watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
12:33:0318/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Bao Thanh Thiên – Thất Hiệp Ngũ Nghĩa 1 - 25 - Trang 4
Chỉ mục bài viết
Bao Thanh Thiên – Thất Hiệp Ngũ Nghĩa 1 - 25
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tất cả các trang
Trang 4 trong tổng số 10

Hồi Thứ Sáu

Được Cổ Kim bồn, kết duyên gái đẹp,
Dùng Công Tôn Sách, để dọ người gian.


Bao Hưng vâng lệnh Bao Công đem thư về nhà, chẳng bao lâu trở lại phủ bẩm rằng: "Con đem thư về nhà, ông bà đều mạnh giỏi, nghe Tướng công làm Phủ doãn cả nhà mừng lắm, ông bà có cho con năm chục lượng bạc. Cậu cả mợ cả cũng có cho con ba chục lượng. Riêng mợ cả có gửi cho Tướng công một cái gói, nói rằng trong đó là cái gương Tướng công đem nhờ cất giùm ngày xưa, và có thuật cho con nghe một chuyện ngộ lắm. Số là từ lúc Tướng công ra đi, mợ cả thấy gương tỏ rạng mới đem ra treo trong nhà, một ngày kia con Thu Hương đi ngang cửa mợ cả, trượt chân ngã một cái vỡ đầu máu chảy lênh láng, bèn vào nhà lại chỗ treo gương soi xem. Ai dè nó thấy máu nhiều quá tối mắt phát điên lên, reo to một tiếng đâm đầu chạy miết về nhà đè mợ hai móc tròng con mắt bên tay phải. Bây giờ nó bị giam vào một nơi như con quỷ sống, còn mợ hai thời chết đi sống lại đôi ba lần, đau ốm liên miên, tìm thầy thuốc chữa cũng chưa hết”. Bao Hưng vừa nói vừa dâng gương lên rồi tiếp rằng: "Đó, rồi con đi lại nhà cậu hai, thấy cậu buồn lắm song cũng có cho con ba lượng bạc. Con ở lại nhà ông bà một ngày, ngày sau qua làng Ẩn Dật dâng thư. Lý công và phu nhân mừng lắm nói ít lâu sẽ đưa tiểu thư qua, và có thư trước cho Tướng công đây”.  Nói đoạn đưa thư lên, Bao Công xem qua lập tức sai bảo gia nhân sửa soạn phòng the, đặng chờ người ngọc.

Chẳng bao lâu, Trương phu nhân cùng Lý tiểu thư tới kinh sư. Bao Công chọn được ngày lành tháng tốt kết duyên với Lý tiểu thư. Loan phụng nên đôi,  Tấn Tần hòa hợp. Bao Công được sánh đôi với Lý tiểu thư là người trinh tịnh, đoan trang thời vui không biết bao nhiêu. Tiểu thư có một bảo vật tên Cổ kim bồn là một vật quý trên đời ít có, nhưng Bao Công không để ý tới cho lắm. Ít lâu Trương phu nhân từ giã rể con trở về làng ẩn Dật, trong đám bộ hạ có một đứa con tên là Lý Tài, lanh lợi khôn ngoan nên phu nhân để lại hầu hạ vợ chồng Bao Công.
