuyết biết rõ đầu đuôi, như vậy thân sẽ nguy. Ép buộc họ làm một việc mà họ không làm được, ngăn cản không cho họ làm một việc mà họ không thể không làm, như vậy thân sẽ nguy. Cùng phê bình với họ về các đại thần của họ thì họ cho là mình có lòng li gián bọn họ với nhau; cùng phê bình với họ về hạng quan nhỏ của họ thì họ cho rằng mình được yêu mà lộng quyền. Phê bình những người họ yêu thì họ cho rằng mình muốn nhờ cậy bọn đó; phê bình những kẻ họ ghét thì họ cho rằng mình muốn dò xét lòng họ. Lời của mình thẳng tuột mà vắn tắt thì họ cho là mình bất trí, vụng về; còn như mình biện bác tế toái thì họ cho là mình rườm rà, tô điểm. Bày tỏ sự tình, ý kiến một cách sơ lược thì họ bảo mình nhút nhát, không dám nói hết; suy xét kỹ sự tình và trình bày một cách phóng túng thì họ bảo mình lỗ mãng, khinh mạn. Đó là những chỗ khó khăn trong sự du thuyết, không thể không biết được.

3.      Những thuật để thành công.
Điều cốt yếu của phép du thuyết là biết tô điểm cái mà đối phương khoe khoang tự phụ và che giấu cái đối phương lấy làm hổ thẹn. Họ gấp muốn làm một việc thì phải thuyết sao cho việc riêng đó thành ra nghĩa chung mà khuyến khích họ làm. Trong ý họ, họ cho việc đó là đê hèn nhưng không thể không làm được thì kẻ du thuyết phải tô điểm sao cho việc đó hóa ra đẹp đẽ, nếu không làm thì đáng tiếc. Trong lòng họ cho việc đó là cao thượng nhưng thực tế họ không làm được, kẻ du thuyết phải vạch rõ chỗ hỏng của việc (cho?) họ thấy nó xấu, rồi khen rằng không làm là sáng suốt. Họ muốn khoe trí thì kể cho họ nghe nhiều việc khác đồng loại với việc họ định làm để họ tham khảo được rộng, khiến cho họ dùng kiến nghị của ta mà ta cứ giả đò như không biết, để họ không ngờ rằng mình đã mở trí cho họ. Muốn dâng cái ý rằng đôi bên (họ và người khác) nên chung sống với nhau thì phải khen rằng hành động như vậy sẽ được tiếng tốt mà đồng thời ám chỉ rằng cũng hợp với tư lợi của họ nữa; muốn bày tỏ sự nguy hại thì cho họ thấy rằng như vậy sẽ bị phỉ báng mà đồng thời ám chỉ rằng có hại riêng cho họ nữa. Nên khen những người hành vi giống hành vi của họ, mưu tính những việc giống việc của họ.  Nếu có kẻ nào cũng dơ dáy như họ thì nên tô điểm cho là không có gì thương phong bại tục; có kẻ nào cũng thất loại như họ thì nên tỏ rõ rằng kẻ đó không hề lầm lẫn. Nếu họ tự nhận rằng năng lực dồi dào thì đừng đem những nỗi khó khăn ra làm nhụt chí của họ;[2] nếu họ tự cho là quyết đoán hơn người thì đừng vạch những lầm lẫn của họ cho họ giận, nếu họ cho rằng mưu tính sáng suốt thì đừng đem sự thất bại ra nén lòng họ. Đừng trái với chủ ý của họ, đừng xung đột trong lời nói với họ, như vậy rồi mới đem hết tài trí ra trần thuyết. Đó là cái phép làm cho họ thân cận, không hoài nghi, rồi mới có thể hết lời thuyết phục họ được.
Y Doãn làm đầu bếp, Bách Lí Hề[3] làm tôi mọi, đều là vì muốn bề trên biết tới mình. Hai ông đó đều là bậc thánh mà còn làm những việc ti tiện để cầu tiến thân, xấu xa như vậy đó. Nay ta làm tên đầu bếp hay kẻ tôi mọi mà có thể được vua chúa lắng nghe lời ta, dùng mưu ta để cứu đời thì có gì đáng xấu hổ cho hạng sĩ có tài năng đâu. Trên dưới ở gần nhau đã lâu ngày, tình đã thân thiết mà ân trạch đã thấm nhuần, bàn những kế hoạch sâu sắc mà không bị nghi ngờ, tranh biện mà không bị tội, lúc đó ta mới có thể phân tích lợi hại để lập sự nghiệp cho vua, nói thẳng điều phải trái để sửa đức hạnh của vua; vua tôi đối đãi với nhau được như vậy là ta thành công trong sự du thuyết.

4.      Dẫn cố sự để chứng minh.
Xưa kia Trịnh Vũ Công muốn đánh nước Hồ, mới đầu đem con gái gả cho vua Hồ để làm cho vua Hồ vui lòng. Rồi hỏi quần thần: “Trẫm muốn dùng binh thì nước nào nên đánh?” Quan đại phu là Quan Kỳ Tư bảo: “Nên đánh nước Hồ”. Vũ Công giận, sai đem giết Quan Kỳ Tư, bảo: “Hồ là nước anh em, sao nhà ngươi lại bảo nên đánh?” Vua Hồ nghe chuyện đó, cho là nước Trịnh thân với mình, không đề phòng, quân Trịnh đánh úp mà chiếm được.
Nước Tống có một nhà giàu, trời mưa, tường đổ. Người con nói” “Không xây lại thì sẽ bị trộm”. Cha người hàng xóm cũng nói như vậy. Tối, quả nhiên mất trộm lớn; người trong nhà rất khen người con là khôn ngoan mà nghi cha người hàng xóm.
Lời hai người đó nói đều đúng cả mà nặng (Quan Kỳ Tư) thì bị giết, nhẹ (cha người hàng xóm) thì bị nghi, vậy đủ thấy: biết không phải là khó, biết dùng cái biết mới khó. Cho nên lời đoán của Nhiễu Triều[4] rất xác đáng, người nước Tống coi ông là bậc thánh mà người nước Tần coi ông là vô dụng[5]. Điều đó không thể không xét được.