Ngày kia Bao Công đương ngồi trong phủ, chợt thấy một người tuổi ước năm mươi, miệng kêu oan chẳng dứt, liền cho đòi vào hỏi rằng: "Chẳng hay ông già họ là chi, có điều gì oan ức?" Người ấy lại bẩm rằng: "Tôi họ Trương tên Trí Nhân, ở tại làng Thất Lý, có một người em họ tên là Trương Hữu Đạo, buôn bán, nhà ở xa xôi ước ba dặm. Hôm ấy tôi thấy nó lâu qua, mới tới thăm nó, té ra nó đã chết được mấy hôm rồi, hỏi thăm em dâu tôi là Lưu Thị xem em tôi đau bệnh gì, sao chết không cho tôi hay. Nó nói chồng nó đau bụng chết, và vì nó đơn chiếc nên chưa nhắn tin kịp. Nghe vậy tôi không tin, đi cáo với quan huyện xin đào tử thi lên xét. Đến khi đào lên quả không thương tích gì, tôi đã đau lòng cho em tôi chết oan không ai rõ. Tưởng chuyện đã yên, thế mà em dâu tôi lại bảo tôi vu cáo cho người lương thiện, xin phạt tôi hai chục hèo. Lạy thượng quan, tiểu nhân nghĩ chắc là Trương Hữu Đạo không phải bệnh mà chết, song vì trời cao đất dày, kêu không tới, vạch không thông, nghĩ có thượng quan công minh xin thương tình thẩm xét”. Bao Công nghe xong hỏi rằng: "Em của ông thường hay có bệnh hay không?". Trí Nhân đáp: "Dạ thưa không”. Bao Công lại hỏi: "Ông không gặp em ông, ước bao lâu?". Trí Nhân đáp: "Anh em tôi ở với nhau rất hòa thuận, thường hay qua lại thăm nhau, cứ hai ba ngày gặp nhau là thường. Mới đây, năm ngày tôi không thấy nó, nên đi thăm, té ra việc xảy như vậy". Nói rồi khóc òa, Bao Công nghe, nói rằng: "Năm ngày trước vẫn còn, ngày thứ sáu qua thăm thì đã chết được ba hôm, ắt sau khi đi thăm anh về một đôi ngày thời chết, vậy cũng có duyên cớ chi, chứ chẳng lẽ bỗng dưng mà chết". Nghĩ đoạn liền viết trát đòi Lưu Thị rồi lui vào thư phòng tạm nghỉ.

Vào tới thư phòng Bao Hưng dâng lên một bao thư nói của người học trò đưa tới. Bao Công tiếp lấy xem, thời là thư của Liễu Nhiên hòa thượng tiến cử người hiền, liền cho mời tên học trò vào. Chào hỏi xong xuôi, Bao Công hỏi tên họ, người học trò đáp: "Văn sinh họ Công Tôn tên Sách, nhân lận đận trường ốc, lưu lạc non xanh, may vào chùa Tướng Quốc gặp hòa thượng Liễu Nhiên thật lòng hậu đãi và có thư tiến dẫn tới thượng quan, xin rộng lòng dung nạp kẻ hèn, sẽ hết sức đền ơn tri ngộ". Bao Công thấy người ấy ăn nói gọn gàng, cử chỉ đoan trang, nhân hỏi qua sách vở điển cố, nhất thiết đều đối đáp được cả.  Bao Công mừng rỡ vô hạn. Đương lúc chuyện trò chợt thấy tả hữu vào bẩm rằng đã đòi Lưu Thị tới, liền kêu Lý Tài hầu đãi Công Tôn Sách, còn mình cùng Bao Hưng đi ra công đường, đòi Lưu Thị vào. Lưu Thị trạc độ đôi mươi, con người lanh lợi, bước vào công đường không có vẻ sợ sệt. Bao Công cất tiếng hỏi rằng: "Mi có phải Lưu Thị vợ của Trương Hữu Đạo chăng?".  Lưu Thị đáp phải. Bao Công hỏi tiếp: "Chồng của mi đau bệnh gì mà chết?" Lưu Thị thưa: "Chiều hôm nọ chồng thiếp đi xóm về, ăn cơm rồi đi ngủ, đến canh hai phát lên đau bụng, làm cho thiếp kinh hoàng vô cùng, chạy thuốc men cho uống, ai dè mạng cùng số vắn một lát thời chết “. Nói dứt lời cất tiếng khóc rống lên. Bao Công vỗ án hét to lên rằng: "Ta hỏi chồng mi đau bệnh gì mà chết, sao lại nói rồng rắn quá vậy?” Lưu Thị thưa: "Bẩm lão gia chồng thiếp bị chứng đau bụng mà chết “. Bao Công hỏi: "Đã đau bụng mà chết, sao lại không cho anh chồng mi là Trương Trí Nhân hay? Căn cớ làm sao, mau khai ngay". Lưu Thị đáp: "Thiếp chẳng tin cho Trương Trí Nhân hay một là vì bận việc mà quên, hai là không dám cho anh hay".  Bao Công hỏi: "Sao lại không dám cho hay?". Lưu Thị đáp: "Vì mỗi lần anh ấy qua nhà, khi thấy vắng người thì hay chọc ghẹo thiếp, thiếp cho hay rằng chồng thiếp đã chết, anh ấy đã không khóc, lại còn buông nhiều lời xằng bậy, và làm nhiều điều nhơ nhớp xấu xa, miệng người tử tế không thể thuật lại được. Thiếp thấy người như vậy mắng cho một mẻ thích đáng.  Anh ấy hổ thẹn ra về. Ai dè thẹn quá hóa giận, đã chẳng biết tỉnh ngộ thời thôi, lại còn tới huyện vu cáo rằng em anh ta chết ức, xin mở hòm xem thây té ra thây không vết tích gì, nên bị quan huyện đánh cho hai chục hèo. Tưởng đâu đã ăn năn mà chừa. Đến nay lại còn đến lão gia tố cáo, thật khốn nạn cho thiếp biết bao nhiêu, chồng chết, nước mắt chưa ráo, mà thêm khổ vì anh chồng nữa, tấc gan càng nát, trăm lạy lão gia, xin lấy ngọn đèn công lý mà soi chỗ tối tăm cho phận góa bụa này nhờ ơn". Nói dứt lại khóc tức tưởi.  Bao Công thấy Lưu Thị miệng lanh hơn pháo, lưỡi bén như gươm, quyết chẳng phải con người lương thiện, bèn nghĩ rằng: "Chuyện này cũng khó, nếu không đủ chứng cớ thời không vạch được oan, phải tạm ít lâu sai người thám thính “. Nghĩ rồi liền nói với Lưu Thị rằng: "Bổn quan nghe lời mi khai gian ngay chưa rõ, song bị người vu oan như thế, lẽ cũng khá thương, vậy tạm về, ba ngày nữa sẽ tới công đường hầu xét “. Lưu Thị dạ dạ lui ra.

Bao Công lui vào thư phòng đưa tờ khẩu cung cho Công Tôn Sách coi, Công Tôn Sách xem xong nói rằng: “Cứ như vãn sinh xem ở khẩu cung đây, thì Trương Trí Nhân nghĩ chẳng lầm, song vì Lưu Thị khôn lanh giảo quyết, nên phải tra xét cho minh bạch mới có thể thuyết phục nó được". Bao Công hỏi: "Nếu vậy phải làm sao?". Công Tôn Sách nói: "Đợi vãn sinh giả đi dò thăm, chừng nào có cớ duyên gì, sẽ trở về bẩm báo". Bao Công nhận lời.
Công Tôn Sách thay hình đổi dạng làm một thầy thuốc rong, tay xách chiêu bài, vai mang rương thuốc, đi ra xăm xăm tới làng Thất Lý. Dò xét nhọc nhằn cả ngày mà không ra manh mối, tính trở về phủ lo phương khác, đi quanh quẩn thế nào lại tới một cái quán kia tại trấn Du Lâm tên là Hưng Long điếm, bèn đi vào kêu nhà hàng dọn cơm thịt cho mình ăn.  Đương ngồi ăn, Công Tôn Sách chợt thấy một đám đông người dắt ngựa đi vào, trong ấy có một người lùn lùn mặt đen, cất tiếng rổn rảng rằng: "Ai trong đó mau mau nhường chỗ cho chúng ta ngồi". Dứt tiếng thời có một người khác bước tới can rằng: "Tứ đệ đừng la lối!". Nói rồi bảo chủ quán rằng: "Xin chủ quán nói lại với quan khách chịu phiền rời vào trong, nhường hai phòng này cho chúng tôi vì nội bọn đông lắm".  Chủ quán lăng xăng nói với Công Tôn Sách, Công Tôn Sách bằng lòng, nhà hàng dọn sang bàn mé sau.