5.      Phải xem vua yêu hay ghét mình; đừng làm trái ý vua.
Xưa Di Tử Hà được vua Vệ yêu. Theo phép nước Vệ, hễ lén đánh xe của vua thì bị tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà đau, có người hay tin, đương đêm báo cho Di Tử Hà; Di Tử Hà truyền lệnh giả rồi ngồi xe vua ra khỏi cung. Vua hay được khen: “Thực có hiếu, vì mẹ mà quên tội chặt chân”. Một hôm khác, Di Tử Hà cùng dạo trong vườn với vua, ăn một trái đào, thấy ngọt, lấy nửa trái đào ăn dở đút cho vua. Vua bảo: “Thực là yêu ta. Quên miếng ngon mà đút cho ta”. Đến khi dung nhan Di Tử Hà suy kém, tình yêu của vua lơi là, có tội với vua, vua bảo: “Nó đã tự tiện lên ngồi xe của ta, lại đút cho ta trái đào nó ăn dở”. Hành vi của Di Tử Hà có thay đổi gì đâu mà trước thì được khen, sau lại bắt tội, chỉ tại lòng yêu ghét đã thay đổi vậy. Cho nên được vua yêu thì tài trí hóa ra hợp ý, bị vua ghét thì tài trí hóa ra không hợp ý, bị tội mà càng hóa sợ. Cho nên kẻ sĩ can gián, du thuyết, đàm luận, không thể không xét vua chúa yêu hay ghét mình rồi sau mới nên thuyết.
Rồng là con vật thuần, có thể lấn lớn mà cưỡi, nhưng dưới họng nó có những vẩy ngược chu vi rộng cả thước, ai mà đụng tới thì nó sẽ giết. Bậc vua chúa cũng có những vẩy ngược, kẻ du thuyết mà biết đừng đụng tới thì là tạm được rồi.

[1] Chúng tôi chia đoạn, đánh số và đặt tiêu đề cho mỗi đoạn. Thiên này chúng tôi đã dịch trong Cổ văn Trung Quốc (Tao đàn 1966) nay sửa lại vài chỗ.
[2] Nguyên văn: khái (概) là cái ống để gạt thóc, sau trỏ công việc gạt thóc, do đó có nghĩa là làm cho vơi đi.
[3] Y Doãn là một tể tướng giỏi đời Thương, có công đánh vua Kiệt, hồi trẻ nghèo, muốn được tiến cử lên vua Thương, phải xin làm đầu bếp đem phép gia vị trong thuật nấu ăn để giảng cho vua Thang hiểu về vương đạo. Đó chỉ là truyền thuyết, chưa đáng tin.
Bách Lí Hề là một vị tể tướng giỏi nhà Tần. Trước làm đại phu nước Ngu, ông bị bắt làm tù binh, sau trốn được, bị nước Sở bắt phải làm đầy tớ chăn bò. Tần Mục công đem năm bộ da dê chuộc ông, giao cho việc nước. Vậy ông vì hoàn cảnh mà phải chăn bò chứ không cố ý chăn trâu bò để cầu cạnh vua Tần biết đến. Tác giả dẫn thí dụ đó hơi ép.
[4] Nhiễu Triều là một đại phu nước Tần. Một vị công khanh nước Tấn tên là Sĩ Hội trốn qua Tần, được Tần Mục Công trọng: nước Tấn thấy vậy sai người lén qua Tần thuyết phục Sĩ Hội và đón Sĩ Hội về. Nhiễu Triều biết trước việc đó, can vua Tần, vua Tần không nghe.
[5] Chữ lục (戮) (giết) ở đây, (vi lục ư Tần) theo Cổ kim văn tuyển, nên coi là chữ nhục, có nghĩa là bị nhục không được vua Tần tin dùng.

THIÊN III

NẠN NGÔN

(KHÓ NÓI)