Bọn kia cởi yên nhốt ngựa, cất đẹp hành lý, kêu dọn rượu thịt, rồi xúm nhau ngồi vào ăn uống. Công Tôn Sách ghé nhìn thấy ngồi trên bốn người, còn bao nhiêu ngồi bàn dưới. Chúng đương ăn uống. Người đen và lùn hỏi ba người kia rằng: "Mai đây chúng ta vào phủ Khai Phong e người nhớ hờn cũ, không thu dụng thời tính sao?". Người mắt tròn như trái táo nói: "Tứ đệ khéo lo xa, tôi chắc Bao Công không phải là người hay câu nệ như vậy đâu”. Công Tôn Sách nghe dứt lời, đứng dậy bước qua chắp tay nói với bốn người ấy: "Nếu bốn ngài cần lên phủ Khai Phong, kẻ bất tài này xin ra sức tiến dẫn". Bốn người lật đật đứng dậy, người lớn hơn hết hỏi: "Túc hạ là ai, xin mời ngồi chuyện vãn chơi cho vui". Công Tôn Sách khiêm tốn đôi ba lần mới ngồi, ai nấy xưng tên họ, thì ra bốn vị hảo hớn kia là Vương Triều, Mã Hán, Trương Long,  Triệu Hổ ở Thổ Long Cang, trước đã có ý bỏ tà theo chánh, nay nghe Bao Công làm Phủ Doãn nên bỏ sơn trại phân phát tiền bạc cho lâu la, đem kẻ tâm phúc ít người xuống phủ Khai Phong xin thu nạp.
Công Tôn Sách cùng bốn người chuyện trò, ăn uống vui vẻ lắm, tới canh hai tiệc mới tan.
Đó thật là:
Vì thanh chính xa gần nức tiếng
Nên anh hùng lặn lội tới hầu.

Hồi Thứ Bảy

Thiết tiên miếu cứu xong tớ nghĩa,
Thất lý thôn dò được án nghi.

Nói về bốn anh em họ Vương, ăn nhiều uống đậm, nên đặt lưng nằm xuống thời ngủ mê man. Tới canh tư giật mình thức dậy, thấy trăng tỏ làu làu tưởng đâu trời đã sáng, nên đánh thức cả bọn, sắm sửa lên đường. Còn Công Tôn Sách cũng vì lo lắng mà trọn đêm không nhắm mắt, nghe bọn kia thức, thời cung vội vàng trổi dậy, thấy người hầu chờ trước quán (ngựa của anh em họ Vương nhường cho Công Tôn Sách) liền rửa mặt gỡ đầu, lấy chiêu bài, mang thùng thuốc, tính tiền trả cho nhà hàng, rồi cùng nhau lên ngựa, nhằm phủ Khai Phong đi tới.
Vầng trăng lãng đãng, vó ngựa rập ràng, ngọn cỏ sương dầm, bước đường quạnh quẽ. Ngựa chạy lần tới một khóm rừng, lúc ấy là đầu canh năm, chợt thấy trước mặt có một tòa miếu, thoáng qua một bóng người, nhìn rõ là đứa con gái mặc áo đỏ, chạy tới cửa miếu lách mình chui vào. Ai nấy xem rõ đều lấy làm lạ Trương Long nói: "Đêm khuya thanh vắng mà con gái đi vào miếu làm chi, chắc cũng có duyên cớ, nhân trời chưa sáng chúng ta nên vào đó coi thử thế nào?" Mã Hán bảo bọn đi theo đem ngựa và hành lý vào trong rừng tùng núp đợi, còn năm người bước tới cửa miếu thấy có tấm biển đề ba chữ "Thiết Tiên Quan".  Công Tôn Sách nói: "Lạ chưa? Người con gái mới đi vào, không nghe đóng cửa, mà bây giờ cửa lại khít cứng như vậy?". Triệu Hổ chạy lại co tay đấm vào cửa rầm rầm, vừa đấm vừa kêu: "Đạo nhân mau ra mở cửa". Chợt nghe trong cửa có tiếng hỏi: "Ai đó? Làm cái gì mà đêm hôm tăm tối lại động cửa rầm rầm như vậy?”. Vừa dứt tiếng thời cửa mở ra, có một vị đạo nhân bước tới. Công Tôn Sách vội vàng thi lễ và nói: "Chúng tôi là người đi đường, nhân nóng công việc đi quá sớm, bây giờ khô cổ khát nước xin cho vào nghỉ chân, và nhờ chén trà nhấp giọng, rồi sẽ dâng ít nhiều lễ mọn để hương khói". Đạo nhân nói: "Khoan đã! Để tôi vào bạch lại với viện trưởng mới được".  