Thần là Phi, không phải là khó nói. Sở dĩ khó nói là vì: lời nói xuôi tai, thân mật, hoạt bát, trơn tru đẹp đẽ, có thứ tự thì bị xem là hoa mĩ, không thành thực; lời nói đôn hậu, cung kính, cương trực, cố chấp thận trọng, chu đáo thì bị xem là vụng về, mà lộn xộn; nói nhiều mà tường tận dẫn chứng, so sánh đưa tỉ dụ bị xem là trống rỗng, vô dụng; lời nói tóm tắt, giản lược, trình những phép chính mà không tô điểm thì bị xem là khái quát không rõ ràng; lời nói đụng chạm tới người thân cận của vua và thấu đáo nhân tình thì bị xem là lấn người, không khiêm nhượng; lời nói mênh mông, quảng bác xa xôi, khó lường thì bị xem là khoe khoang, vô dụng; nói những chuyện vặt trong nhà, đưa cả những con số ra thì thì bị xem là bỉ lậu; nói mà hợp thế tục, tránh xa không làm phật ý người thì bị xem là tham sống, nịnh bề trên, nói mà khác thế tục, không cận nhân tình thì bị xem là quái đản; lời nói mẫn tiệp, hùng hồn nhiều văn vẻ thì bị xem là tô điểm, không thành thật; bỏ hết văn hoa, cái chất phác nói thẳng sự việc ra thì bị xem là quê mùa; thường dẫn thi thơ kinh điển, kể những phép tắc thời xưa thì bị xem là chỉ biết tụng sách cổ. Đó là những lẽ làm cho thần là Phi khó nói mà rất sợ sệt. Cho nên đồ đo lường tuy đúng vị tất đã được theo, nghĩa lý tuy hoàn bị, vị tất đã được dùng. Nếu đại vương không tin lời thần muốn nói thì (xin xem người đời xưa can vua), tội nhẹ thì bị hủy báng mà tội nặng thì bị họa chết chóc đến mình[1].
(Chúng tôi cắt bỏ đoạn giữa Hàn Phi dẫn chứng hơn một chục cổ nhân – như Ngũ Tử Tư, Khổng Tử, Quản Trọng, Y Doãn, Văn Vương, Tỉ Can, Tôn Tử, Ngô Khởi, Thương Ưởng….đều là “bậc hiền tài, trung lương, có đạo thuật, vì chẳng may gặp một ông vua hung bạo, hôn ám mà phải chết” Cuối cùng Hàn Phi kết luận:)
Vậy tuy là hiền thánh cũng không thoát chết, không tránh khỏi bị lăng nhục. Tại sao vậy? Tại khó thuyết phục được kẻ ngu.[2] Lời nói phải thì trái tai, phật ý, không phải là hiền nhân, thánh nhân thì không chấp nhận được. Xin đại vương xét kỹ cho.
Nhận định : Vì đoạn cuối có câu “Tại khó thuyết phục được kẻ ngu” nên nhiều học giả ngờ rằng thiên này không phải là một bài biểu do Hàn Phi viết, mà do người sau ngụy tạo. Nhưng có nhà như Léon Vandermeersch (trong sách đã dẫn, trang 183) lại bảo chính giọng phạm thượng đó chứng tỏ rằng thiên đó của Hàn Phi, chứ nếu người sau viết thì tất không dám cho Hàn Phi mạt sát vua là “kẻ ngu” như vậy. Và ông đoán rằng bài biểu đó không phải để dâng lên vua Hàn, mà để gởi Tần Thủy Hoàng khi Hàn Phi biết chắc rằng mình không thoát chết, chẳng cần giữ ý nữa. Chúng tôi ghi lại cả hai ý kiến. Thực hư ra sao, chưa dám quyết đoán.

[1] Nguyên văn: Đại vương nhược dĩ thử bất tín, tắc tiểu giả dĩ vi hủy, tỉ phỉ báng, đại giả hoạn họa tai hại tử vong cập kì thân. Có sách giảng là: nếu đại vương không tin lời người nói thì người nói ít ra cũng bị cho là có ý hủy báng, nhiều hơn thì bị tai họa chết chóc đến mình.
[2] Ở đây có bản thêm 6 chữ: cố quân tử bát thiểu dã; ngờ rằng sai.

THIÊN XI

CÔ PHẪN

( NỖI UẤT CÔ ĐƠN )