Đương nói chuyện lôi thôi, chợt thấy ở trong có một vị đạo sĩ mày rậm mắt to, trán cao lưng lớn đi ra nói rằng: "Quý vị muốn uống trà, thời có ngại gì, xin mời vào”. Năm người đi theo tới đại diện, thấy đèn đuốc sáng chưng, chia ngôi chủ khách cùng ngồi. Hỏi chuyện ít câu, đạo sĩ đi vào trong lo trà nước. Trương Long, Triệu Hổ nóng chuyện khi nãy, nên giả đi tiểu, lỏn ra sân sau tìm người con gái áo đỏ. Đi vòng quanh miếu thấy hiên sau có một cái chuông lớn, lại gần nghe có tiếng rên. Triệu Hổ nói: "Chắc ở trong này”.  Trương Long bảo rằng: "Đâu, hiền đệ xách lên coi".  Triệu Hổ đỡ lên, Trương Long thò tay vào kéo người trong ấy ra, thời là một ông già bị trói co lại, miệng nhét đầy những bông vải, liền cởi trói và móc bông trong miệng ra, một chập ông già tỉnh lại than rằng: "Thôi, chết ta rồi! Khổ lắm!" Trương Long hỏi: "Ông là ai, sao lại bị chúng nó bắt nhốt trong này vậy?". Ông già đáp: "Tôi là Điền Trung, người ở Trần Châu.  Nhân con Bàng Thái Sư là An Lạc hầu Bàng Dực vâng chỉ đi chẩn tế cho dân nghèo, nó tới nơi không tuân lệnh vua, lại lập ra một cái hoa viên, cướp bắt con gái dân gian đem về hãm hiếp. Chủ nhân tôi là Điền Khởi Nguyên, chủ mẫu là Kim Ngọc Tiên, nhân lão bà bị bệnh, cắt thịt nấu thuốc cho uống, đến khi bệnh lành chùa thắp hương cầu nguyện. Ai dè Bàng Dực thấy người có sắc, sai thủ hạ bắt đi và bắt luôn chủ nhân tôi cầm trong ngục, lão bà ở nhà nghe tin như vậy, khóc ngất lên rồi chết. Tôi lo lắng chôn cất xong, tính lên Kinh cáo tố, đi nửa đường trời tối ghé Thiết Tiên quan này ngủ trọ nghỉ chân. Lũ đạo nhân trong miếu thấy hành lý tôi nặng nề tưởng là nhiều tiền, sắp sửa hãm hại, vừa mới ra tay, thời nghe tiếng động ngoài cửa, nên mới đem nhốt vào đây, nếu chậm một phút nữa thời mạng già này đã ô hô rồi. Tôi chết không tiếc chi, ngặt nỗi oan kia không ai tố cáo".  Trong khi ông già thuật chuyện, Triệu Hổ liếc thấy bên cạnh có một tên đạo sĩ đứng rình, bèn nhảy tới đá cho một đá nhào lăn xuống đất. Nào hay đứa hung đạo kia ở nhà trong đương lo quạt trà đãi khách dòm không thấy Trương Long, Triệu Hổ, mới sai tiểu ra kêu, lâu quá không thấy trở ngại, biết là có chuyện chẳng lành, hắn bèn trở vào phòng kín, thay đồ giáp xách đao bén, ra hậu viện xem sao. Khi ra tới nơi thấy tiểu bị đã ngã nằm dưới đất, máu giận phừng phừng, liền nhảy tới huơ đao chém Trương Long.  Trương Long mắt sáng như sao, mình lẹ như chớp nháng, nhảy ra tránh khỏi lưỡi đao, đạo nhân nhảy tiếp theo chém một đao nữa. Trương Long tay không có một tấc sắt, một khúc cây chống đỡ, khốn lắm không biết làm sao, cứ nhảy qua nhảy lại né lưỡi đao mà thôi. Đạo nhân chém không trúng tức lắm, cứ xông tới chém mãi. Trương Long ra hết thế để bắt đao, song đạo nhân võ nghệ cũng khá, nên không thể đè bẹp được. Trương Long cầm cự như vậy hồi lâu, may sao Vương Triều chạy tới. Đạo nhân quay lại chém Vương Triều, Vương Triều liền thủ thế "Suy song vọng nguyệt” chờ ngọn đao gần tới, luồn mình nhảy vào, đạo nhân trống thế, bị Trương Long ôm ngang eo ném ra xa, ngọn đao văng tuốt. Triệu Hổ nhảy tới đạp trên lưng đè xuống, còn Trương Long chạy kiếm dây, trói lại, dắt ra trước điện. Rồi mấy người chia nhau tìm kiếm khắp miếu không thấy ai nữa, vòng lại chính điện thấy tượng Bồ Tát mặc áo đỏ, biết người con gái vào miếu hồi khuya là Bồ Tát hiện thân để cứu Điền Trung khỏi nạn, ai nấy đều tôn niệm vô cùng.