Kẻ sĩ biết thuật[1] tất nhìn xa, xét rõ; không xét rõ thì không thấu được tư tâm của kẻ khác. Kẻ sĩ giỏi pháp độ tất cương nghị mà ngay thẳng, không ngay thẳng thì không hiểu chính được kẻ gian. Bề tôi nào cứ tuân lệnh (vua) mà làm, theo pháp luật mà thi hành chức vụ thì không gọi là “trọng nhân”[2]. Kẻ nào không có lệnh (vua) mà tự chuyên, làm trái pháp luật để lợi cho mình, làm hao tốn của nước để ích cho nhà, dùng khí lực khiến được vua theo mình, như vậy mới là trọng nhân. Kẻ sĩ biết thuật, xét rõ mà được dùng thì thấu được tình mờ ám của trọng nhân. Kẻ sĩ giỏi pháp độ, ngay thẳng mà được dùng thì kiểu chứng được hành vi gian tà của trọng nhân. Cho nên kẻ sĩ biết thuật, giỏi pháp độ mà được dùng thì hạng bề tôi tôn quí tất bị gạt ra ngoài,[3] thành thử họ với bọn cầm quyền thù nhau đến một mất một còn.
Bọn cầm quyền mà nắm sự thưởng phạt thì chư hầu ở ngoài và bách quan trong triều đều bị họ sai khiến. Chư hầu không nương tựa vào họ thì việc không thành, cho nên địch quốc ca tụng họ; bách quan không nhờ cậy họ thì công nghiệp không tiến, cho nên quần thần bị họ sai khiến; kẻ tả hữu của vua không nhờ cậy họ thì không được gần vua, cho nên che giấu lỗi của họ; hạng học sĩ không nhờ cậy họ thì lộc ít, lễ thấp[4], cho nên nói tốt cho họ. Bọn gian thần nhờ bốn sự yểm trợ đó (của chư hầu, quần thần, kẻ thù của nhà vua, các học sĩ) mà tự tô điểm cho chúng. Bọn trọng nhân không thể trung với chúa mà tiến cử kẻ thù (tức các kẻ sĩ có pháp thuật), các vua chúa không vượt được bốn sự yểm trợ trên mà xét rõ bọn gian thần, cho nên vua chúa bị che lấp thì đại thần càng quyền cao chức trọng. Bọn đại thần đương cầm quyền, ít khi không được tin yêu, lại được vua biết từ lâu, cho nên đón được ý vua, vua thích hay ghét cái gì họ cũng thích, ghét cái đó, nhờ vậy mà tiến thân. Quan tước cao quí mà bè đảng lại đông nên được cả nước khen. Còn kẻ sĩ giỏi pháp thuật có muốn yết kiến vua thì lại thiếu tình thân yêu tin cậy, không được cái may mắn được vua biết từ lâu, mà lại đem lời pháp thuật ra kiểu chính lòng vua, tất làm trái ý vua. Địa vị họ đã thấp, lại không bè đảng nên bị cô lập. Họ là kẻ sơ tình mà muốn tranh với kẻ thân cận của vua, tất nhiên là không thắng được; họ mới tới mà muốn tranh với kẻ quen biết từ lâu, tất nhiên là không thắng được; họ làm trái ý vua mà muốn tranh với kẻ chiều ý vua, tất nhiên là không thắng được; họ ở địa vị thấp hèn mà muốn tranh với kẻ cao quí, tất nhiên là không thắng được; họ chỉ có một miệng mà muốn tranh với cả nước, tất nhiên là không thắng được. Kẻ sĩ giỏi pháp thuật ở vào năm cái thế không thắng được đó nên có đợi mấy năm nữa cũng không được yết kiến vua, còn bọn đương cầm quyền thừa năm cái thế thắng được kia mà sớm chiều trình bày trước mặt vua, như vậy thì kẻ sĩ giỏi pháp thuật do đường nào mà được tiến cử, còn vua chúa biết bao giờ mới được giác ngộ? Thế đã không thắng được vua mà lại không sống chung được (với bọn trọng nhân); tất có kẻ mất người còn, kẻ sĩ giỏi pháp thuật làm sao khỏi bị nguy? Bọn trọng nhân nếu có vu tội lỗi cho ai thì sẽ dùng phép công mà giết người đó; không thể vu được thì sai người ám sát[5]. Tóm lại, làm sáng tỏ pháp luật là trái ý vua chúa, nếu không bị quan giết thì tất cũng chết vì bị ám sát.
Những kẻ lập bè đảng vào hùa với nhau để che lấp vua, nói những lời trái pháp luật để mưu tư lợi thì tất được bọn trọng nhân tin dùng; ai có thể gán cho công lao thì trọng nhân sẽ tặng cho quan tước cao sang, ai có thể gán cho tiếng tốt thì mượn thế nước ngoài mà cho được quí trọng. Vậy che lấp vua mà hùa theo một họ riêng (trỏ bọn đại thần tự chuyên) thì nếu không được chức tước vinh hiển, cũng được quí trọng nhờ thế nước ngoài. Nay các vua chúa không dùng cách tham nghiệm[6] mà trừng phạt, không đợi thấy công lao rồi mới ban tước lộc, thì kẻ sĩ biết pháp thuật làm sao dám liều chết mà đưa ý kiến, bọn gian thần làm sao chịu bỏ tư lợi mà rút lui? Thành thử vua chúa càng mất địa vị còn các họ riêng càng được tôn quí. Nước Việt tuy giàu, mạnh, mà các vua Trung nguyên (như Chu, Tề, Lỗ…) đều cho là vô ích cho mình, bảo : “Nước đó (ở xa) ta không chế ngự được” (có ích lợi gì cho ta đâu). Nay bậc làm vua một nước đất rộng dân đông, mà bị đại thần chuyên quyền che lấp thì nước đó cũng như nước Việt vậy (vô ích cho vua). Nước Việt, mình không chế ngự được, mà nước mình, mình cũng không chế ngự được, đó là chỗ giống nhau; vậy mà nước Việt thì mình biết là vô ích cho mình, còn nước mình thì mình lại không biết vậy, thế là không biết xét sự giống nhau ở đâu[7]. Người ta bảo nước Tề mất, không phải vì đất và thành mất, mà vì họ Lữ mất quyền mà quyền về họ Điền hết[8]. Người ta bảo nước Tấn mất cũng không phải vì đất và thành mất, mà vì họ Cơ[9] mất quyền mà sáu quan khanh chuyên quyền. Nay đại thần cầm quyền độc đoán mà chúa ở trên không biết thâu quyền lại, tức là không sáng suốt. Mắc cùng bệnh với một người chết thì không sao sống được; cùng có những hành vi với một nước mất thì nước cũng không sao còn được. Theo dấu vết của Tề, Tấn mà mong cho nước yên ổn tồn tại, là điều không thể được.

Pháp và thuật khó thi hành được, không phải chỉ những nước vạn cỗ xe (nước lớn) mới vậy, mà các nước ngàn cỗ xe (nước nhỏ) cũng vậy. Kẻ tả hữu của bậc vua chúa không nhất định là người trí; bậc vua chúa nghe lời được hay của người trí, rồi đem lời đó bàn với kẻ tả hữu, như vậy là cùng với người ngu luận về người trí[10]; bậc vua chúa thấy hành vi của người hiền mà trọng, rồi đem hành vi đó bàn với kẻ tả hữu, như vậy là cùng với kẻ càn dở luận về người hiền. Kế hoạch của người trí phải do người ngu quyết định, hành vi của người hiền phải do kẻ gàn dở phê phán, thì kẻ sĩ trí mưu và hiền lấy làm xấu hổ mà lời bàn của bậc vua chúa sai lầm hết. Bề tôi mà muốn được làm quan, thì hạng sĩ có đức hạnh phải sửa mình cho liêm khiết, hạng sĩ có trí mưu phải luyện tài biện luận để tiến nghiệp, chứ không thể dùng của cải đút lót và thờ người; chỉ trông vào đức liêm khiết, tài biện luận của mình, mà lại không chịu bẻ cong pháp luật để trị nước, như vậy không thể thờ kẻ tả hữu của vua chúa, không thỏa mãn yêu cầu của chúng được. Bọn tả hữu có đức không được như Bá Di[11], yêu sách (kẻ sĩ) không được, không được (kẻ sĩ) đút lót, tất không kể gì tới công sửa mình cho liêm khiết, luyện tài biện luận cho hơn người của kẻ sĩ mà chỉ hủy báng, vu oan cho họ thôi. Thế là cái công luyện tài biện luận hóa công toi, cái đức liêm khiết bị hủy báng, rốt cuộc kẻ sĩ hiền, trí bị bỏ rơi mà sự sáng suốt của vua chúa bị che lấp. Không xét công lao nhiều ít mà phán đoán về tài trí, đức hạnh, không dùng cách khảo nghiệm để thẩm xét tội lỗi, chỉ nghe lời kẻ tả hữu thân cận, như vậy, triều đình tất đầy kẻ bất tài mà bọn ngu xuẩn tham ô nắm hết các chức vụ. Mối lo của nước có vạn cỗ xe là đại thần có quyền lớn quá; mối lo của nước có ngàn cỗ xe là kẻ tả hữu được tin dùng quá; đó là những mối lo chung của các bậc vua chúa. (Tới nông nỗi đó thì) bề tôi có tội nặng của bề tôi mà vua chúa cũng có lỗi lớn của vua chúa.
Cái lợi của vua chúa và bề tôi vốn khác nhau. Sao biết được điều ấy? Đáp: Cái lợi của vua chúa ở chỗ kẻ nào có tài thì giao cho quan chức, còn cái lợi của bề tôi ở chỗ mình vô tài mà được làm quan; cái lợi của vua chúa ở chỗ ai có công lao thì mới thưởng cho tước lộc, còn cái lợi của bề tôi ở chỗ mình không có công mà cũng được giàu sang; cái lợi của vua chúa ở chỗ khiến cho hào kiệt trổ hết tài năng, còn cái lợi của bề tôi ở chỗ kết bè đảng mà mưu tư lợi. Do đó mà đất đai của nước bị tước lần đi[12] mà tư gia cứ giàu thêm, vua chúa mạt địa vị mà quyền của đại thần mạnh lên; vua thất thế mà bề tôi nắm quyền trong nước, vua phải xưng là phiên thần[13] cho nước ngoài mà tướng quốc thì chẻ phù[14] (ra lệnh cho quần thần), như vậy là bề tôi lừa vua để mưu lợi riêng cho mình. Cho nên đại thần cầm quyền, một khi vua có sự thay đổi[15] mà còn được sủng ái như trước thì mười người không chắc được hai ba. Tại sao vậy? Tại tội của họ lớn quá. Bề tôi có tội lớn, lừa gạt chúa, tội đó đáng chết. Kẻ sĩ có trí, thấy xa, sợ tội chết nên không theo chúng. Kẻ sĩ có đức, liêm khiết, cho sự vào bè với gian thần là xấu hổ, nên không theo chúng. Vậy kẻ đi theo bọn đại thần đương cầm quyền, nếu không phải là ngu xuẩn, không sợ chết thì tất là tham ô không tránh bọn gian. Bọn đại thần nắm hạng người ngu xuẩn tham ô đó để trên thì gạt chúa, dưới thì thu lợi, vơ vét của dân[16], kết bè đảng, vào hùa nhau, trăm miệng như một làm mê hoặc chúa, bại hoại pháp luật để loạn sĩ dân, khiến cho nước suy vong, mất lần đất đai, chúa bị hao tổn, nhục nhã, tội đó lớn lắm. Bề tôi có tội lớn mà vua chúa không cấm được, cũng là có lỗi lớn. Khiến cho ở trên vua có lỗi lớn, như vậy mà mong nước không bị diệt vong, là điều không thể được.