Bây giờ Công tôn Sách mới chạy vào rừng tùng gọi những người đi theo đem hành lý ra, cho bốn người áp giải hai tên đạo nhân tới huyện Tường Phù, quan huyện làm tờ thân báo lên phủ. Rồi tất cả cùng Điền Trung ra khỏi miếu nhằm phủ Khai Phong đi tới.
Khi tới phủ, bốn anh em họ Vương tạm ở ngoài, một mình Công Tôn Sách vào ra mắt Bao Công, đem chuyện mình đi thuật rõ lại một lượt. Thuật xong công Tôn Sách đứng dậy xin Bao Công cho mình đi dò xét chuyện Lưu Thị nữa. Bao Công bằng lòng, Công Tôn Sách mang rương thuốc ra đi.
Công Tôn Sách đi rồi, Bao Công kêu Bao Hưng dắt Điền Trung vào thư trai hỏi rõ nguồn cơn, rồi cho xuống ở dưới trà phòng, đợi lúc thẩm xét sẽ kêu tới, không ló mặt ra, e hở môi lậu tiếng mà Bàng Phủ biết chuyện. Lại truyền Bao Hưng mời bốn dũng sĩ vào ở trong ban phòng chờ khi sử dụng.
Công Tôn Sách ra khỏi nha môn đi miết tới làng Thất Lý, vừa đánh chiêng beng beng, miệng vừa rao lớn rằng: "Bà con cô bác, ở hai bên đường, nghe cho tỏ tường, có thầy thuốc giỏi, đạo y sành sỏi, học thức uyên thâm, một tấm từ tâm, cứu đời giúp chúng, người đều truyền tụng, thuốc tới bệnh thuyên, bệnh quỉ thời có thuốc tiên, lo gì chẳng mạnh, đừng có giấu lánh, để bệnh trầm trầm, nuôi bệnh lâu ngày, cũng như nuôi cọp". Đương rao như vậy chợt có một bà già đứng bên đường đón lại. Công Tôn Sách hỏi: "Tôi là thầy thuốc phương xa mới tới, lão bà muốn dùng thuốc hay sao?". Bà già đáp: "Con dâu của lão đau ốm đã lâu nên đón tiên sinh tới nhà chẩn trị". Công Tôn Sách nghe nói nhận lời, bà già dẫn đường đi trước. Về tới nhà bà già, mời ngồi, rồi đem chuyện mình ra kể: "Lão họ Vưu, chồng khuất sớm, có một trai tên là Cẩu Nhi, làm trưởng công cho Trần Đại Hộ (Trần ứng Trực) nay dâu lão ở nhà mang bệnh, ăn uống không được đã hơn nửa tháng nay, xin tiên sinh coi giùm mạch, bốc thuốc cho nó". Công Tôn Sách hỏi: "Con dâu bà bây giờ ở đâu?". Bà già đáp: "Ở buồng bên kia, để tôi vào cho nó hay". Nói rồi chạy vào buồng. Công Tôn Sách ngồi ngoài nghe tiếng bà già kêu: "Nè con! Nè con! Mẹ mời được thầy coi mạch bốc thuốc cho con đây, Rồi có tiếng đàn bà trả lời rằng: "Mẹ ơi! Đừng mời làm gì, vì một là bệnh con không lấy gì nặng lắm, hai là nhà không tiền, lấy gì trả ơn cho người ta". Bà già nói: "Con ơi! Con không nghe thầy nói cứu kẻ nghèo làm phước không lấy tiền và nói rằng nuôi bệnh như nuôi cọp đó sao? Con nên để cho thầy xem bệnh, cho thuốc mau mạnh, ấy cũng đỡ chút lo cho mẹ, mẹ chỉ có mong nhờ ở con, chớ không trông gì tới con đẻ của mẹ nữa". Tiếng người đàn bà đáp rằng: "Mẹ đã vậy thì mời thầy vào đây”. Rồi bà lão vội vàng chạy ra mời Công Tôn Sách nói đi chữa bệnh cho có cớ để thám thính, chớ không dè anh ta học sâu biết rộng mà nghề thuốc cũng tinh tường. Coi xong mạch rõ cả căn bệnh, Công Tôn Sách