[1] Nguyên văn là tri (知) thuật chi sĩ, có sách đọc là trí thuật; chúng tôi nghĩ nên đọc là tri để ứng với năng (năng pháp chi sĩ) ở dưới. Cả hai đều là động từ hết.
[2] Hạng quý tộc quyền cao chức trọng thủ cựu, chỉ nghĩ tới tư lợi.
[3] Nguyên văn: tại thằng chi ngoại = phần ở ngoài lằn dây mực tức phần phải đẽo hoặc cưa bỏ đi.
[4] Nguyên văn: lễ ti, có sách giảng là không được thấy (dự) những lễ lớn; ý nói là không được trọng vọng.
[5] Nguyên văn: dĩ tư kiếm nhi, cùng chi = mượn cây kiếm riêng mà trừ đi, tức là dùng thích khách để trừ.
[6] Xét mọi mặt xem có hợp nhau không rồi mới quyết đoán.
[7] Câu này chúng tôi lấy ý mà dịch.
[8] Họ Lữ đây là hậu duệ của Lữ Vọng, được phong làm vua nước Tề. Họ Điền làm đại thần ở Tề, sau cướp ngôi Tề. Coi chú thích thiên Ngũ đố.
[9] Họ Cơ là họ vua Chu và một số vua chư hầu: Lỗ, Tấn, Trịnh.
[10] Chỗ này chắc thiếu một câu: Kẻ tả hữu của bậc vua chúa không nhất định là người hiền.
[11] Một ẩn sĩ liêm khiết đời Chu: Coi truyện Bá Di trong Sử kí của Tư Mã Thiên – Văn Học tái bản 1994.
[12] Vì gian thần cấu kết với nước ngoài, khuyên vua cắt đất để thờ nước ngoài.
[13] Nước nhỏ chịu lệ thuộc nước lớn, tức như thuộc địa của nước lớn.
[14] Phù là thẻ tre (hay gỗ) để làm tin. Ghi hiệu lệnh trên thẻ đó rồi chẻ làm hai, một nửa giao cho kẻ thừa hành, một nửa thì mình giữ lại.
[15] Như khi vua chết hoặc bị tiếm ngôi. Có sách giảng là khi vua thay đổi chính sách. Trường hợp này có thể có, nhưng rất hiếm.
[16] Nguyên văn: xâm ngư, nghĩa là xâm đoạt như bủa lưới bắt cá

THIÊN XIII

HÒA THỊ
(HỌ HÒA)


Người nước Sở là ( Biện) Hòa tìm được trong núi Sở một khối ngọc sống, đem dâng vua Lệ vương[1]. Lệ vương sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc bảo chỉ là một cục đá. Lệ vương cho (Biện) Hòa là nói láo, ra lệnh chặt chân trái ông ta. Khi Lê vương mất, Võ vương[2] nối ngôi, (Biện) Hòa lại dâng ngọc lên. Võ vương lại sai thợ ngọc xem, thợ ngọc lại bảo chỉ là đá. Võ vương lại cho là Biện Hòa nói láo, ra lệnh chặt chân phải ông ta, Võ vương chết, Văn vương[3] lên nối ngôi, (Biện) Hòa ôm khối ngọc mà khóc ở chân núi Sở ba ngày đêm, hết nước mắt thì khóc ra máu. Văn vương hay tin, sai người hỏi nguyên do :
- Trong thiên hạ có nhiều người bị chặt chân, sao mà riêng ông khóc lóc bi thảm đến vậy ?
(Biện) Hòa đáp :
- Tôi không đau xót vì bị chặt chân mà vì nỗi : thiệt là ngọc mà lại bảo là đá, kẻ sĩ ngay thẳng mà lại bảo là nói láo, tôi đau xót vì lẽ đó.
Nhà vua bèn sai thợ mài khối ngọc đó, được một hòn ngọc quí, và đặt tên là : “ngọc bích Biện Hòa”.

*

Châu ngọc là thứ mà nhà vua muốn có gấp, dù Biện Hòa dâng một khối ngọc không tốt thì cũng không hại gì cho nhà vua, thế mà phải bị chặt hai chân rồi khối ngọc mới được nhận là quí; nhận ra được của báu, khó như vậy đó. Ngày nay bậc vua chúa cần có pháp thuật để ngăn cấm quần thần, sĩ dân, gian tà chưa chắc đã gấp như cầu có ngọc bích Biện Hòa[4]; sở dĩ kẻ sĩ có đạo ( tức có pháp thuật) chưa bị giết là vì họ chưa dâng thứ ngọc lập nên nghiệp đế vương (tức pháp thuật) cho vua vậy. Vua chúa dùng thuật thì đại thần không thể tự chuyên, kẻ thân cận không dám bán quyền chức; quân thi hành pháp luật thì bọn du thủ du thực vội quay về nghề nông, bọn sĩ du thuyết phải chịu cảnh nguy hiểm ngoài mặt trận[5]. Vậy thì pháp thuật là cái quần thần, sĩ dân cho là tai họa; bậc vua chúa nếu không phản đối lời bàn bạc của đại thần, không bất chấp lời chê bai của nhân dân, cứ làm đúng theo đạo thì kẻ sĩ có pháp thuật dù chết, đạo[6] vẫn không được chấp nhận.

*

Xưa Ngô Khởi dạy[7] Sở Điệu vương về tục (tình hình) nước Sở: “Quyền thế của đại thần lớn quá, các vị hầu được phong đất nhiều quá, như vậy họ áp bức chúa ở trên, ngược đãi dân ở dưới, nước tất nghèo mà binh tất yếu. Chi bằng đối với con cháu các vị hầu được phong đất, cứ ba đời thì thu tước lộc lại, tài giảm lương bổng của thư lại, bỏ các chức quan không cần thiết đi để có tiền nuôi các chiến sĩ được chọn và huấn luyện kĩ”. Điệu vương mới thi hành kế hoạch đó được một năm thì chết và Ngô Khởi bị chặt tay chân ở Sở. Thương quân (tức Thương Ưởng) dạy Tần Hiếu công thi hành phép ngũ gia và thập gia liên bảo, nhà nào có tội, nhà khác phải tố cáo, nếu không thì bị liên lụy; đốt thi thư[8] mà làm rõ pháp luật; chặn những lời thỉnh cầu của tư gia mà thưởng những người có công lao với đất nước; cấm bọn đi nơi này đi nơi khác xin xỏ làm quan, hiển dương nông dân và chiến sĩ. Hiếu Công thi hành kế hoạch đó mà vua được tôn sùng, yên ổn, nước được phú cường, tám năm[9] sau chết, Thương quân bị xe xé thây ở nước Tần. Sở không dùng Ngô Khởi mà bị mất đất và loạn. Tần thi hành phép của Thương quân mà phú cường. Lời hai ông ấy đều đúng mà Ngô Khởi bị chặt chân tay. Thương quân bị xe xé thây là tại sao? Tại bọn đại thần oán[10] pháp thuật mà dân chúng ghét sự cai trị. Đời nay, đại thần tham quyền, dân chúng quen cảnh loạn còn hơn Tần và Sở thời xưa nữa, mà bậc vua chúa không có ai nghe lời phải như Điệu vương, Hiếu Công, như vậy kẻ sĩ giỏi pháp thuật làm sao được mạo hiểm cái nguy của hai ông ấy mà làm sáng tỏ pháp thuật của mình được? Do đó mà đời nay mới loạn mà không ai thực hiện nghiệp bá vương được.

[1], [2], [3] Có sách chép là Văn vương, Vũ vương và Thành vương.
[4] Chỗ này ngờ mất một câu.
[5] Nghĩa là phải đánh giặc, không nói nhảm nữa. Có sách giảng là bọn sĩ du thuyết không dám nói bậy về chiến tranh nữa.
[6] Đạo đây là pháp thuật.
[7] Nguyên văn là "giáo": có lẽ Hàn Phi muốn tỏ lòng kính trọng Ngô Khởi và Thương Ưởng.
[8] Sử không chép việc này, chỉ chép việc Tần Thuỷ Hoàng nghe lời Lý Tư mà đốt sách thôi. Thi thư là sách của Nho gia.
[9] Mười tám năm thì đúng hơn; chắc thiếu chữ thập.
[10] Nguyên văn là khổ pháp, có sách giảng là khổ vì pháp thuật.

THIÊN VII

NHỊ BÍNH

(HAI QUYỀN CỦA VUA[1])


Bậc minh chủ sở dĩ chế ngự được bề tôi là chỉ nhờ có hai cái quyền mà thôi. Hai cái quyền đó là “hình” và “đức”. Thế nào là hình và đức? Giết phạt gọi là hình, khen thưởng gọi là đức[2]. Bề tôi nào cũng sợ bị giết phạt và ham được khen thưởng, cho nên vua chúa biết tự sử dụng hai cái quyền hình và đức thì quần thần đều sợ uy của vua mà mong được vua khen thưởng. Bọn gian thần trên đời thì không vậy. Chúng ghét ai thì làm mê hoặc vua để được vua giao cho quyền trị tội ngưòi đó; chúng yêu ai thì làm mê hoặc vua chúa để được vua giao cho quyền thưởng người đó. Bậc vua chúa không giữ cho cái uy cùng cái lợi, phạt và thưởng xuất phát từ chính mình, mà nghe lời bề tôi, thưởng phạt theo ý họ thì dân chúng trong nước đều sợ bọn bề tôi đó mà coi thường vua, qui phục họ mà xa vua, đó là cái hại bậc vua chúa đánh mất hai cái quyền hình và đức. Cọp làm cho chó phải khiếp phục là nhờ nanh với vuốt: nếu cọp bỏ nanh vuốt đi, để cho chó dùng thì ngược lại nó phải khiếp phục chó. Bậc vua chúa dùng hình và đức để chế ngự bề tôi, nếu bỏ hai quyền đó, để cho bề tôi dùng thì ngược lại bị bề tôi chế ngự. Cho nên Điền Thường trên xin tước lộc để ban cho quần thần, dưới làm cái đấu cái hộc lớn hơn mẫu mực để thi ân cho trăm họ; thế là Giản Công mất cái quyền thi ân, để cho Điền Thường lấy mà dùng, rốt cuộc Giản Công bị giết.[3] Tử Hãn tâu với vua Tống[4]: “Dân thích được khen thưởng, vậy việc đó xin đại vương tự làm lấy; dân ghét bị hình phạt, việc này thần xin đảm nhận”. Thế là vua Tống mất cái quyền hình phạt để cho Tử Hãn lấy mà dùng, rốt cuộc vua Tống bị hiếp bức. Điền Thường chỉ dùng cái đức mà Giản Công bị giết; Tử Hãn chỉ dùng cái hình mà vua Tống bị hiếp. Vậy mà ngày nay bọn bề tôi dùng cả hai cái hình và đức, thì vua chúa tất nguy hơn Giản Công và vua Tống nhiều. Cho nên các vua chúa bị hiếp, bị giết, bị che lấp, lừa dối là vì bỏ cả hai cái quyền hình và đức để cho bề tôi dùng. Như vậy mà không bị nguy vong là điều không thể có được.