nói với bà già rằng: "Tôi xem mạch là thai mạch". Vưu Thị nói: "À, phải rồi đâu chừng bốn năm tháng nay“. Công Tôn Sách tiếp: "Theo ý tôi nghĩ thời bệnh này bị trí não sinh ra, vì uất ức buồn rầu quá độ, nếu không sớm trị, e mắc chứng lao, vậy phải nói rõ nguyên do rồi mới bốc thuốc được". Vưu Thị nghe nói khen rằng: "Thật thầy là thần thánh nên nói không sai, để lão thuật lại thầy nghe. Nguyên con tôi làm trưởng công cho Trần Đại Hộ nhọc nhằn mới ăn được đồng tiền, ngày kia nó về đem theo nhiều bạc". Nói tới đó người đàn bà trong buồng chặn lời rằng: "Mẹ bất tất phải nói tới chuyện đó”. Công Tôn Sách nói: "Phải nói, không nói thời làm sao tôi rõ nguyên do mà trị bệnh". Vưu Thị nói: "Thầy nói phải, con lo dưỡng bệnh là tốt, có sao đâu mà ngại”. Nói rồi tiếp rằng: "Lão thấy nhiều bạc lòng phát nghi, hỏi con lão thì nó đáp rằng: "Chủ nó là Trần Đại Hộ, nhân tư thông với vợ Trương Hữu Đạo bên làng Thất Lý, một hôm đến chơi rủi gặp chồng nàng, bèn đem lòng ghen tức, trở về lập mưu giết cho chết đi, mới cho nó bạc". Nói tới đây người đàn bà trong buồng cũng chặn lời rằng: "Mẹ nói chuyện chi đó?".  Vưu lão bà nói: "Ai đâu mà ngại, chỉ có thầy đây mà ngại gì". Nói rồi thuật tiếp: "Cho nó bạc bảo nó làm việc đó. Tôi nghe nói sợ lắm, bảo đừng làm, vợ nó cũng khuyên can quỳ dưới đất khóc với nó, nó đã chẳng nghe, lại đạp vợ nó một đạp rồi bỏ đi. Sau đó nghe nói Trương Hữu Đạo chết, vợ nó vừa bị đạp, vừa buồn rầu quá nên sinh ra bệnh". Công Tôn Sách nghe xong, cầm bút biên toa đưa cho Vưu bà mà rằng: "Phương thuốc này rất kỳ bí, dùng hồng miêng đốt thành tro, hòa chung với rượu uống thời rất hoạt huyết an thai". Vưu lão bà nhớ rồi, Công Tôn Sách lại hỏi: "Con bà làm xong việc ấy, Trần Đại Hộ không có chi đáp tạ nữa sao?". Vưu lão bà nghe liền hỏi đáp: "Nghe nói Trần Đại Hộ có hứa cho nó sáu mẫu đất".  Tôn Sách hỏi: "Vậy chớ có giấy tờ bút tích gì làm chắc không?" Vưu bà lão nói: "Không có! Không biết rồi nó có hay không nữa?". Tôn Sách nói: "Vậy sao được, nó đã cậy con bà làm chuyện như vậy, hứa cho đất lại không bút tích gì, sau này mẹ con bà lấy gì làm chắc, thôi để tôi viết thế cho bà một tờ trình đem đến quan chiếu theo đó mà đòi đất". Vưu lão bà nghe nói mừng lắm. Công Tôn Sách mở rương thuốc ra, lấy giấy viết trao cho lão bà, rồi mang rương thuốc từ tạ ra đi. Vưu lão bà nói: "Nhọc lòng thầy quá, không có lễ tạ, lại chẳng một chén trà giải lao, thật không phải". Công Tôn Sách nói: "Không sao đâu bà chớ ngại, bổn phận tôi phải lo cứu người, đó là sự thường “. Nói rồi vội vàng đi, lòng mừng khấp khởi vui sướng biết chừng nào, đi vội về phủ Khai Phong.
Thật là:
Ý đẹp bởi nghe tin đích xác,
Lòng vui vì rõ chuyện ly kỳ.

HOMECHAT
1 | 1 | 264
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com