*
Bậc vua chúa muốn ngăn cấm gian tà, tất phải xét xem hình và danh có hợp nhau không; danh là lời nói mà hình là sự việc. Bề tôi trình bày một kiến nghị, vua theo kiến nghị đó mà giao việc cho, rồi tùy việc mà xét kết quả. Kết quả phù hợp với việc, việc phù hợp với lời nói thì thưởng; trái lại, kết quả không phù hợp với việc, việc không phù hợp với lời nói thì phạt. Lời nói của bề tôi huênh hoang, mà kết quả nhỏ thì phạt, không phải phạt vì kết quả nhỏ mà vì kết quả không phù hợp với lời nói. Lời nói của bề tôi nhũn quá mà kết quả lớn thì cũng phạt, không phải không mừng vì kết quả lớn, nhưng kết quả không phù hợp với lời nói thì công không đủ bù hại, vì vậy nên phạt. Xưa Hàn Chiêu hầu say rồi ngủ. Viên điển quan (thị thần coi về mão) sợ vua lạnh, lấy áo đắp lên cho vua. Chiêu Hầu thức dậy, thấy vậy, vui lòng, hỏi kẻ tả hữu: “Ai đắp áo cho ta đó?”. Kẻ tả hữu đáp: “Viên quan coi về mão". Chiêu Hầu bèn phạt cả viên điển y vì không làm nhiệm vụ; phạt viên điển quan vì vượt chức vụ. Không  phải là ông không sợ lạnh, mà vì ông cho rằng để bề tôi vượt chức vụ thì cái hại còn hơn là mình bị lạnh. Cho nên bậc minh chủ đối với bề tôi, không để cho bề tôi vượt chức mà lập công, không để cho lời nói không phù hợp với việc làm. Vượt chức thì chết, lời nói không phù hợp với việc làm thì bị tội. Bề tôi cứ giữ chức vụ của mình, lời nói phù hợp với việc, như vậy quần thần không thể kết bè đảng làm điều gian tà được.

*
Bậc vua chúa có hai mối lo: dùng người hiền,[5] bề tôi nhân sự hiền tài của họ mà lấn vua; mà dùng người bừa bãi thì việc tất thất bại. Vua thích người hiền thì bề tôi trau dồi bề ngoài để làm vừa lòng vua, như vậy chân tình của họ không xuất hiện, mà chân tình của họ không xuất hiện thì vua không phân biệt được đâu là chân, đâu là ngụy. Cho nên vua Việt hiếu dũng mà đa số nhân dân coi thường sự chết; Sở Linh vương thích những lưng eo mà trong nước nhiều người (nhịn ăn tới) chết đói; Tề Hoàn công hay ghen mà hiếu sắc, nên Thụ Điêu tự hoạn để được làm thái giám; ông lại thích ăn ngon nên Dịch Nha luộc đứa con đầu lòng của mình[6] để dâng; vua nước Yên là Tử Khoái thích người hiền[7] cho nên Tử Chi làm bộ tỏ ra rằng mình (thanh cao) không nhận ngôi vua[8]. Vua để lộ lòng ghét của mình thì bề tôi làm ra bộ tài năng để hợp với sở thích của vua; vua để lộ lòng muốn thì bề tôi sửa đổi tính tình thái độ để thích ứng với lòng vua mà cầu lợi. Cho nên Tử Chi làm bộ hiền nhân mà đoạt được ngôi vua; Thụ Điêu, Dịch Nha lợi dụng sở thích của vua mà lấn vua; (kết quả là) Tử Khoái chết vì nội loạn, Hoàn Công chết tới khi dòi bò ra ngoài cửa phòng[9] mà chưa được chôn. Nguyên do tại đâu? Tại vua để lộ tình dục của mình, để bề tôi lợi dụng (mà mưu lợi cho họ). Bề tôi vị tất đã yêu vua, họ chỉ tính cái lợi cho họ thôi. Bậc vua chúa không che giấu tình dục, ý tứ của mình mà để cho bề tôi có cơ hội lấn áp mình thì bề tôi học cái thói của Tử Chi, Điền Thường đâu có khó. Cho nên bảo: “Vua bỏ yêu, bỏ ghét đi thì chân tướng của bề tôi sẽ hiện, mà vua sẽ không bị che lấp”.

Chú thích:

[1] Bính nghĩa gốc là cái cán, là cầm. Ở đây bính là quyền bính, nghĩa là quyền thế nằm trong tay như cầm cái cán của vật.

[2] Chữ đức ở đây có nghĩa khác nghĩa người ta thường dùng.

[3][4] Điền Thường và Giản công; Tử Hãn và vua Tống: coi chú trang 10 thiên Ngũ đố.

[5] Chữ hiền này trỏ hạng người đa tài đa thuật, không phải hạng hiền nhân quân tử theo quan niệm Nho gia.

[6] Thụ Điêu và Dịch Nha đều là bọn gian trá được Tề Hoàn công tin dùng. Nguyên văn bản Trần Khải Thiên: thủ tử. Có bản chép là tử thủ (luộc) đầu đứa con (của mình).

[7] Chữ hiền này hiểu theo quan niệm Nho gia.

[8] Việc này chép trong Chiến Quốc sách – Yên sách -9 – -1973 Yên vương là Khoái đem nước nhường cho Tử Chi để được tiếng là hiền như vua Nghiêu (người đã nhường ngôi cho Hứa Do), nhưng Tử Chi không được người nước Yên phục, nước Yên hóa loạn, sau bị Tề đánh. Sử không chép Tử Chi mới đầu có làm bộ cao thượng như Hứa Do mà từ chối hay không.

[9] Nguyên văn bản của Trần Khải Thiên: trùng lưu xuất hộ. Có bản chép là trùng lưu xuất thi (giòi từ thây bò ra). Hai chữ hộthi chỉ khác nhau một nét chấm.
<< Lùi - Tiếp theo

HOMECHAT
1 | 1 | 156
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com